|
Khánh Thọ Bách Tuế Hòa Thượng Tôn Sư
Thỉnh Phật Trụ Thế - Đạo Tâm
Sanh ra đời gặp Phật là khó, được nghe chánh pháp còn khó hơn. Ngài Huyền Trang, một cao tăng đời Đường Trung Hoa, từ Đông Độ sang Thiên Trúc thỉnh kinh. Khi đến đất Phật, ngài xúc động toàn thân, cảm lệ thốt lên: Khi Phật ra đời con trầm luân, Khi Phật nhập diệt con ra đời. Tự nghĩ thân này nhiều nghiệp chướng, Chẳng thấy kim sắc thân Như Lai. Nay là thế kỷ XXI, cách Phật 2600 năm, lại xuất hiện một bậc Tôn sư, đó chính là Sư ông thượng Thanh hạ Từ. Sư ông ra đời là hiện thân của sự giác ngộ, thừa bi nguyện hoằng truyền chánh pháp Thế Tôn, khiến người người ân triêm pháp lạc. Con được biết Sư ông hồi tuổi còn rất nhỏ. Năm mười sáu tuổi, hàng tuần đạp xe gần hai mươi cây số từ nhà đến Thường Chiếu nghe Sư ông giảng kinh Pháp Hoa, được Sư ông tặng quyển kinh Pháp Hoa do Hòa thượng Vạn Đức dịch, hồi đó được quyển kinh Pháp Hoa lòng vui mừng vô kể, một kỷ niệm trong đời khó quên. Càng nghe Sư ông giảng, con càng thấm nhuần lời kinh, “Đức Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên, khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến.” Được gặp Sư ông, được học pháp từ Sư ông là phúc duyên vô cùng to lớn, không khác nào được gặp Phật. Từ duyên lành ấy, con nguyện phát tâm xuất gia nương theo Sư ông tu học. Năm 1992, con đến trước bàn thờ Phật, thắp ba nén hương, lễ Phật và phát ba lời nguyện: Một, dù có bệnh nặng thà chết ở Thiền viện, quyết không trở về. Hai, tu cho đến khi ngộ đạo mới ưng. Ba, sau khi ngộ đạo, nguyện xả thân độ sanh. Xong, từ giã ba mẹ đến Thường Chiếu xin xuất gia, được Sư phụ từ bi tế độ, con chính thức được làm tăng dạo ấy. Năm 1993, Sư ông xây dựng Thiền viện Trúc Lâm Phụng Hoàng. Với hoài bão khôi phục Thiền Tông Việt Nam cuối thế kỷ XX, và tạo điều kiện tốt cho Tăng Ni yên tu, với lý tưởng tối hậu, “Tu phải sáng đạo.” Sư ông tuyển chọn một số ít thiền sinh tại Thường Chiếu như thầy Thông Phương, thầy Tuệ Giác, thầy Tuệ Tĩnh,... cho về Trúc Lâm. Lúc ấy, con mới xuất gia được hai năm, lòng nôn nức muốn được về Trúc Lâm chuyên tu, thế nhưng điều kiện Sư ông đặt ra là phải ở Thiền viện ba năm trở lên, học hết giáo lý cơ bản, ngồi thiền hai tiếng... so lại thì mình không có phần. Phải làm sao đây? Nhớ lại thuở ấy thật ngây ngô, mỗi đêm ngồi thiền con đều niệm danh hiệu Sư ông như niệm danh hiệu Phật vậy, nguyện Sư ông thâu nhận con vào Trúc Lâm tu. Lòng thành tha thiết, cảm ứng đạo giao nan tư nghì, một buổi chiều, Sư phụ đang nằm trên chiếc võng bên hành lang, con đến ngồi bên cạnh. Bất chợt Sư phụ hỏi: “Đạo Tâm có muốn lên Trúc Lâm không?” Nghe xong, con vui mừng muốn rơi nước mắt, đúng ngay lòng đang mơ ước của mình, con liền nói con muốn lắm, Sư phụ bảo: “Vậy tháng này Sư ông về, Đạo Tâm lên xin đi." Lời gợi ý của Sư phụ, có phải chăng đây chính là Phật tổ chỉ bày. Sư ông từ Trúc Lâm về Thường Chiếu, con liền đắp y đến đảnh lễ xin Sư ông cho con được về Trúc Lâm tu. Nhìn Sư ông trang nghiêm, lòng con rất hồi hộp, rất lo sợ Sư ông không chấp nhận. Đầu tiên, Sư ông hỏi: - Chú ở Thiền viện được mấy năm rồi? Con thưa: - Dạ, bạch Sư ông con ở Thiền viện hai năm. Sư ông hỏi tiếp: - Chú ngồi thiền được hai tiếng chưa? Nghe Sư ông hỏi câu này, thật tình lúc này con ngồi chỉ hơn một tiếng, nếu trả lời ngồi chưa được hai tiếng chắc Sư ông không cho. Con liền nghĩ ra cách đáp: - Con cố gắng ngồi sẽ được hai tiếng. Sư ông trầm ngâm giây lát liền bảo: - Chú xuống đi, để Sư ông tính lại! Nửa mừng nửa lo. Nếu không nhận, Sư ông liền nói