Thiền Tông Việt Nam
Tông Môn Cảnh Huấn 3
60. Dạy chư Ni Trúc Lâm ra làm Phật sự
Đọc tiếp →

Ngày 28/11/ Nhâm Ngọ - 31/12/2002

Thời gian tới đây Thầy nghỉ dạy, trong chúng nội viện Ni tại Trúc Lâm có một số vị tu học đã mãn ba năm, sắp trở về bổn tự phụ thầy tổ, hoặc ra làm Phật sự tùy theo nhân duyên của mỗi người. Lúc còn ở đây, Thầy đã tận tâm hướng dẫn và chỉ dạy tất cả, còn thực hành được hay không thì tùy vào sự tu tập mỗi người. Sắp tới là giai đoạn ra làm Phật sự, phải tự đương đầu với nhiều thứ khó khăn, trách nhiệm rất nặng nề. Vì vậy, trước khi rời đi, Thầy có vài lời nhắc nhở những điều thiết yếu: 

1. Phải nhớ sở nguyện của mình tu là vì giải thoát sanh tử, chứ không phải để được no cơm ấm áo, được sung sướng bản thân. Vì vậy ở đâu, hoàn cảnh nào cũng đừng lơ là, đừng quên mục đích ban đầu.

2. Những gì đã học hiểu thì nhớ ứng dụng tu. Đó là con đường chân thật, nên làm gì ở đâu tụi con cũng phải trung thực với đường lối mình đã được học, tiếp tục ứng dụng tu và đem ra hướng dẫn huynh đệ cùng tu.

3. Là người lớn thì phải gương mẫu. Muốn gương mẫu thì đức hạnh phải tốt, trang nghiêm, không nên cẩu thả, xem thường. Ở đây mình là chúng nên có thể cười giỡn, sai phạm chút ít cũng không sao, nhưng khi chịu trách nhiệm hướng dẫn huynh đệ, với tư cách là người chị, người thầy thì gắng nhớ lúc nào cũng phải nghiêm chỉnh, để cho đàn hậu tấn có chỗ nương tựa. Đừng nên khinh suất như lúc mình còn ở trong chúng, dễ làm cho lớp trẻ mất lòng tin. Điều đó không tốt.

4. Ở đây, trên có thầy dưới có huynh đệ, muốn nói muốn làm gì đều trình thưa đàng hoàng. Mai kia về với thầy tổ cũng phải nhớ nghiêm chỉnh, làm chuyện gì phải thưa với những bậc trên trước, xin ý kiến rồi hãy làm, nếu không được phép thì đừng làm. Như vậy mới không bị lỗi đi học đạo về ngang ngược, muốn làm gì thì làm, không kể người lớn kẻ nhỏ. Như vậy sẽ mang tiếng Thầy không biết dạy tụi con.

5. Ở đây, Thầy không bao giờ đặt kinh tế trên đạo đức, mà phải đặt đạo đức lên trên tất cả. Cho nên làm việc gì Thầy cũng không xin tiền bạc của ai hết. Tăng Ni, Phật tử phát tâm cho hoặc cúng thì Thầy nhận, chứ không nài nỉ cầu xin hay chiều chuộng lấy lòng. Thầy lấy tâm làm đạo, ai mến đạo thì đến với mình, còn không thì thôi. Không vì muốn được việc mà chiều chuộng người, riết rồi mất mình. 

Nên nhớ, lúc nào cũng phải giữ tâm công bằng. Đừng thấy người này khá giả mình chiều, người kia rộng rãi mình đòi hỏi quá nhiều, thấy người nọ nghèo mình khinh khi... Ai phát tâm cúng dường, nếu đó là việc đạo đức hợp pháp thì nhận, còn không thì thôi, chứ không vì tình cảm đòi hỏi ép uổng người khác cúng dường. Là người có trách nhiệm với Tam bảo thì tiền bạc, đồ đạc v.v... tất cả phẩm vật cúng dường đều phải rõ ràng, nghiêm chỉnh. 

