|
Tông Môn Cảnh Huấn 3
48. Nương chúng tu học - Tùy duyên hóa độ
Ngày 28/12/ Nhâm Ngọ - 30/01/2003 Đời của Thầy từ thủy chí chung sống trong tập thể, nếu có rời tập thể thì chỉ nhập thất thôi, chứ không đi lang thang nơi này nơi khác. Vì vậy nếp sống của tập thể đẹp thế nào, chỗ ưu chỗ khuyết Thầy đều kinh nghiệm để sắp đặt thành một thiền viện có nề nếp quy củ. Nếp sống ở đây mới nhìn qua thấy khó, những lỗi nhỏ nhặt cũng bị rầy. Nhưng nếu ở tu lâu rồi thì mới thấy, nếp sống này giúp cho mọi người sau thời gian tu sẽ tiến bộ, đạo lý được vững vàng, tu hành có kết quả. Vì vậy, thời gian ở đây Tăng Ni phải nhiệt tâm tu học; cả hai việc tu, học không thể thiếu. Có học mà không tu là đãy đựng sách. Có tu mà không học là tu mù. Học và tu phải cân xứng nhau, buổi nào học ra học, buổi nào tu ra tu, không nên làm cầm chừng lấy có. Cuộc sống vô thường, nếu biết đời mình không dài, ngày nào được ở chùa tu học thì phải tha thiết tu học cho có căn bản. Vậy mới không buồn, không tủi thân mình tu hành bấy lâu mà chẳng được lợi ích gì. Thầy lúc nào cũng đặt việc lớn việc chung lên trên, chứ không đặt tình cảm cá nhân lên trên. Như vậy mới duy trì thiền viện được lâu dài. Nếu không thẳng thắn dứt khoát thì sau một thời gian, thiền viện trở thành nơi nuôi dưỡng những người không có tâm cương quyết tiến tới giác ngộ. Thầy làm gì thì dứt khoát việc ấy, tu thì hẳn ra tu chứ không phải nửa tu, nửa lo gia đình. Học thì ra học, học cho hiểu thấu đáo chứ không phải học cầm chừng lấy có. Được như vậy, sự tu học có kết quả rõ ràng, không phải chỉ nói ở miệng. Vì vậy Tăng Ni phải khéo sống cho đúng với tinh thần của người vì lý tưởng giác ngộ giải thoát mà đến tu, chứ không vì cái gì khác. Người trẻ mà cạo tóc vào chùa thì đó là phi thường, ý chí mãnh liệt lắm mới làm được. Phật tử luôn xem mình là những người có ý chí quả cảm, vậy mà bây giờ chúng ta sống yếu đuối buông lung, thì hỏi có xứng đáng với sự mong chờ của mọi người không? Thật uổng cơm đàn-na tín thí, tội nghiệp cha mẹ ở nhà thương nhớ trong khi mình tu không ra trò trống gì, lại trở thành người vô ích đối với gia đình, xã hội, là gánh nặng cho đàn-na thí chủ, không xứng đáng chút nào hết. Ngày xưa vì Thầy của Thầy tịch sớm, nên khi ta làm việc Thầy phải tự quyết định tất cả. Mọi việc thành bại đều chịu trách nhiệm, nếu có duyên phước thì làm được việc lớn, còn không thì làm việc nhỏ chứ không có ai để ỷ lại cả. Giá trị người tu không phải làm nhiều hay làm ít. Làm đúng với đạo lý thì dù làm ít cũng quý, còn làm nhiều thấy quy mô mà không đúng đạo lý cũng không lợi ích gì. Điều thiết yếu là người tu phải chân thật, nói theo thế gian là thật thà, tức là lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau. Nói được thì phải làm được. Người tu là thầy của Phật tử, khi Phật tử ở nhà có những việc bất bình, nổi sân gây gổ với nhau. Họ tới chùa than, được thầy khuyên “sân là tật xấu có hại, phải chừa bỏ”. Ít bữa Phật tử lại chùa thấy thầy nổi sân ầm ầm, vậy lời khuyên kia còn giá trị không? Bảo người bớt sân mà tới phiên mình nổi sân ầm ầm, ai can cũng không được thì đạo đức tu hành thấm được bao nhiêu. Khuyên người ta bớt sân thì mình phải bớt, như vậy lời nói ra mới được người nghe kính tin. Thí dụ, thấy đứa học trò thi rớt buồn quá, mình khuyên: “Danh vọng là tạm bợ, giả dối, có gì quan trọng đâu mà khổ. Đậu cũng được, rớt cũng được, cứ lo làm ăn rồi cũng sẽ có mọi thứ”. Mình khuyên người ta nghe rất hay, nhưng khi được cử làm chức vụ gì thì mừng quá chừng, tối ngủ không được. Vậy thì lời khuyên rất hay trước đó còn có giá trị nữa không? Chúng ta nói được điều hay thì cũng phải làm cho được hay, chứ đừng nói trên trời mà làm dưới đất, rốt rồi thành nhà du thuyết chứ không phải người tu. Lời nói ra để dạy bảo người là từ kinh nghiệm tu hành của chính mình, đã sống và đã làm được như vậy. Nếu chúng ta chỉ nói suông cho hay, mà bên trong rỗng tuếch thì không tốt. Thầy nhắc nhở cho toàn chúng nhớ, chính sự tu giúp cho mình sáng, chứ không phải tính toán khôn lanh làm cho mình sáng. Người ngoài nhìn vào thấy người ngồi yên tu, dường như ngu khờ không có gì lanh lợi, nhưng thật ra không khờ mà trái lại còn rất sáng suốt, khi gặp việc gì thì liền giải quyết phù hợp. Vì sao được như vậy? Bởi trong sự tu tập, vừa vọng tưởng suy nghĩ điều gì thì liền buông xả, do buông nên thấy như không biết gì hết. Khi những thứ lăng xăng lặng rồi thì tâm chân thật hiện tiền, trí tuệ sáng suốt. Thầy được mời đi giảng dạy rất nhiều chỗ, Bắc - Trung - Nam, mỗi chỗ một đề tài, vậy thời gian đâu mà Thầy chuẩn bị cho kịp. Thầy không nặn đầu bóp trán để tìm đề tài, trong đầu không suy nghĩ gì cả, chỉ là giữ một tâm rỗng rang, an định, việc tới đâu thì làm tới đó. Nếu phải soạn bài kỹ, chuẩn bị bài giảng bài bản thì Thầy làm gì đủ thời giờ mà giáo hóa khắp nơi. Đức Phật lúc nhỏ ở trong cung cấm, lớn lên vượt thành xuất gia tu hành thành đạo. Ngài đâu có quen thuộc với công việc thế gian bao nhiêu mà gặp người trong ngành nghề nào hỏi đạo, Phật đều trả lời được và giảng giải thành một bài pháp sống động, để lại cho chúng ta những bản kinh hay. Người đủ lòng tin, tu hành đàng hoàng thì tự nhiên đầy đủ trí tuệ, chứ không phải ăn nói lăng xăng lanh lợi mà có trí tuệ. Điều quan trọng là chúng ta phải học, phải tu và sống hợp đạo lý. Nếu chỉ học lóm hoặc bắt chước người khác để nói thì hiểu đó không phải là trí tuệ của mình, nên một khi quên thì hồi hộp bất an, không biết tìm đâu ra manh mối để nói. Ngày xưa lúc mới đi giảng, thấy ai đưa tay xin hỏi là Thầy hồi hộp liền. Vì lo lắng không biết người ta hỏi gì, mình trả lời được không? Bây giờ, sau thời gian buông hết để yên tu, Thầy cho hỏi tự do không còn bị hồi hộp nữa. Ứng xử được như thế, cũng phải qua bao nhiêu năm khó khổ tu hành, chứ đâu phải bỗng dưng mà được. Cho nên trong sự tu, chúng ta phải kiện toàn đủ văn, tư, tu. Trước hết là học để hiểu, tức là văn và tư, kế đến là tu cho sáng. Như vậy, văn và tư là bước đầu, tức là học để hiểu lời Phật dạy, chứ chưa phải trong tâm mình sáng tỏ mà phát ra. Thế nên nếu chỉ ham học không tu thì chỉ trở thành nhà nghiên cứu thôi, chứ không đưa đến giác ngộ giải thoát. Học hiểu là Hữu sư trí, khai thông trí tuệ sẵn có nơi mình là Vô sư trí. Hiện nay các vị tôn túc sợ Tăng Ni trẻ buông lung không chịu nghiên tầm Phật học, nên khuyến khích người tu trẻ cần phải có bằng cấp Phật học. Đây là việc rất tốt, tuy nhiên phong trào này cũng gặp phải vấn đề là ai cũng muốn học ra để có bằng cử nhân hoặc tiến sĩ, nhưng lại thiếu sự thực hành tu tập. Nghe giới thiệu thầy tiến sĩ hay cô cử nhân gì đó, thấy oai quá! Rồi chỉ đuổi theo việc học mà quên mục tiêu tối hậu của đời mình, đó là đạt đến giác ngộ giải thoát. Chủ trương của thiền viện là việc tu và việc học lúc nào cũng phải cân bằng nhau, vì chỉ học để tu nên không có bằng cấp. Đây là chỗ khác nhau giữa việc học ở thiền viện và các trường Phật học. Cho nên toàn chúng phải hiểu cho rõ, một khi đã chọn lựa con đường đi của mình, nắm được phương hướng rồi thì đặt hết tâm vào việc làm đó. Việc mình đã sáng rồi thì dù đứng ở vị trí nào cũng có chỗ khả dụng của nó. Thầy chỉ chuyên tu thiền, không có bằng cấp gì hết. Vậy mà khi trường Đại học Tổng Hợp mở lớp nghiên cứu về Thiền học Phật giáo Việt Nam thì mời Thầy giảng. Thầy nói điều này để cho chúng thấy, nếu chúng ta chuyên sâu một môn, phát huy được trí tuệ nơi chính mình thì chắc chắn được mọi người tin tưởng. Do có tu có học mà có trí tuệ, thấy được những điều người thường không thấy. Chỗ thấy sáng suốt ấy phát ra từ trí vô sư. Trí tuệ vô sư này là nhờ tu tâm yên định mới phát ra, chứ không do học mà được. Ngày xưa, khi Phật đi khất thực, người ta bỏ thức ăn vô bát cúng dường, đó gọi là hóa duyên hay gieo duyên, tức là gieo duyên hóa độ. Hiện nay có nhiều người tu không hiểu hết ý nghĩa này, nên quan niệm rằng tu mà thọ của đàn-na thí chủ e mang nợ, nên ráng làm có tiền ăn để khỏi mang nợ. Nhưng theo đạo Phật, quan niệm như vậy là sai. Phật dạy, muốn sau này giáo hóa chúng sanh thì phải có duyên mới giáo hóa chúng sanh được. Chúng sanh gieo duyên với Phật, Phật nợ họ nên sau gặp lại Phật độ họ. Nhờ gieo duyên nên mới gặp lại để giáo hóa, nếu không có duyên thì không gặp lại được. Nên nói, Phật hóa hữu duyên nhân, tức là Phật chỉ giáo hóa người có duyên với Ngài. Người có duyên mới gặp Phật được, Phật dạy họ mới nghe, còn không có duyên thì dù thấy Phật cũng không đến gặp Phật. Trong kinh Hiền Ngu có đoạn kể, đức Thế Tôn dùng đủ lời lẽ an ủi Phước Tăng, khiến dứt sạch lo buồn, tâm rất hoan hỷ, liền đi theo Phật vào đến tinh xá. Đức Phật bảo tôn giả Đại Mục-kiền-liên: “Hãy xuất gia cho người này. Vì sao? Vì chúng sanh tùy duyên mà được độ. Người có duyên với Như Lai thì người khác không thể độ, người có duyên với người khác thì Như Lai không thể độ. Người có duyên với Xá-lợi-phất, hay Mục-kiền-liên, Ca-diếp, A-na-luật, Kim-tỳ-la... thì tất cả đệ tử khác cũng không ai có thể độ được. Nên biết, tùy theo người có duyên mới độ được, còn người khác không thể độ”. Thế nên, chúng ta muốn mai kia giáo hóa được nhiều người thì phải nhận của thí chủ cúng dường, gọi là gieo duyên. Nhận, đó là vay mượn, mình thiếu nợ thí chủ nên sau gặp lại để trả. Tuy nhiên, hình thức trả hoàn toàn khác hẳn. Bây giờ vay mượn bát cơm, manh áo, nhưng khi trả thì trả bằng giáo pháp. Thầy thường nói, Thầy nợ chúng sanh đầy đầu. Nhờ có nợ nên bây giờ Thầy giảng mới có nhiều người tới nghe. Nếu không có nợ, tức không có duyên, thì dù gặp cũng không cảm, mà không cảm thì làm sao giáo hóa được. Người nào nghĩ rằng mình ở thất tu, sống tự túc để không nợ nần ai hết, mới nghe tưởng hay nhưng đó là ích kỷ. Vì không có tâm giáo hóa chúng sanh. Chúng ta không đòi hỏi Phật tử cúng đường nhưng nếu Phật tử phát tâm cúng thì phải nhận. Nhận đó gọi là gieo duyên, hay là hóa duyên, tức tạo duyên để hóa độ. Người ta trao cho mình món nợ, mình nhận để có nhân duyên trả nợ. Đời này tu trả chưa xong thì đời sau gặp lại tiếp tục giáo hóa để trả. Mục Lục
|
Tông Môn Cảnh Huấn 3
Phần I - Giáo huấn chư Tăng nội viện
Phần II - Giáo huấn chư Ni nội viện
|
Phần I - Giáo huấn chư Tăng nội viện
Phần II - Giáo huấn chư Ni nội viện
39. Sự khác biệt giữa hồi quang phản chiếu và phản quan tự kỷ
48. Nương chúng tu học - Tùy duyên hóa độ