dứt khoát, đằng này Sư ông nói “Để tính lại!” Tháng sau, Sư ông từ Trúc Lâm về, con tiếp tục đắp y đảnh lễ thưa lại. Sư ông liền gật đầu. Quá vui mừng, ngày mùng 2 Tết năm 1994 cùng 14 Thầy lên xe về Trúc Lâm. Sau ngày Khánh thành, ngày mùng 08 tháng 02 năm Giáp tuất, Sư ông liền họp chúng tuyên bố khép cửa Nội viện, chư Tăng áp dụng sống tu theo Thanh quy Thiền viện Trúc Lâm. Từ đó, nội bất xuất, ngoại bất nhập, hàng ngày ngồi thiền ba thời, mỗi thời hai tiếng, được Sư ông tận tình kiểm thiền, đại chúng trang nghiêm tiến tu. Lúc đầu gặp rất nhiều khó khăn, chưa thích nghi với khí hậu Đà Lạt, khuya 3 giờ thức dậy vào nhà bếp làm trị nhựt, vo gạo rửa rau, bàn tay tiếp xúc với nước lạnh buốt tái tê. Buổi chiều chỉ uống bột, những chàng thanh niên trai trẻ vừa uống một ca bột vào một tiếng sau nó chạy mất tiêu. Tối ngồi thiền nghe bao tử kêu ột ột. Mỗi ngày ngồi thiền ba thời, mỗi thời hai tiếng đâu phải dễ, đi đêm mới biết thấm lạnh. Nóng cháy cả da bàn chân, hết tê rồi lại đau, có lúc đau âm ỉ, có lúc đau thấu xương. Sư ông dạy phải làm chủ được mình, dần dần cũng vượt qua. Chủ trương của Sư ông “Tu quyết tử”, không có lý do gì xin phép đi đây đi kia, thật tình người có tâm hướng ngoại không cách gì ở yên một chỗ tu được. Ngoài việc ngồi thiền, mỗi tháng Sư ông có hai buổi giảng về những tác phẩm Thiền Việt Nam, Sư ông tâm huyết khôi phục Thiền tông Việt Nam, muốn cho Thiền tông Việt Nam sau này được truyền bá rộng khắp. Sư ông dạy chư tăng ni phải học thuộc lòng các bài kệ, thi, phú của các thiền sư đời Trần. Chúng con nhất nhất y giáo phụng hành. Nhờ đó, chúng con được hiểu cái hay đặc sắc Thiền Việt Nam. Cảm khái tinh thần khôi phục Thiền Trúc Lâm Yên Tử, lúc ấy con có cao hứng làm câu đối: Trúc địch xuy chí, chấn hưng Việt Nam Thiền tông, vĩnh kiếp tuyền đăng tục diệm. Lâm manh khởi đích, khôi phục Yên Tử Tổ đạo, thiên niên đức hóa lưu phương. (Sáo trúc thổi lên, chấn hưng Thiền tông Việt Nam, muôn kiếp trao đèn nối đuốc. Chồi rừng trỗi dậy, khôi phục Tổ đạo Yên Tử, ngàn năm hương đức lưu truyền.) Sư ông luôn mong mỏi chư Tăng Ni tu hành sáng đạo, là niềm vui lớn, là lý tưởng tối hậu của Sư ông. Có lần Sư ông nói nghe thật tâm lão bà: “Tôi ngồi trông đợi từng ngày, nghe có chú nào tu sáng việc trình cho tôi biết... Bây giờ chỉ có mình tôi giảng nói, sau này có trăm người thay tôi.” Nghe lời này như trút cả tâm can. Con nguyện với lòng sẽ cố gắng, cố gắng. Chính vì thế, lúc đó con có làm câu đối để tự nhủ lòng: Trúc Lâm quyết tử, kiến tánh minh tâm, thừa đương Tổ đạo miên trường. Thường Chiếu xiển dương, thượng thừa đốn giáo, tiếp dẫn chúng sanh vĩnh cửu. (Trúc Lâm quyết tử, minh tâm kiến tánh, đảm đang Tổ đạo lâu dài. Thường Chiếu xiển dương, đốn giáo thượng thừa, tiếp dẫn chúng sanh mãi mãi.) Sư ông cả đời tu hành, tiếp chúng độ tăng, giáo hóa chúng sanh. Chúng con thật hữu duyên, sanh ra đời tuy gặp Sư ông muộn, nhưng nhờ gieo trồng hạt giống Phật nhiều đời, nay được Sư ông hóa độ, được Sư ông chắt chiu nuôi nấng, tận tụy dạy dỗ. Sư ông đã cứu cuộc đời con, mỗi lần nghĩ đến việc này là con rơi nước mắt. Không có Sư ông, cuộc đời con đen tối mù mịt, si mê tạo nghiệp, chưa biết lang thang phiêu bạt phương trời nào! Trăm ngàn lần đảnh lễ Sư ông. Ngàn vạn lần đảnh lễ Sư ông. Cầu Tam bảo luôn gia hộ cho Sư ông sống lâu nơi đời, là chỗ nương tựa cho chúng con tu học. Thừa hành nguyện Bồ-tát Phổ Hiền: Thỉnh Phật trụ thế! Thỉnh Phật trụ thế! Thỉnh Phật trụ thế! Nhất tâm cung thỉnh. Mục Lục
|
Khánh Thọ Bách Tuế Hòa Thượng Tôn Sư
|