|
Tông Môn Cảnh Huấn 3
4. Diễn văn khai mạc lễ Khánh thành thiền viện Trúc Lâm
Năm Giáp Tuất - 1994 Kính thưa quý vị hàng giáo phẩm đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Kính thưa quý vị đại diện Đảng, chính quyền Mặt trận các cấp. Kính thưa tất cả Tăng Ni và toàn thể Phật tử. Thưa quý vị, Hôm nay thiền viện Trúc Lâm phần xây dựng căn bản tương đối đã xong, chúng tôi tổ chức lễ Khánh thành. Công trình kiến thiết này được sớm thành tựu là nhờ sự ủng hộ và khích lệ tinh thần của quý hòa thượng Giáo hội Trung ương, Giáo hội tỉnh Lâm Đồng, nhờ Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, các phường, Ban Tôn giáo, Mặt trận, các ngành, các cấp chính quyền và Ban giám đốc hồ Tuyền Lâm nhiệt tình giúp đỡ bằng cách dành mọi dễ dàng cho chúng tôi. Nhờ sự tận tâm tận lực của chư Tăng Ni và Phật tử gần xa, kẻ công người của chung lo cho công trình xây dựng này. Chúng tôi chân thành tri ân tất cả quý vị. Thưa quý vị, Về mặt hình thức thiền viện Trúc Lâm đã tạm ổn định. Song về mặt tinh thần thì mới đi được bước đầu. Tại sao? Vì chúng tôi thành lập thiền viện Trúc Lâm với mục đích khôi phục Thiền tông Việt Nam. Nói khôi phục Thiền tông Việt Nam tức là làm sống dậy Thiền tông đời Trần. Bởi vì Thiền tông đời Trần mới đủ tư cách tiêu biểu cho Thiền tông Việt Nam. Kể từ đầu thế kỷ thứ VII về sau, các phái thiền từ Trung Hoa đã truyền sang Việt Nam. Mãi đến thế kỷ thứ XIII, vua Trần Nhân Tông đi xuất gia lấy hiệu Trúc Lâm Đại Đầu-đà, tu trên núi Yên Tử, mới thành lập phái thiền Trúc Lâm Yên Tử. Đây là phái Thiền Việt Nam đầu tiên trên đất nước Việt Nam. Thiền tông đời Trần cũng là Phật giáo đời Trần, vì thời này các thiền sư là người lãnh đạo Phật giáo. Nhìn chung Phật giáo đời Trần, chúng ta thấy có những nét nổi bật như sau: 1. Về mặt quân sự: Đời Trần có công lớn chống quân xâm lược, gìn giữ độc lập cho tổ quốc. Chính các ông vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông lãnh đạo cuộc kháng chiến ấy đều là người thâm hiểu Phật pháp và chuyên tu Thiền tông. 2. Về mặt văn hóa: Đời Trần đã cố gắng muốn đổi chữ Hán dùng chữ Nôm. Chữ Nôm đã có từ thuở nào chúng ta chưa rõ, nhưng đến đời Trần mới thấy xuất hiện trên văn học Việt Nam. Đa số tác phẩm chữ Nôm đời Trần là của Phật giáo, như bài Cư Trần Lạc Đạo Phú, Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca của vua Trần Nhân Tông. Bài Vịnh Vân Yên Tự Phú của ngài Huyền Quang, bài Giáo Tử Phú của Mạc Đĩnh Chi v.v… Chúng ta thấy rõ tinh thần muốn sử dụng chữ Nôm thay thế chữ Hán của thời này. 3. Về mặt tôn giáo: Đời Trần đứng trên lập trường Phật giáo dung hợp Khổng giáo, Lão giáo thành một khối gọi là “tam giáo đồng nguyên”. Riêng về Phật giáo Thiền tông, ngài Trúc Lâm Đại Đầu-đà gom những tinh hoa các phái thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, Lâm Tế từ Trung Hoa truyền sang, cô đọng lại thành phái thiền Trúc Lâm Yên Tử. Phái Trúc Lâm Yên Tử là phái thiền duy nhất ở Việt Nam do thiền sư Việt Nam thành lập. Như thế, chúng ta thấy đời Trần chẳng những giành độc lập cho đất nước mà vẫn muốn độc lập cả văn hóa và tôn giáo không có ý nghĩa tự cô lập và đóng khung tư tưởng mình, mà mở cửa tiếp thu những cái hay cái đẹp từ bên ngoài vào, tự tiêu hóa thành cái hay cái đẹp của dân tộc Việt Nam. Đời Trần không chấp nhận lệ thuộc vào nước ngoài, bất cứ phương diện nào kể cả tôn giáo. Dù thế, các nhà lãnh đạo vẫn thông suốt Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo. Đặc điểm của đời Trần là học cái hay của người để biến thành cái hay của mình. Tinh thần này rất cao cả, đáng cho chúng ta ngày nay kính trọng và học hỏi theo. Hiện nay, đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, chúng ta nên học theo gương đời Trần để làm sáng tỏ tiình thần độc lập của dân tộc mình. 1. Về mặt quân sự: Quân dân ta đã đánh đuổi được giặc ngoại xâm giành được độc lập hoàn toàn cho tổ quốc. Đây là một chiến công oanh liệt, không tủi hổ với tổ tiên. 2. Về mặt văn hóa: Người Việt Nam đã có một thứ chữ riêng, đủ sức diễn đạt được tư tưởng dân tộc ta. Chữ Quốc ngữ có khả năng phiên dịch các loại sách văn hóa, khoa học, triết học, tôn giáo v.v... của nước ngoài. Đây là một vinh hạnh lớn lao cho xứ sở của mình mà tổ tiên ta chưa có. 3. Về mặt tôn giáo: Ở đây chúng tôi chỉ đề cập riêng về Phật giáo, lại chỉ nói riêng về Phật giáo Bắc tông. Phật giáo Bắc tông tu học theo kinh điển Hán tạng. Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang Trung Hoa kinh điển bằng chữ Phạn phiên dịch toàn bộ ra chữ Hán. Tạng kinh chữ Hán tương đối khá đầy đủ. Người Việt Nam ngày xưa cũng sử dụng chữ Hán để diễn đạt tư tưởng mình nên học kinh chữ Hán không có gì là khó. Ngày nay toàn dân ta dùng chữ Quốc ngữ làm ngôn ngữ chánh, không có mấy người giỏi chữ Hán, thì học tụng kinh chữ Hán không những là điều không phải dễ dàng. Vì thế, đòi hỏi chúng ta phải phiên dịch tạng kinh chữ Hán ra chữ Quốc ngữ là vấn đề bức xúc vô cùng. Lại một vấn đề bức xúc không kém, là nghỉ lễ trong nhà chùa cúng tụng vẫn phát âm nguyên vẹn bằng âm Hán Việt. Vô tình chúng ta bị lệ thuộc văn hóa nước ngoài một cách đáng tiếc. Tại sao chúng ta không mạnh dạn thay đổi nghi lễ cúng tụng ra thành tiếng Việt cho mọi người nghe dễ hiểu, dễ cảm thông. Đến đường lối tu trong các chùa Phật giáo Bắc tông hiện nay hầu hết đều pha lẫn Tịnh độ tông với Mật tông. Hai tông phái này lấy lòng tin làm căn bản, tức là Tín - Hạnh - Nguyện. Lấy tha lực làm chỗ nương tựa, cầu Phật rước về Cực Lạc. Vì thế người Phật tử mất dần lòng tự tín. Thiền viện Trúc Lâm ra đời cố gắng thực hiện các điểm sau đây: 1. Văn hóa: Chúng tôi Việt hóa nghi thức tu tập hằng ngày. Mỗi ngày đêm tại thiền viện Trúc Lâm có hai thời tụng kinh sám hối và ba thời tọa thiền. Buổi trưa tụng Kinh Bát Nhã và nghi thức cúng cơm. Buổi tối sám hối sáu căn theo Lục Thời Sám Hối của vua Trần Thái Tông biên soạn. Hai thời này chúng tôi hoàn toàn dịch ra tiếng Việt để người đọc và người nghe dễ hiểu, dễ thâm nhập. Tuy nhiên, sự chuyển dịch buổi đầu không tránh khỏi người nghe chói tai và còn nhiều sai sót. Song chúng tôi bạo dạn tạo một cái nhân nhỏ mong sau này sẽ đâm chồi nảy tược nhiều hơn. Nghi thức Lục Thời Sám Hối của vua Trần Thái Tông vừa thiết thực đối với người tu, vừa có văn chương mà từ trước đến nay trong giới Phật giáo ít ai lưu tâm đến. Chúng tôi cố gắng làm sống lại những cái hay, cái đẹp của tổ tiên mình. Đồng thời Việt hóa nghi thức tu hành để tránh lỗi bị tha hóa mà lâu nay chúng ta vấp phải. 2. Phần tu tập: Tinh thần tu tập chúng tôi nương theo Thiền tông đời Trần làm chuẩn đích. Phật giáo không bị giới hạn trong một quốc gia, một dân tộc, nhưng về phương diện tùy duyên giáo hóa, Phật giáo truyền bá đến đâu phải thích ứng với phong tục văn hóa xứ ấy, gọi là khế cơ. Tuy là tùy duyên, song chân lý giác ngộ của đạo Phật bất cứ ở nước nào cũng không bị thay đổi, gọi là khế lý. Thiền tông đời Trần có đủ hai điều kiện trên nên chúng tôi hướng theo. Thiền tông lấy giác ngộ làm nền tảng, tức là tự giác và giác tha. Lấy trí tuệ làm cửa vào, nên nói “cửa Không”. Cho nên Thiền tông là cốt tủy của đạo Phật. Tu theo Thiền tông là tự khai thác kho báu sẵn có của chính mình, chứ không tìm cầu nơi nào khác. Do đó, người Phật tử tu thiền càng ngày lòng tự tin càng mãnh liệt. Bốn câu kệ kết thúc bài phú Cư Trần Lạc Đạo làm sáng tỏ vấn điều này: Cư trần lạc đạo thả tùy duyên, Cơ tắc xan hề khốn tắc miên. Gia trung hữu bảo hưu tầm mích, Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền. Dịch: Ở trần vui đạo hãy tùy duyên, Đói đến thì ăn nhọc ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền. Thiền sư đời Trần chẳng những dạy Tăng Ni, Phật tử tu thiền mà còn giảng Kinh, Luật cho mọi người được thấm nhuần giáo lý Phật dạy, cho nên rất thích hợp với tinh thần “Thiền Giáo đồng hành” do chúng tôi đề xướng. 3. Nếp sống đạo đức: Thiền sinh thiền viện Trúc Lâm lấy Lục hòa, tức là: thân hòa cùng ở, miệng hòa không tranh cãi, ý hòa cùng vui, giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải và lợi hòa đồng chia làm nếp sống đạo đức. Làm sao biện minh được một người tu đạo đức cao siêu mà tranh cãi nhau, bất bình nhau, có thành kiến với nhau v.v... Vì thế, bước đầu sống trong thiền viện chúng tôi bắt buộc thiền sinh phải thực hiện cho được Lục hòa. Thưa quý vị, Mọi việc đều do nhân duyên tụ hội mà thành, một nhân đơn lẻ không thể thành tựu được một việc gì. Cho nên chúng tôi hy vọng được chư giáo phẩm trong Giáo hội tận tình ủng hộ tạo thành thắng duyên cho Phật sự này được viên mãn. Chúng tôi mong được sự cảm thông của các cấp chính quyền trợ lực cho chúng tôi thực hiện được phần nào những nét cao đẹp của tổ tiên. Với các Phật tử gần xa, quý vị đã quá nhiệt tình đóng góp vào công trình xây dựng này. Còn những việc dài lâu về sau, tôi tin chắc rằng không bao giờ tất cả quý vị thờ ở để mặc chúng tôi. Sau đây, tôi mong tất cả Tăng Ni đã được thu nạp vào thiền viện Trúc Lâm phải quyết tâm tu hành, phải chiến thắng nội ma và ngoại ma, phải khẳng định trong đời này sáng đạo. Được vậy chúng tôi mới vui lòng trước khi theo Phật. Cuối cùng, chúng tôi thành tâm đa tạ tất cả quý vị đã hoan hỷ đến dự lễ Khánh thành hôm nay. Quý vị đến đây với tâm tùy hỷ một Phật sự do chúng tôi chủ xướng. Đây là phần thưởng cao quý từ quý vị ban cho, khiến chúng tôi phải nỗ lực hơn để làm tròn trọng trách của mình. Kính chúc quý vị an khang. Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Mục Lục
|
Tông Môn Cảnh Huấn 3
Phần I - Giáo huấn chư Tăng nội viện
Phần II - Giáo huấn chư Ni nội viện
|
4. Diễn văn khai mạc lễ Khánh thành thiền viện Trúc Lâm
Phần I - Giáo huấn chư Tăng nội viện
Phần II - Giáo huấn chư Ni nội viện
39. Sự khác biệt giữa hồi quang phản chiếu và phản quan tự kỷ