Năm điều Thầy dạy đó, nếu nhớ ứng dụng thì các việc Phật sự dễ thành tựu. Lợi mình, lợi người đều được tốt đẹp. 

Đạo Phật là đạo cứu khổ ban vui cho chúng sanh. Cứu khổ là cứu khổ nào? Ban vui là ban vui gì? Biết rõ điều đó tụi con sẽ thấy trách nhiệm của mình cụ thể hơn. 

Người ta bệnh hoạn mình cứu cho họ được lành, người ta đói thiếu mình cứu cho họ được no ấm, người ta tật nguyền mình cứu cho họ hết tật nguyền, phải vậy không? Nhà Phật dạy, người tu phải có lòng từ bi cứu giúp chúng sanh nên hành hạnh bố thí. Bố thí gồm có: Một là bố thí tài, hai là bố thí pháp, ba là bố thí vô úy. 

Bố thí tài thì có nội tài và ngoại tài. Đức Phật đặt bố thí tài ra trước, tức là cứu khổ. Bố thí ngoại tài là đem tiền bạc của cải giúp đỡ người nghèo khó, như những vị làm từ thiện. Người đói mình giúp cho qua cơn đói, người khổ mình giúp cho qua cơn khổ, đó là bố thí ngoại tài. Nếu vậy người không có tiền của, làm sao bố thí? Cho nên có bố thí nội tài, tức là đem sức lực của mình giúp cho người. Như người gặp cơn bệnh hoạn mà đơn độc không có người thân, mình chở họ tới bệnh viện, tức là không có của mà có công giúp họ. Hoặc coi mạch cho thuốc để người ta bớt bệnh, đó cũng thuộc về bố thí nội tài. 

Bố thí tài không chưa đủ, phải hành hạnh thứ hai là bố thí pháp. Bố thí pháp bằng cách nào? Bố thí tài thì cứu được khổ đói rét, khổ bệnh hoạn, khổ gặp tai nạn... Bố thí pháp cứu được cái khổ mê lầm. Bố thí tài là cứu cái khổ về thân. Bố thí pháp là cứu sự mê lầm của con người. Trong Phật pháp, bố thí pháp là một việc lớn, vì cứu khổ vĩnh viễn cho chúng sanh. Bố thí tài là phương tiện, bố thí pháp là cứu cánh, là gốc của người tu. 

Kế bố thí pháp là bố thí vô úy. Bố thí vô úy có một phần là công sức, một phần là pháp, nhờ pháp mà không sợ sệt. Khi người lo âu sợ hãi vì một điều gì đó, mình giúp đỡ cho họ vượt qua nỗi lo sợ. Hoặc dùng Phật pháp an ủi, chỉ cho họ lẽ thật để họ tự thoát sợ hãi. 

Chúng ta cần phải hiểu ý nghĩa cứu khổ chúng sanh trong đạo. Phật dạy sáu đường luân hồi, trong đó có ba đường lành và ba đường dữ. Ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh là ba đường tội lỗi luôn chịu cảnh khổ. Ba đường lành là trời, người, a-tu-la. Người bố thí nội tài, ngoại tài sẽ được các quả lành. Trong ba đường lành, gần thì làm người được khá giả giàu sang, khá hơn nữa thì tiến lên thành a-tu-la, cao hơn nữa là sanh lên cõi trời hưởng phước.

Với người cư sĩ, Phật dạy quy y Tam bảo, giữ năm giới làm nhiều thiện nghiệp để ra khỏi đường ác, đi đường lành như cõi người, cõi trời. Bố thí pháp là dạy họ phải tu để giác ngộ, không phải tu để được hưởng phước lành, rồi chìm xuống nổi lên mãi trong lục đạo luân hồi. Như vậy bố thí pháp mới cứu người ra khỏi sanh tử. 

Người xuất gia phải biết rõ lập trường của mình, không nên chạy theo phước sanh diệt thế gian, hãnh diện cho đó là đủ. Thật sự chúng ta tu là để giải thoát sanh tử, muốn giải thoát sanh tử thì phải giác ngộ, không giác ngộ thì không bao giờ giải thoát sanh tử. Người đời muốn cuộc sống đời này tốt, đời sau tốt hơn nên Phật dạy quy y Tam bảo, giữ Ngũ giới, hành thiện tích phước. Người xuất gia, Phật dạy lấy Tam vô lậu học làm nền tảng tu hành. Tu hành phải có giới, định, tuệ. Có tuệ mới giải thoát sanh tử, mà không có giới, định thì không có tuệ nên giới, định, tuệ phải đầy đủ. 

Nhờ giữ giới tâm bớt chao đảo, nhờ tu thiền tâm được an định, nhờ an định mới có trí tuệ giác ngộ, ra khỏi sanh tử. Đó là gốc tu hành. Cho nên người mới tu phải học nhiều, bây giờ mới chập chững chứ chưa chuyên ròng. Tu tập lâu dần, gác hết mọi việc không lo lắng vướng bận gì, việc học cũng không còn, một tâm chuyên nhất mới được an định, rồi đi tới trí tuệ giác ngộ giải thoát. 

Ngày nay, tụi con sắp rời khỏi thiền viện để gánh vác những việc mới, Thầy dạy cho biết rõ mục đích cứu khổ chúng sanh là cứu khổ mê lầm của họ. Trong kinh A Hàm, Phật dạy: “Cái khổ bị thiêu đốt ở địa ngục chưa phải là khổ, cái khổ bị đói khát của ngạ quỷ chưa phải là khổ, cái khổ bị kéo xe kéo cày của súc sanh chưa phải là khổ, chỉ si mê không biết lối đi mới là khổ”. Phật xác định rất rõ ràng, cứu khổ chúng sanh không phải chỉ dạy cho người ta biết làm lành lánh dữ, tuy việc đó cũng tốt nhưng chưa phải cứu cánh, làm sao cho người hết mê lầm mới là cứu cánh. Muốn hết mê lầm thì phải giác ngộ, tức là luôn luôn tỉnh giác, không để mê lầm. 

Mỗi tối tụng kinh Bát Nhã, tới câu “chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”, là nhắc nhở chúng ta phải thấy thân sắc uẩn này không thật do tứ đại hòa hợp mà thành, thọ là những cảm giác, tưởng tức là suy tưởng, hành là niệm niệm suy tư nghĩ tính, thức là phân biệt. Tất cả do duyên mà khởi nên đều không thật. 

Trong năm uẩn chỉ có một uẩn đầu là thể xác, bản chất nó là không, duyên hợp tạm có, không bền lâu. Tuy có đó nhưng hết duyên nó trở về không. Thấy thân sắc uẩn không thật, duyên hợp tạm có như huyễn như hóa, là thấy đúng lẽ thật. Thấy đúng lẽ thật là giác ngộ, là trí tuệ. Có ai dám nghĩ thân mình trăm năm sau mới rã không? Không ai biết nó rã lúc nào. Ngày nay còn thở, còn đi, đứng, ăn uống thì biết ngày nay còn sống, không biết ngày mai ra sao. Rõ ràng thân tạm bợ mà nghĩ thật, có phải si mê không? Thật là si mê. 

Từ si mê chấp thân giả lầm cho là thật rồi sanh ra tham: tham tài, tham sắc, tham danh, tham thực, tham thùy... đủ thứ tham. Do si dẫn tới tham, mà tham không được thì nổi sân. Chúng ta tu là phá tham, sân, si. Nói đúng hơn là phá si, tham và sân. Muốn phá tan si mê phải dùng trí tuệ Bát-nhã, có trí tuệ Bát-nhã thì phá được si. Phá được si thì tham sân theo đó hết. Người chấm dứt ba thứ đó gọi là gì? Là thánh vậy. Nên biết phá được một phần sắc ấm là sắp thành thánh rồi. 

Bốn thứ còn lại thuộc về tâm: thọ là cảm giác, tưởng là tưởng tượng, hành là suy tư, thức là phân biệt. Như chúng ta ăn món gì đó, ở lưỡi có cảm giác ngon hoặc dở, đó là xúc giác ở lưỡi. Nó chỉ được tí xíu, nuốt ọt xuống là hết trơn. Cảm giác của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đều tạm bợ vô thường, duyên hợp mới có nên nó cũng tánh không. Trước nó là không, đợi duyên hợp mới có, có rồi qua mất, cũng trở thành không. Như vậy thọ không thật có. 

Tưởng là tưởng tượng thế này thế kia, nó có thật không? Cũng không thật. Tưởng tượng của mình ít khi nào đúng lắm. Có những nơi mình chưa tới, chỉ nghe qua địa danh, rồi tưởng tượng trong đầu cảnh này, cảnh nọ. Nhưng khi tới nơi đụng sự thật, có giống như những gì mình tưởng không? Không giống, hoặc tưởng quá nhiều hoặc tưởng chưa tới. Tưởng chỉ là tưởng tượng thôi, nhưng người ta đặt tên là lý tưởng. Lý tưởng là sao? Tưởng mà cho là hợp lý, là đúng, gọi là lý tưởng. 

Lý tưởng do mình đặt ra rồi dạy bảo mọi người. Những người hợp ý thì bằng lòng nghe theo mình, làm đúng như lý tưởng của mình, từ đó lập thành một chi phái. Người lý tưởng ngược lại với mình, lúc đó bằng lòng không? Chắc là không. Mình cho cái đó là chân lý, là đúng, mà người khác nói sai thì làm sao chịu nổi. Trong gia đình anh có lý tưởng này, em có lý tưởng khác thì có đấu tranh. Lý tưởng một cá nhân thì chống cự với một cá nhân, lý tưởng cho số đông thì chống cự với số đông. Con người vì chấp lý tưởng, chấp tâm mình thật mà tạo khổ cho nhau. Cho nên lý tưởng là nguyên nhân khiến thế gian này chịu không biết bao nhiêu đau khổ.

Những suy tư của mình là một dòng sanh diệt, nên gọi là hành. Hành giống như đi, đi thì không dừng, từng bước từng bước đi tới. Hành là dòng suy nghĩ, suy nghĩ mãi không dừng. Như sáng mai đi chợ mình suy nghĩ phải mua cái gì, món A món B, mua thứ này thứ kia... đủ thứ hết. Nó không ở yên một chỗ mà luôn chuyển biến, chuyển biến thì làm sao cố định? Nên biết hành là những suy tư thành dòng sanh diệt liên tục nên không thật. 

Thức là những phân biệt khi sáu căn tiếp xúc sáu trần. Khen cái này đẹp, chê cái kia xấu là do thức phân biệt của con mắt. Đẹp thì thích, xấu thì không ưa nên khởi niệm thương ghét. Các căn còn lại cũng vậy. Tiếng này hay, tiếng kia dở là phân biệt âm thanh qua lỗ tai. Cái này thơm, cái kia hôi là do phân biệt của lỗ mũi... Thức là những phân biệt cái này cái nọ, đủ duyên thì có, không duyên thì mất nên cũng không thật. 

Như vậy sáu căn tiếp xúc sáu trần mà có thức phân biệt đó là cơ duyên đưa mình đi tạo nghiệp. Vì có phân biệt người đó nói nặng mình, mình mới giận họ, do giận nên gây nghiệp với người ta rồi thọ khổ. Hoặc phân biệt người đó mến thương mình, rồi sanh ra nghiệp ái cũng thọ khổ v.v... Do thức mà chúng ta tạo biết bao nhiêu thứ nghiệp. 

Tóm lại, nội tâm là thọ, tưởng, hành, thức đều sanh diệt biến đổi vốn không thật. Biết nội tâm không thật thì có cố chấp, có thích những cảm giác ngon miệng, êm tai, đẹp mắt không? Có cho những cảm giác tạm bợ, những tưởng tượng không thật của mình là chân lý không? Chúng ta tu làm sao mới đúng? Không cần phải bịt mắt bịt tai lại, chỉ cần “đối cảnh vô tâm”, tức là sáu căn tiếp xúc sáu trần không có niệm dính mắc. 

Trong Thanh Quy, phần Thỉnh nguyện có nói giới Thượng thừa của thiền sư Pháp Loa. Khi chúng ta thấy cảnh thấy hoa là cảnh là hoa, chứ thức không chạy theo hoa cảnh để phân biệt, hoa không dính với thức. Ra vào không có giao thiệp, đó là ngăn dừng. Nói ngăn dừng chứ không ngăn dừng gì hết. Chỉ là trong không chạy theo cảnh, ngoài không dính các duyên, gọi là ngăn dừng. Như vậy, tu thiền cốt là không để thức phân biệt dính mắc với sáu trần. 

Ngài Pháp Loa phân tích kỹ hơn một chút là mắt không vì sở duyên thức ra, thức không vì sở duyên cảnh vào. Hai cái không ra vào là chỉ cho không vướng mắc. Chúng ta tu cốt làm sao đối với năm uẩn này, từ sắc uẩn cho đến thọ, tưởng, hành, thức uẩn đều làm chủ, không để vướng mắc với tất cả cảnh bên ngoài, đó là ra khỏi đường sanh tử. Nếu bị vướng mắc sáu trần thì bị cột trói trong sanh tử. 

Như con mắt nhìn sắc, trước khi thức phân biệt, lúc đó có lỗi lầm gì không? Không. Chỉ sau khi phân biệt rồi đánh giá đẹp xấu mới sanh lỗi lầm. Tai nghe tiếng, có tiếng gì thì cứ nghe tiếng đó, không dấy niệm phân biệt khen chê thì đâu có lỗi. Các lỗi lầm do thức phân biệt chứ cái thấy, cái nghe không có lỗi. Như vậy sáu căn là cánh cửa tạo thành tội lỗi, mà cũng là cánh cửa để đi đến Niết-bàn.

Cứu khổ chúng sanh như đói, khát.. chỉ là tạm bợ; cứu khổ tinh thần như buồn, thương, giận, ghét... cũng là tạm bợ. Muốn rốt ráo thì phải cứu cái khổ đừng chấp thân, chấp tâm. Muốn không mắc kẹt hai thứ đó phải thấy đúng như thật thân tâm hư dối không thật. Biết vậy rồi chúng ta ngồi thiền có gì khó khăn đâu. Nhớ tới người, đó là hình bóng hư dối; nhớ tới cảnh, cảnh cũng hư dối thì tâm dễ an. Có khi chỉ ngồi chơi nhìn trời nhìn mây, những gì thấy là thấy, nghe là nghe, không khởi phân biệt đẹp xấu, hay dở thì cái nhìn, cái nghe của mình không có lỗi lầm gì. 

Chúng ta tu cốt làm sao dừng hết những sai lầm về thân, về tâm. Thấy đúng như thật hai thứ đó tạm bợ giả dối thì cái thứ ba hiện ra, tức là cái chân thật hiện tiền. Cái chân thật hiện tiền ở đâu? Trên hội Linh Sơn, khi đức Phật đưa cành hoa sen lên rồi nhìn khắp đại chúng thấy ngài Ca-diếp mỉm cười. Đó là ngài đã nhận được chỗ Phật dạy nên được Thế Tôn ấn chứng. Đó là từ cái thấy nhận được. 

Bây giờ biết rõ thân không thật, duyên hợp giả dối và tâm sanh diệt cũng là duyên hợp giả dối. Không bị hai thứ đó chi phối thì lúc đó cái chân thật hiện tiền đầy đủ, không hình tướng, không dấy động. Cái thấy, cái nghe đó ra làm sao? Nó hiện tiền mà không có hình dáng. Như vừa nhớ cành hoa, mình đã thấy có cái bóng của cành hoa hiện ra. Nhớ người có bóng người, nhớ cảnh có bóng cảnh, còn cái biết hiện tiền mình thấy, nghe, xúc chạm mà không có niệm nào. Đó là cái biết tròn đầy viên mãn nơi mỗi người. 

Con người chấp tâm là nặng nhất. Cho nên bao nhiêu phương tiện tu là để dừng, để lặng tâm sanh diệt đang chạy theo trần cảnh. Nói cứu khổ chúng sanh là giúp cho chúng sanh được giác ngộ. Có giác ngộ rồi thì cái chân thật hiện tiền. Cái chân thật đó không sanh, không diệt nên giải thoát sanh tử. Cứu giúp như vậy mới là cứu cánh giải thoát viên mãn.

Muốn dứt mê lầm cho người mà mình còn mê lầm thì được không? Cho nên trước hết mình phải giác ngộ, sau mới dạy người dứt mê lầm. Dứt mê lầm mới là gốc cứu khổ của đạo Phật. Hết mê lầm rồi thì không còn khổ nữa, nên nói cứu khổ ban vui. Đem niềm vui lại cho người là niềm vui hết mê lầm, giải thoát sanh tử. Đó là mục đích của đạo Phật, cũng là mục đích của người xuất gia. Người tu không tìm kiếm những thứ tạm bợ bên ngoài, mà phải đi sâu vào cội gốc bên trong. 

Nói giải thoát sanh tử là nói đến trí tuệ giác ngộ. Kinh Bát Nhã đã chỉ rõ, dùng trí tuệ thấy đúng như thật về thân, về tâm để không bị lôi cuốn theo cảnh, theo trần bên ngoài. Đó là đi trên con đường giải thoát sanh tử. Nếu chúng ta vướng bận vào những lời khen chê, thương ghét đó là đi trong luân hồi. Người tu xứng đáng phải là một chiến sĩ vượt ra ngoài tất cả những bủa vây của trần tục, chứ không phải nằm trong đống nhiễm ô đó. 

Hiểu vậy, chúng ta mới thấy giá trị cao siêu của người tu, nếu không thì tu lừng chừng chẳng tới đâu hết, rồi nguyện đời sau tiếp tục tu nữa, nhưng không biết đời sau có đủ duyên tiếp tục hay không. Cho nên phải ngay đời này cương quyết khẳng định vững vàng trên lối đi của mình.

Giả như người có con mắt sáng, thấy được nghiệp của chúng sanh. Họ thấy có người tạo nghiệp rồi chết bị làm thú, làm thú vài ba năm chết, trở lại làm con này con kia năm lần bảy lượt. Thấy tất cả cảnh người đó sanh ra rồi chết, chết rồi sanh ra như vậy hoài, có đáng thương không? Cũng thế, Phật thương chúng sanh là vì cứ ngu mê lẩn quẩn trong sanh tử khổ đau. Muốn hết khổ chỉ khi nào họ ra khỏi luân hồi sanh tử, nghĩa là dừng tất cả loạn tưởng, chỉ còn một tâm thanh tịnh thôi. 

Mục đích của người tu là phải tới chỗ tột đó, chứ không phải tu lừng chừng cho có, rồi hẹn kiếp khác tu tiếp. Liệu kiếp khác có đủ duyên để tu nữa không? Đời này huân sâu cho đến nơi đến chốn thì đời sau mới hy vọng sanh ra tu nữa. Làm Phật sự cũng nhiệt tình, nhưng tu cũng phải tha thiết, mới xứng đáng là người xuất gia cầu giải thoát sanh tử. 

Đọc tiếp →
Mục Lục
Tông Môn Cảnh Huấn 3
Phần I - Giáo huấn chư Tăng nội viện
Phần II - Giáo huấn chư Ni nội viện
Danh sách chương: