|
Khánh Thọ Bách Tuế Hòa Thượng Tôn Sư
Con Nước Rạch Tra - Hạnh Chiếu
Năm nay Thầy bước lên tuổi 100, “thế thượng nan phùng bách tuế nhân”. Một thế kỷ, một đời người, một dòng đại nguyện rong chơi. Dài, rộng và nhiều khúc quanh. Có những khúc chảy ngang dòng thiền nước Việt và trở thành bất diệt. Ở đó Thầy gặp gỡ Phật tổ, chư thiền sư, các bậc long tượng trong Phật pháp và cả chúng đệ tử xa gần. Thầy vui mừng, cảm động, tri ân... Để rồi từ đó dòng thiền nước Việt cuối thế kỷ XX ra đời, tiếp tục tuôn chảy nuôi dưỡng bao mầm xanh. Nghĩ về đạo Phật Việt Nam, thiền tông Việt Nam, Thầy trăn trở, ôm ấp hoài bão về một tiền đồ xán lạn cho Phật giáo quê nhà. Những vui buồn nhỏ nhoi đời thường khép lại, khó khăn trở ngại trên bước đường du tăng, chạm phải ý chí và tâm nguyện thiết tha tu hành của Thầy, tất cả bỗng hóa thành diệu dược, không chỉ nuôi dưỡng thân tâm Thầy tĩnh tại, mà còn trị liệu bệnh tật cho tất cả chúng con. Con còn nhớ, có lần Thầy nói “Nếu tôi không thể làm một viên linh đơn cứu tất cả bệnh cho chúng sanh, ít ra cũng là một viên thuốc bổ giúp cho người giảm bớt khổ đau”. Lời này vẫn còn lại, mặc cho dòng thời gian trôi đi. Giờ thì, con nước Rạch Tra không còn nhỏ bé, róc rách chảy như ngày xưa, mà là rộng hơn và mạnh hơn nhiều, bạch Thầy. Dòng nước ngọt phù sa sông Hậu dẫn về nuôi dưỡng mấy hàng măng cụt đỏ trái trước nhà, mà hồi nhỏ Thầy rất thích, giờ đã là nơi soi bóng cho ngôi phạm vũ huy hoàng. Từ đường Trúc Lâm, cội tùng trăm trượng mọc lên giữa rừng công đức trăm năm, tưởng như lạ mà lại rất thân quen. Bởi vì ở đó là mảnh đất chôn rau cắt rốn của Thầy, có con nước sáng lớn chiều ròng, thủy chung trông đợi hình bóng Thầy về. Ngày rời quê lên chùa Phật Quang, Thầy đã gởi lại lời hẹn ước quy hương. Và ngày trở về, không chỉ một mình Thầy mà còn có chúng đệ tử. Đông vui. Cả nhà Trúc Lâm tụ hội sum vầy, đồng hướng đồng hạnh, đồng vui tu dưới sự hướng dẫn của Thầy. Bà con láng giềng Rạch Tra biết quy y Tam bảo rồi, thưa Thầy. Xóm mình trở thành xóm đạo. Hẳn là Thầy rất vui. Về quê rồi tình nghĩa thiếu chi, Nhìn nhân loại như mình nào khác. Thầy đã viết lời này, nhưng quê hương bây giờ không chỉ có bến nước con đò, mảnh trăng, cành trúc sau hè, mà là: Tịch tịch Lăng-già nguyệt, Không không độ hải chu, Tri không, không giác hữu, Chánh định mặc thong dong. (Thiền sư Huệ Sinh) Thầy dịch: Trăng Lăng-già vắng lặng, Thuyền Bát-nhã rỗng không, Biết không, không giác có, Chánh định mặc thong dong. Diệu lực của lời thơ con chưa hiểu hết, nhưng vẫn thấy dường như mình có mặt trong ấy. Còn sung sướng nào bằng! Rời bến Rạch Tra trên 70 năm, Thầy ra đi để trở về. Qua những chặng đường tu học, có khi khóc, lắm lúc cười, tất cả đều trở thành di sản quý báu, không chỉ của riêng Thầy mà là của tất cả chúng con. Thân giáo, khẩu giáo, ý giáo, Thầy truyền dạy hết cho tăng ni Phật tử bằng tất cả tấm lòng phụng sự đạo pháp và tha nhân. Con đường thiền là con đường vừa rất riêng của Thầy, vừa rất chung cho thiền khách hữu duyên được Thầy khai sáng. Để có thể xuống núi vào đời như Điều Ngự Giác Hoàng, đến đi như Tuệ Trung thượng sĩ, Thầy đã nỗ lực không ngừng cho cuộc chiến nội tâm lẫn ngoại cảnh. Từ những ngày đầu vào đạo, Thầy chong đèn đọc kinh Thủ-lăng-nghiêm mà nước mắt chảy ròng. Từng trang kinh chiếu soi trang lòng, đọc tới đâu khóc tới đó, cảm trọng công đức vô lượng của chư Như Lai. Chân như, tự tánh... quên lửng quên lơ, bỗng đâu ùa về tràn ngập khắp thân tâm, nhảy nhót trên từng con chữ vỡ lòng. Mừng mừng tủi tủi nói không thành lời, Thầy hiểu ra và từ đó nuôi dưỡng tâm nguyện tu thiền mạnh mẽ hơn. Trải qua những đoạn đường tu tập và thừa hành các Phật sự do Sư ông chỉ dạy, cuối cùng Thầy cũng được về núi, mở cửa Chơn Không. Tháng 07 năm Mậu Thân (1968), trên đỉnh Tương Kỳ bừng ngộ lý sắc không, Thầy uy dũng bước ra khỏi giấc trường mộng tử sanh. Nguồn thiền tuôn chảy từ đây, con đường thiền giáo đồng hành được mở ra, khởi đầu cho đại sự nhân duyên khôi phục thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ XX. Một dòng thiền mang bản sắc Việt: trực chỉ, thi vị, tùy duyên. Chơn Không, Thường Chiếu, Trúc Lâm và hàng loạt các thiền viện nối nhau ra đời. Tuệ đăng thắp lên, ánh sáng trí tuệ và tình thương chan hòa. Có thể nói ba trung tâm lớn này là khúc ruột chuyển hóa huyết mạch thiền tông của Thầy. Mỗi chặng đường đi qua là mỗi thể nghiệm quý báu, đưa Thầy lại gần hơn với chính mình và tăng ni tứ chúng, để lại cho đời những bài học vô giá không chỉ bằng lời. Tuy nhiên, Thầy vẫn thường nhắc nhở chúng đệ tử, Phật sự không hoa, đạo tràng thủy nguyệt. Sự viên mãn của một đời sống tâm linh, không quan trọng ở những thành tựu bên ngoài, mà là niềm an ổn tĩnh tại bên trong, cho nên hãy quay về lại nhận và sống với chính mình. Thầy từng tâm sự: … Muốn cho đạo pháp được lâu dài, bền bỉ và sáng tỏ để mọi người hướng theo thì không gì hơn là tạo điều kiện cho tăng ni tu được sáng đạo. Có sáng đạo thì chánh pháp mới trường tồn. Sở nguyện của tôi muốn duy trì thiền tông Việt Nam lâu dài, nên tôi đã cố gắng tạo thiện duyên cho tăng ni tu. Vì vậy, những vị tăng hay ni nào theo tôi tu thiền, phải ráng tu cho sáng đạo. Nếu tu lưng chừng lấy có là cô phụ chính mình, mà cũng là cô phụ tấm lòng của thầy tổ. Đó là hoài bão của tôi. Kính bạch Thầy, Chúng con từ chốn hệ lụy, đa mang nghiệp thức mà có mặt trong cuộc đời, đến đi như mộng. Được Thầy chỉ dạy hãy dừng bước phiêu trầm, quay về nhận lại gia bảo nhà mình. Cung kính đảnh lễ Ân sư, cảm bội thâm ân giáo hóa của Thầy chúng con xin vâng lời. Kính nguyện Thầy mãi là ánh sáng soi đường cho vạn loại sinh linh lìa bờ mê quay về bến giác. Mục Lục
|
Khánh Thọ Bách Tuế Hòa Thượng Tôn Sư
|