Thiền Tông Việt Nam
Tông Môn Cảnh Huấn 3
33. Tu thiền là tu trí tuệ

Hôm nay có một số vấn đề cần yếu tôi phải nói cho tất cả Tăng Ni nắm vững. Hầu hết các chùa ở Việt Nam đều tu theo Tịnh độ. Khi trong gia quyến quý Phật tử có người nhà hoặc thân hữu bệnh nặng đang hấp hối, muốn trợ niệm cho họ, thầy cô tụng kinh Di Đà. Chúng ta tu thiền tụng kinh gì? Đó là một vấn đề e rằng Tăng Ni sẽ lúng túng khi được Phật tử rước tới hộ niệm?

Nếu Phật tử tu thiền sắp lâm chung, mời Tăng Ni tới trợ niệm thì quý thầy cô tụng kinh Bát Nhã. Chúng ta tu theo Thiền tông, thấy tất cả pháp đều huyễn hóa, không có một pháp thật. Cho nên hệ thống Bát-nhã là cửa vào Thiền tông. Tu thiền là từ trí tuệ đi tới giác ngộ. Vì Bát-nhã là trí tuệ, nên lấy kinh Bát Nhã làm căn bản, có đạt lý Không mới thấu được lý thiền. Nếu ai siêng hơn thì tụng thêm kinh Kim Cang.

Phật dạy rất rõ, thân chúng ta hiện sống trong hoàn cảnh có nhà cửa, chùa chiền, thân bằng quyến thuộc. Tất cả những thứ đó đối với người học Phật thuần thục, hiểu thấu thấy là giả. Dùng trí tuệ Bát-nhã chiếu soi thấu đáo, tường tận thì không có một pháp thật giữa thế gian. Thân không thật, cảnh không thật, mọi người xung quanh cũng không thật. Cái thấy đó dường như bi quan, nhưng sự thật không phải bi quan.

Giả sử mình thấy mọi thứ đều không thật, người khác đặt câu hỏi: “Anh sống được chừng bao lâu?”. Đáp: “Thân không thật, sống chừng nào cũng rốt”. Trả lời như vậy, người ta ngầm thấy mình bi quan. Thấy thân không thật nên không muốn làm gì hết, cảnh không thật lại càng bi quan hơn. Vì vậy người tu Phật phải thấm nhuần lý Bát-nhã. Đây là bài kinh thông dụng nhất trong Phật pháp, dù Tịnh độ hay Thiền tông cũng đều tụng mỗi đêm. Tại sao thông dụng?

Bởi vì đạo Phật là đạo giác ngộ, muốn giác ngộ không phải do lòng tin mà từ trí tuệ bước vào. Bát-nhã là trí tuệ. Cho nên người học Phật, tu Phật muốn đi đến giác ngộ trước phải có trí tuệ. Bằng con mắt trí tuệ Bát-nhã, chúng ta thấy tường tận không có một pháp thật trong đời. Đây là lẽ thật, chứ không phải bi quan. Bởi vì tất cả các vị Bồ-tát đều tu với tâm lạc quan, thấu suốt lý Bát-nhã bước vào địa vị Bồ-tát giáo hóa chúng sanh. Bát-nhã nói cái gì cũng không, dễ khiến người khác bi quan. Bồ-tát lúc nào cũng hăng hái làm lợi ích cho chúng sanh, quên mình vì chúng sanh thì không thể bi quan được. Đã không bi quan lại thâm nhập lý Bát-nhã thì chẳng có gì mâu thuẫn hết.

Chúng ta hiện giờ sống trong mâu thuẫn mà không biết. Nếu có ai hỏi thầy cô sống được chừng bao lâu, quý vị trả lời sao cho hợp đạo? Phật nói mạng người sống trong hơi thở, thở khì ra mà không hít vô là chết ngay. Đó là cái nhìn thấu đáo đúng lẽ thật, không ai có thể chối cãi được. Hơi thở quá ư là ngắn ngủi, người ta sống tới bảy tám mươi tuổi, mà Phật nói sống trong hơi thở có mâu thuẫn không?

Phật nói mạng người sống trong hơi thở chứ không nói bao nhiêu năm, bởi vì một hơi thở ra không hít vào là chết rồi. Nhớ như vậy chúng ta không còn ham danh vọng, hơn thua với ai nữa, chỉ muốn thức tỉnh luôn. Lúc nào đi đâu cũng nhớ mạng sống trong hơi thở quá ngắn ngủi, có ai chửi không thèm chửi lại, lo tu chứ hơn thua làm gì. Ai còn nghĩ thân này sống lâu dài mới hơn thua phải quấy với nhau. Người học Phật không khéo ứng dụng lời Phật dạy vào đời sống mới là bi quan. Đạo Phật là đạo như thật, những gì Phật nói là chân lý, không phải mơ màng huyễn hoặc.

Người này tưởng mình sống 80 tuổi, người kia 70 tuổi, người nọ 60 tuổi. Đó chỉ là tưởng tượng, sự thật thở ra không hít vô là chết ngay. Lẽ thật rõ ràng trước mắt mà chúng ta thường dễ quên. Ai coi tay nói thầy chừng 50 tuổi chết thì buồn lắm, nếu nói tám chín mươi tuổi mới chết thì rất hân hoan. Cái buồn vui này từ mê chấp mà ra. Ai cũng mong sống một khoảng thời gian dài chứ không muốn ngắn, mà quên đi chân lý “mạng người sống trong hơi thở”.

Người học Phật là người trí tuệ thấy biết đúng như thật qua lời Phật dạy, không nên cố chấp sai lầm. Khi bệnh ngặt có người tới thăm nói sự thật mình không chịu. Vì lúc nào cũng muốn sống dai, không muốn chết sớm. Đứng về đạo ai cũng cho rằng sống lâu để làm lợi ích chúng sanh. Tuy nhiên chưa hẳn như vậy. Đó là lợi ích chúng sanh hay lợi ích cho mình? Việc này nói thì dễ mà thực hành lại khó. Chúng ta tu làm sao lời nói, việc làm theo nhau mới xứng đáng. Nói một đàng làm một ngả, không đúng đạo lý là điều không hay.

Tôi thường nhắc Tăng Ni luôn nhớ một ngày chúng ta có mặt trên đời là một ngày lợi ích. Trước hết là được học đạo, tu hành tự lợi cho mình. Tu học được rồi sau này giảng dạy, hóa độ người khác. Hiện tại còn trong thời gian tu học thấy như tiêu cực vì chỉ lo cho mình. Nhưng chính nhờ cái tiêu cực đó nuôi dưỡng trình độ đạo đức, công phu tu hành để mai kia làm lợi ích cho người. Như vậy quý vị không hổ thẹn, chỉ lo tu học đàng hoàng chân chánh. 

Ngoài thế gian muốn làm thầy giáo, phải nhiều năm lo học cần mẫn, sau có tài mới dạy lại người khác. Chư Tăng Ni cũng vậy, thời gian ở thiền viện là để huân tu đức hạnh, học hỏi đạo lý cho thấu đáo. Mai kia quý vị rời khỏi đây, về ở một nơi nào đó giáo hóa người khác mới được. Nếu ở đây năm mười năm không chịu học, không chịu tu, tới chừng ra không biết làm gì. Như thế là tự phí đời mình, làm mất niềm tin của Phật tử đã gửi gắm ủng hộ mình, rốt cuộc phải thất vọng.

Cho nên ngày nào ở thiền viện ngày đó phải học, phải tu cho đàng hoàng. Một khi đầy đủ khả năng, đức độ, đi đâu cũng có thể làm lợi ích. Quý vị phải có cái nhìn thấu triệt, mình là người đang vay nợ Phật tử, vì vậy phải trả nợ bằng cách tu học cho xứng đáng, mai kia lớn lên làm lợi ích lại cho họ. Nếu không biết làm gì hết tức là phụ công ơn của người ta, phước đức mình lại không có, e đời sau bị đọa để đền trả nợ trước.

Tôi nhắc lại ngày nào còn ở thiền viện, ngày đó Tăng Ni phải thực hiện hai điều. Thứ nhất là phải tu. Quý thầy lớn ngồi thiền chúng ta ngồi thiền; quý thầy ngồi lâu bao nhiêu chúng ta ngồi lâu bấy nhiêu. Thứ hai là phải học, tới giờ học lên lớp học, học hiểu thấu đáo, chỗ nào không biết thì hỏi những vị lớn hơn nhờ giải thích. Như vậy thời gian sống trong thiền viện mới không uổng phí. Nếu ở đây quý vị học lơ mơ tu lơ mơ, mai kia ra làm Phật sự không ra làm sao, thì thật đáng hổ thẹn. Đó là điều rất đau buồn. Tăng Ni không được để mất một giờ, nửa giờ nào hết. Làm sao giờ nào cũng là giờ tu học. Ráng tu học đến nơi đến chốn, mai kia mới có thể lãnh trọng trách, đền ân Tam bảo.

Người đi trước phải giúp đỡ người đi sau. Nếu không cần mẫn tu học, muốn giúp đỡ người không biết giúp đỡ thế nào. Ở thiền viện 10 năm, người ta tin tưởng, nhưng đem cuốn kinh lại hỏi ý nghĩa, giảng không nổi, ngồi thiền cũng không tới hai tiếng đồng hồ. Nếu mình đi trước làm không nổi thì dìu được ai? Tăng Ni cố gắng, nuôi ý chí mãnh liệt chứ không phải thường. Quý vị hiện giờ có phước nên điều kiện tu tập đầy đủ dễ tiến.

Buổi ban sơ tôi tu thiền không có thầy dạy, không có bạn bè hỗ trợ. Ở chùa Phật Quang, Thầy tôi dạy niệm Phật, còn tôi lại thích ngồi thiền. Bữa đó tôi đắp y lên thưa: “Bạch thầy con thích tu thiền, Thầy cho phép con ngồi thiền”. Thầy tôi cười nói: “Ờ được, tu thiền cũng tốt”. Từ đó về sau đến thời khóa tụng niệm tôi lại trải tọa cụ ngồi thiền. Trong hoàn cảnh không người hướng dẫn không có bạn bè, nhưng tôi quyết tâm phải tu thiền, nên đã thực hiện được tâm nguyện của mình. 

Đọc sử chúng ta thấy đức Phật ngồi thiền dưới cội bồ-đề được giác ngộ, các Tổ tu thiền được thành Tổ. Chúng ta bây giờ không biết tu thiền là không trung thành với Phật tổ, đi theo ngọn ngành mà quên nguồn gốc. Tôi làm việc gì phải phăng tận gốc chứ không chịu theo ngọn ngành. Ngọn ngành là chi tiết, cái gốc mới là căn bản. Sư ông tôi chuyên tu Tịnh độ, Thầy tôi cũng tu Tịnh độ, tới tôi xin tu thiền. Thầy tôi là người rộng lượng bao dung, không cố chấp, chẳng những không rầy mà còn đưa mấy cuốn kinh về thiền cho đọc. Nhờ vậy tôi tu được, lần mò trong kinh điển cho đến sách sử các Tổ, đọc hiểu rồi dịch ra cho người sau cùng biết.

Nguyện của tôi là tu thiền, bởi vì tôi trung thành với cái gốc ban đầu. Gốc của đạo Phật là tu thiền. Đức Phật ngồi định tâm phát trí tuệ được giác ngộ chứ không cầu gì bên ngoài. Chư Tổ cũng vậy, đều định rồi mới được tuệ. Như vậy gốc của sự tu ngay nơi mình. Sống với vọng tâm thì điên đào tạo nghiệp, dừng được vọng tâm là trở về chân tâm. Chân tâm thanh tịnh cho nên sáng suốt, giác ngộ. Do đó mục tiêu của người tu theo đạo Phật phải lấy giác ngộ làm gốc, lấy thiền định làm phương pháp căn bản.

Người tu Tịnh độ niệm Phật cầu sanh về Cực Lạc, qua đó tiếp tục tu để được giác ngộ. Người tu thiền ngay đây tâm an định, trí tuệ phát sáng, giác ngộ ngay hiện đời. Vì thế việc làm cụ thể thực tế nhất là phải lặng tâm điên đảo vọng tưởng, trở về sống với tâm thanh tịnh sáng suốt, tức là trở lại với chính mình. Trong kinh Phật thường nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, cho nên ai cũng có khả năng thành Phật, chỉ biết trở về hay không trở về thôi.

Tu thiền là dừng vọng tưởng trở về tâm thanh tịnh. Lúc không có một niệm dấy lên, mình vẫn biết. Như vậy vọng tưởng không phải chủ, chỉ là cái lăng xăng sanh diệt. Khi nó lặng, cái biết trùm khắp toàn thân. Trên đầu muỗi cắn biết, dưới chân kiến cắn biết, ở đâu cũng biết hết. Vì thế nói chân tâm trùm khắp. Vì chạy theo vọng tưởng nên chúng ta quên cái chân thật sẵn có nơi mình. Tu thiền là dừng vọng tưởng để sống với chân tâm. Khi không suy nghĩ mà vẫn biết rõ ràng, mắt thấy, tai nghe, tất cả mọi việc xảy ra xung quanh đều biết, đó là cái biết chân thật.

Cái biết lăng xăng trong đầu là hư dối. Nếu cho nó là tâm mình rồi chạy theo thì phiền não phát sinh. Vì vậy Phật dạy chúng ta phải định tâm loạn tưởng. Dừng được nó thì trí tuệ chân thật hiện ra, đuổi theo nó thì muôn kiếp đi trong luân hồi. Cho nên người tu tâm luôn luôn sống trong an định. Đã an định thì không cần trợ niệm bên ngoài.

Khi dấy niệm khởi nghĩ, niệm đó có hình dáng. Nghĩ về người có hình dáng người, nghĩ về Phật có hình dáng Phật. Tới chừng không nghĩ gì hết, chỉ còn cái biết không hình dáng. Vì không hình dáng nên nó bủa khắp như hư không. Cho nên khi tâm không có một niệm khởi, vẫn rõ ràng thường biết. Mắt biết thấy, tai biết nghe, thân biết xúc chạm, hằng giờ hằng phút không thiếu vắng. Đó là cái biết chân thật, Phật gọi là chân tâm.

Cho nên không phải trong giờ tọa thiền mới tu, mà đi đứng nằm ngồi bất cứ lúc nào tâm thường tỉnh giác không mê muội, phải nhớ và biết trở về mới thực là tu. Tới giờ ngồi thiền phải hăng hái lên, bởi vì đó là giờ vàng ngọc. Chúng ta tu quý ở tâm an định, muốn an định phải ngồi thiền. Ngồi thiền định tâm thì đi đứng nằm ngồi mới giữ định được. Định ở đây chính là định tâm loạn tưởng. Trong hai tiếng, định được nửa tiếng cũng là quý lắm rồi. Nếu ngồi hai tiếng, hết nghĩ đông tới nghĩ tây, hết nghĩ nam tới nghĩ bắc, chạy giáp vòng bốn phía, thì coi như cúng dường hết giờ tu hành cho bọn ma vọng tưởng, buông lung rồi.

Tất cả Tăng Ni nỗ lực quyết tâm, làm sao sự tu phải có kết quả, đừng lơ là. Bởi vì chúng ta có trách nhiệm quá ư nặng nề. Bỏ cha mẹ, bỏ gia đình vào chùa tu, mong sau này có thể độ được cha mẹ, người thân, nhưng nếu tu lơ mơ thì độ được không? Ai quyết tâm tu nhất định phải thấy được trách nhiệm nặng nề này. Trước là tu cho mình, sau làm nền tảng, phương tiện độ cha mẹ. Vì vậy Tăng Ni phải biết quý tiếc thời gian, giờ tu là giờ vàng ngọc không nên bỏ. Tôi thấy nhiều người, bên ngoài vui vẻ tươi cười, ngồi thiền một chút gục lên gục xuống. Những người như vậy thật đáng trách, giờ tu không quý trọng, mà lại xem thường bỏ phí.

Tu không phải là việc nhàn hạ, ở trong chùa ngồi thiền, tụng kinh cho qua ngày. Thực tình trách nhiệm người tu hết sức lớn. Nguyện sớm được giác ngộ để độ cha mẹ, độ tất cả chúng sanh. Muốn được giác ngộ phải có định, định mới có tuệ. Ngay đời này tỉnh giác chứ không đợi đời sau. Đừng nói tu để gieo nhân đời sau tu tiếp, chết rồi biết đời sau có gặp lại Phật pháp không. Cho nên phải cố gắng tận lực tu, không hẹn hò.

Ngồi thiền phải gan dạ chịu đau, hết giờ mới được xả. Chân bắt kiết-già, lưng thẳng, mắt nhìn xuống không nhắm cũng không mở lớn. Hai tiếng đồng hồ ngồi không nhúc nhích, cục cựa tuy hơi khó nhưng phải làm cho được. Bởi vì đó là giờ vàng ngọc của mình, ngồi cho xứng đáng thì mai kia mới có thể độ người khác. Nếu không làm được điều đó, sẽ mắc phải hai lỗi. Lỗi thứ nhất là bất hiếu. Nếu tu không ra gì, không độ được cha mẹ là không làm tròn bổn phận của người con. Lỗi thứ hai là cô phụ công ơn đàn-na. Mỗi ngày thí chủ cúng dường tứ sự cho chúng ta có đầy đủ phương tiện để an tâm tu học, mà tu không ra gì là phụ công ơn của họ. Đó là hai tội rất nặng.

Tăng Ni tu là quyết tâm đạt kết quả tốt để trên đền bốn trọng ân, dưới cứu độ ba cõi. Thực là một trọng trách nặng nề. Nhiều người lầm tưởng, cạo tóc vô chùa tu không thấy làm gì hết mà lại có ăn mặc đầy đủ, họ nói người tu thong thả, thảnh thơi quá. Sự thật không phải vậy. Quyết tâm tu để làm việc lợi ích cho cha mẹ, cho tất cả chúng sanh, vì vậy phải hết sức cố gắng.

Mong tất cả Tăng Ni nhớ những lời tôi nhắc nhở mà ráng tu đừng bê trễ, đừng để một đời tu không có kết quả, sau hối hận không kịp. Tôi có trách nhiệm nhắc nhở quý vị học hiểu đạo lý rồi cố gắng thực hành, nỗ lực tu đến nơi đến chốn. Như vậy mới xứng đáng là đệ tử của Phật, con cháu Tổ sư.

Mục Lục
Tông Môn Cảnh Huấn 3
Phần I - Giáo huấn chư Tăng nội viện
Phần II - Giáo huấn chư Ni nội viện
Danh sách chương: