Thiền Tông Việt Nam
Tông Môn Cảnh Huấn 3
29. Thiền lý giải

Ngày 29/03/ Quý Mùi - 30/04/2003

Có một điều quan trọng tôi cần nói rõ cho Tăng Ni hiểu. Lâu nay có một số người cho rằng Thiền tông là mật truyền tâm ấn. Mật là thầm kín, nghĩa là thầy truyền riêng cho trò. Như Phật đưa cành hoa sen lên, ngài Ca-diếp cười, Phật truyền tâm ấn cho. Cứ thế mãi về sau, đệ tử được Thầy truyền tâm ấn tu theo mới đúng tinh thần Thiền tông. Tới thời chúng ta không có ai truyền thì sao? Thiền tông ngang đây đành phải dừng lại à? Nên việc làm của tôi có thể nói là hơi cả gan.

Ngày xưa trong pháp hội của Lục Tổ có ngài Thần Hội. Một hôm, Lục Tổ nói giữa đại chúng: “Ta có một vật không đầu không đuôi, không tên không họ, không lưng không mặt, các ngươi biết chăng”. Thần Hội đứng ra thưa: “Ấy là bản nguyên của chư Phật, là Phật tánh của Thần Hội”. Tổ quở: “Đã nói với ngươi là không tên không họ, ngươi lại kêu là bản nguyên, Phật tánh. Ngươi lại đi lấy tranh che đầu, cũng chỉ thành tông đồ của hàng tri giải”.

Câu đó thật kỳ diệu! Tại sao nói bản nguyên, Phật tánh mà lại là lấy tranh che đầu? Bởi vì, có một số người tu nghe Tổ nói một câu, tuy không hiểu nhưng tin tưởng thầy là người được truyền tâm ấn nên chết sống với câu đó, tới khi bùng vỡ tỏ sáng rồi nhận được mặt thật, cái đó không có tên họ. Ngài Thần Hội chủ trương lấy những lời trong kinh, giảng cho người ta hiểu để tu. Nếu chờ bùng vỡ thì biết chừng nào. Chính nhờ ngài dùng Phật pháp, đem những từ Phật tánh, chân tâm... về phương Bắc giảng thiền, nên người ta mới lãnh hội được. Nếu chỉ truyền tâm ấn như trước giờ thì thiền ngang đó đứt đoạn rồi.

Lục Tổ quở là tông đồ của hàng tri giải. Tri giải là thuộc về hiểu biết, là thiền thuộc về hiểu biết. Thiền mật truyền là thầy nói một câu, lấy câu đó mà chết sống, gặm nhấm hoài đến lúc vỡ tung, trò tự nhận ra thấu suốt chỗ thầy chỉ, ngay đó được truyền tâm ấn. Hệ mật truyền mãi tới sau này mỗi thời còn một hai vị Tổ, bây giờ tìm không thấy người nào. Như vậy chúng ta muốn tu thiền phải làm sao?

Có người đặt câu hỏi ai truyền tâm ấn cho tôi mà dám giảng về Thiền tông. Đó là tôi nhắm thẳng chỗ truyền thiền của ngài Thần Hội, nhất là khi giảng Thần Hội Ngữ Lục, tôi càng chắc chắn. Ngày xưa Lục Tổ nói ngài Thần Hội là môn đồ của hàng tri giải, bây giờ chủ trương đường lối tu thiền của mình cũng thuộc về lý giải. Chúng ta tu thiền là do nhận được lý thiền của chư Tổ, rồi mới ứng dụng tu. Con đường lý giải thì không có người truyền, nếu mật truyền tâm ấn thì phải thầy trò truyền nhau. Hệ đó đến nay gần như đứt đoạn, kể cả Trung Hoa, Nhật Bản tìm cũng không ra.

Như vậy Thiền lý giải có thể phù hợp với hoàn cảnh của xã hội, của nhân loại hiện tại. Nền văn minh của xã hội đang tiến, con người làm gì phải biết rồi mới làm. Biết rồi mới làm, nghĩa là phải hiểu được lý rồi sau mới hành. Thiền lý giải cũng vậy, trước phải hiểu lý sau mới thực hành.

Trong thiền sử có giai thoại, Tăng hỏi ngài Lâm Tế:

- Thế nào là Vô vị chân nhân?

Sư xuống thiền sàng nắm đứng lại, bảo: 

- Nói! Nói!

Tăng toan nói, Sư buông ra và nói:

- Vô vị chân nhân là gì? Cục cứt khô!

Nói xong Sư liền trở về phương trượng.

Hôm sau lại nói về sự pháp giới, lý pháp giới, đến lý sự vô ngại pháp giới, Sư lại hỏi:

- Đây đáng gọi là thiền chưa?

Vô Tận đáp:

- Chính là nói thiền.

Sư cười bảo:

- Chẳng phải, chính là còn trong lượng pháp giới, bởi lượng pháp giới chưa diệt, nếu đến sự sự vô ngại pháp giới thì lượng pháp giới diệt, mới là nói thiền.

Như có vị Tăng hỏi Động Sơn Thủ Sơ: “Thế nào là Phật?”. Động Sơn đáp: “Ba cân gai”. Làm sao hiểu! Chính chỗ không hiểu đó là Phật, khởi niệm là mất Phật rồi. Không nghĩ thiện không nghĩ ác là bản lai diện mục, còn khởi niệm là không đúng. Nói cho người dứt hết nghĩ suy, chỉ ngài Lâm Tế là thô nhất, bạo nhất. Có khi người hỏi: “Thế nào là Phật?”. Ngài đánh cho một gậy.

Thế nào là Phật? Cục cứt khô. Thế nào là Phật? Ba cân gai. Những câu nói đó, là cốt đập tan hết tất cả kiến giải. Như vậy, Tổ đã chỉ Phật là tâm vô niệm, không thể nghĩ bàn, vừa nghĩ bàn thì đã mất Phật rồi, cho nên lời nói của các ngài cốt đập chết ý thức lăng xăng, khiến người ta bặt dứt mọi nghĩ suy. Đó là chỗ đặc biệt.

Hòa thượng Đả Địa nhận được ý chỉ nơi Mã Tổ, Sư thường ẩn danh. Mỗi khi có người tham học đến hỏi đạo, Sư liền lấy gậy đập xuống đất, nên được gọi là hòa thượng Đả Địa. Một hôm, vị Tăng giấu cây gậy rồi hỏi Sư, Sư quơ tay lấy gậy không có, bèn há miệng mà không nói gì. Bởi lẽ, chỗ này không có lời để nói, vì nói là hai bên, không phải chỗ chân thật. Đó là chỗ không suy nghĩ được, vừa khởi suy nghĩ là mất Phật.

Trong bài Tín Tâm Minh, tổ Tăng Xán nói: “Tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm”. Nghĩa là tin tâm mình thì không còn hai bên, không hai bên là tin tâm mình. Đó là chỉ thẳng tâm chân thật không còn hai bên. Chúng ta ngồi thiền để lặng hết tâm niệm lăng xăng, tâm lặng lẽ không nghĩ gì thì đâu có dính hai bên. Đó là đã đạt tới chỗ rốt ráo mà các Tổ đã chỉ.

Xét từ đầu tới cuối, thấy rõ chư Tổ không giấu mình. Trong những thủ thuật của các ngài, nếu chúng ta thâm nhập được thì ngay đó sáng ra lẽ thật, không qua lý giải. Bây giờ mình không có thầy trực tiếp chỉ ra những cái kỳ đặc, thì phải đi theo đường lý giải. Người Tây phương không chịu làm gì khó hiểu, nói tỏ rõ để họ biết mà ứng dụng tu hành. Tuy lối này tu chậm hơn nhưng không lầm. Như vậy muốn cho Thiền tông bủa khắp các nơi, mọi người tu được, chúng ta phải dùng Thiền lý giải. Lý giải tức là đạt được lý, giải bày cho người ta hiểu, rồi mới tu. Đó là chủ trương của mình.

Như vậy tu Thiền lý giải phải đi từng chặng. Những chặng đầu mượn hơi thở để tu, từ từ tâm lăng xăng giảm dần, cho tới lúc nào đó bặt dứt thì tới chỗ cứu cánh. Thiền lý giải, mọi người có thể học hoặc nghiên cứu để hiểu lý thì thực hành được, ứng dụng được.

Mục Lục
Tông Môn Cảnh Huấn 3
Phần I - Giáo huấn chư Tăng nội viện
Phần II - Giáo huấn chư Ni nội viện
Danh sách chương: