Thiền Tông Việt Nam
Khánh Thọ Bách Tuế Hòa Thượng Tôn Sư
Suối Nguồn Bất Tận - Trúc Lâm Bạch Mã

Thuở ấy, Linh Thứu Sơn rạng ngời ánh đạo. Trên tay Phật sen nở, tổ Ca-diếp mỉm cười. Lời Thế Tôn phó pháp vang rền, trời người chấn động. Mật ý mật ấn chư Phật, hiện bày rành rành trước mắt. Thiền tông từ đây lưu truyền diễn xướng, Tây Thiên tứ thất, Tổ Tổ trao truyền tiếp nối tâm đăng. Đến tổ Đạt-ma truyền sang Trung Thổ, vượt mấy trùng khơi. Nhân duyên chưa ứng hợp, một khoảng lặng thầm nơi Thiếu Thất, bặt dấu, im hơi. Bỗng một sáng Thần Quang bặt dứt các duyên, rõ ràng thường biết. Ngọn Tung Sơn tuyết tan mây tạnh, trời Thiếu Thất bừng sáng hơn xưa. Không gì cản được, cứ thế, Thầy trò khế hội, nối đuốc mồi đèn. Đông Độ nhị tam, nơi nơi tùy duyên bủa khắp. Để rồi một thuở, trời Đại Việt đất bằng dậy sóng, Thiền Trúc Lâm vòi vọi rạng ngời. Điều Ngự khai tông, Pháp Loa huy chấn, Huyền Quang nối nắm mạng mạch, Phật giáo Thiền tông phát triển đỉnh cao, trở thành Quốc giáo. Nhưng rồi, lại có lúc lặng thầm như vắng bóng, ngót nhiều thập kỷ thất truyền. Nào ngờ, ở vào thời kỳ đương đại, thế kỷ XX, suối Thiền ấy lại được Hòa thượng Thiền sư thượng Thanh hạ Từ - Tông chủ Thiền phái Trúc Lâm khơi nguồn dũng xuất, tỏa sáng khắp cõi, soi rọi muôn nơi.

Sanh ra trong thời mạt pháp, không ai dám biết Thiền tông. Nhưng ngay từ thuở đầu xuất gia học đạo, Hòa thượng đã muốn tu Thiền. Trong lòng thôi thúc, muốn khôi phục Thiền tông Việt Nam, tự đặt cho mình trọng trách tiếp nối phục hưng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Việc như vô tình ấy, nhưng lại là từ chủng duyên nhiều đời đã ấn trong tâm. Một khuya đọc kinh Lăng nghiêm, đến đoạn thất xứ trưng tâm, bỗng dưng rơi lệ. Túc duyên khải phát, tánh Phật đã chớm nổ tung, một thoáng thắng duyên, cho sau này tâm khôi bừng sáng. 

Nhân duyên phải hẹn, bao năm bạn với sách đèn, đứng lớp giảng dạy, để đợi đến ngày đầy đủ phúc duyên, thực hiện hoài bão bấy lâu nung nấu. Thế rồi ngày ấy đã đến, rằm tháng tư Mậu Thân, Pháp Lạc thất khép cửa, Thiền giả quả quyết: “Không có thời hạn, nếu không sáng đạo, chết hẳn trong thất, không ra.” Chí đã quyết, tâm đã về một mối, điều còn lại chỉ là tâm địa phát minh, không còn việc khác. Phật tổ không dối người, Phật pháp có thật nơi mỗi người chúng ta. Đưa tâm về một nơi, không việc nào mà không thành tựu. Quả vậy, sau gần bốn tháng miên mật”, một khuya đang lúc tọa thiền, tâm ngài bừng ngộ, Bát-nhã hoa khai, thực tướng hiện tiền, tâm thiền rờ rỡ.

Nhớ lại xưa kia, Đạt-ma ấn tâm, truyền trao bốn quyển Lăng-già. Lư hành giả nhân nghe Kim Cang mà bừng ngộ, thành Tổ. Ra đời vắng bóng Tổ sư, không có Thiền sư ngộ đạo, Hòa thượng đã noi dấu Tổ sư, nhờ vào Kinh Luận ấn chứng. Giây trước đó xem kinh Đại thừa, đọc Luận, Ngữ lục như muỗi cắm trâu sắt, không tài nào hiểu được. Giây sau đó thông thống hoát toang. Đọc đến đâu, rõ sáng mồn một đến đó, như thể Phật tổ đang nói việc của mình, nơi mình đã sẵn bày ra đó. Vậy thì, năng lực nào đã cho ngài suốt thông tất cả, nếu không phải tâm thể đã hiện bày! Suốt thông tâm thể Phật tổ, mới tỏ suốt diệu chỉ quý ngài, mật ấn mật ý chư Phật, toàn bày trước mắt! Đã ngộ thì tự như thế, tâm tự khế tâm. Bằng chưa, như người đứng bên ngoài, không tài nào hiểu được. Việc ấn chứng này bình đẳng và khách quan là vậy. Thế thì, Kinh Luận không đủ để ấn chứng cho hành giả đã ngộ hay sao!

Sơ tổ Trúc Lâm đã khẳng định: “Đạt một lòng mới thông Tổ giáo”. Ngộ rồi sẽ tự thấy. Chưa ngộ phải lo tu, không thể khác. Đây là việc làm kỹ lưỡng, nghiêm túc của Hòa thượng Tông chủ đối với việc Phật tổ, không dám tùy tiện theo sở kiến hay phàm tình cá nhân. Con đường tiếp nối và phục hưng Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam bắt đầu từ đó. Từ bản tâm đã tỏ sáng, từ khi ra thất, và cũng là từ lúc ngài tuyên bố “Đã đến lúc bắt đầu làm Phật sự”. Cửa Thiền đã mở, Chơn Không một cõi thênh thênh. Nạp tăng chốn chốn nơi nơi, đủ duyên quay về tụ hội. 

Đường đời vạn lối, nẻo đạo không thiếu những khúc quanh. Nếu không quy hàng, sau những khúc quanh là cả một bầu trời thênh thang, xán lạn. Đạo lực, trí tuệ cho đến các việc Phật sự đều như lột xác, đổi thay. Cuộc đời tu hành và giáo hóa của Hòa thượng Tông chủ cũng không thiếu những khúc quanh ấy, nhưng ngài luôn thấy đó là những thắng duyên, bởi đã đưa đến nhiều thành tựu.

Duyên tại Chơn Không tạm thời không thuận, xuôi về miền Long Thành, Đồng Nai dựng lập môn phong, Tổ đình Thường Chiếu trở thành trung tâm đào tạo tu học lớn nhất Thiền phái Trúc Lâm đương đại. Để rồi sau đó, đủ duyên chắp cánh Phụng Hoàng. Xứ cao nguyên, miền Đà Lạt dựng lập Thiền viện Trúc Lâm, làm nơi chuyên tu, thực hiện lý tưởng tối hậu. Rồng mây hội tụ, đêm ngày miên mật công phu. Nếu chưa sáng tâm, làm phân cho các gốc thông nội viện. Đã có hoa tâm nở rộ, Hòa thượng tuyên bố, không cho an trú trong chỗ lặng trong, bắt đầu hạ sơn, bảo nhậm công phu trên động dụng. Trải qua thời gian ẩn náu, đến lúc ứng hiện, tùy duyên bay khắp muôn phương. Để rồi từ đây, khắp nơi trong nước, đến cả phương ngoại trời Tây, nơi nơi hữu duyên, đạo Thiền lan tỏa, mưa pháp rưới ban, tùy phần lợi ích.

Khải phát tiếp nối đèn thiền tại phương Nam, đầy đủ phúc đức nhân duyên, lại được quay về cội nguồn chốn Tổ. Nơi di chỉ chùa Lân, tôn tạo Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử. Từ đây suối nguồn Tổ xưa tuôn chảy, các đạo tràng Thiền viện lần lượt ra đời, có nơi cho kẻ tục người tăng hướng về tu tập.

Tùy thời co duỗi, nắm buông tự tại, biết rõ hành tàng, Hòa thượng tuyên bố nhập thất. Để lại trọng trách, con cháu ngỡ ngàng, dù đã kỹ càng chỉ bảo. Ném xuống biển lớn, tự biết chống chọi thoát thân, cách dạy Thiền sư, ngài đã làm thành các bậc long tượng. Trong thất chân tâm chói lọi, ngoài kia con cháu lớn khôn. Từ bậc thượng thừa Phương trượng, cho đến phương ngoại tại gia, ngày đêm nối đuốc mồi đèn, cho mạng mạch Thiền tông ngày càng quang huy xán lạn.

Vết nhạn lưng trời, 100 năm và còn nữa. Tuy chỉ là một vệt thị hiện như mộng ảo, ảo nhưng lại diệu vô cùng. Khai hóa biết bao nguồn tâm, sực tỉnh cơn mê, siêu phàm vượt thánh. Diệu dụng Phật pháp nơi bậc đã sáng nguồn tâm bất khả tư nghì như thế. Đến sẽ thấy. Nếu chưa, như kẻ bàng quan.

Ghi dấu bách tuế, mừng thượng thọ Hòa thượng Tôn sư, hàng môn đệ tử tôn, từ trong tâm khảm, bằng vào công phu tu tập, mỗi người tùy phần tỏ bày tấc dạ, những mong đáp đền phần nào thâm ân giáo dưỡng cao vời trong muôn một.

Hôm nay, huân triêm pháp hóa, dưới sự gọt giũa đào luyện của ngài, đã có vị nhận ra mật ấn mật ý chư Phật. Bất động nhưng rành rành linh thông, trước mắt rõ ràng, ai che giấu được? Cành sen trên pháp hội Linh Sơn vẫn đang còn đó, nở rộ tỏa ngát tròn vìn, ai bảo pháp hội giải tán! Suối Thiền Yên Tử Trúc Lâm đang gội nhuần lan tỏa, sao lại dám bảo mất đi! Dòng Thiền nước Việt chính thức được tiếp nối phục hưng, sống dậy, khởi sắc rực rỡ. Con cháu đời sau tiếp bước huy quang, cũng từ mật ý mật ấn, từ mạch nguồn Thiền chưa từng chìm mất ấy.

Hãy nói hiện nay suối nguồn Thiền tông đang tuôn chảy là khởi nguyên từ mạch nguồn Linh Thứu, xuống đến Tào Khê, xuôi về đất Việt? Hay tất cả đang tự tuôn trào ngập tràn sẵn đó? Nếu không phát xuất từ đức Phật niêm hoa thì tại sao trước khi chưa gặp thầy tổ chỉ bày kích phát, chúng ta không thể tự ngộ? Nếu bảo từ Linh Sơn, Tào Khê, Yên Tử hay từ thầy tổ thì tại sao dòng Thiền ấy không tự tuôn chảy mà đã có lúc như chìm mất đi; mà thực tế hiện nay, có người nhận ra, cũng có lắm người chưa nhận? Đã sẵn thì tại sao không thể tự nhận? Nếu nhờ thầy tổ, tại sao lại có người nhận được, người thì chưa? Đừng suy nghĩ nữa! Dứt tâm tìm cầu bên ngoài, bặt hết các tướng đi - Không mê - Ngay đó toàn thể hiển hiện sáng ngời, mặc tình tiêu dao tự tại.

Mục Lục
Khánh Thọ Bách Tuế Hòa Thượng Tôn Sư
Danh sách chương: