Thiền Tông Việt Nam
Khánh Thọ Bách Tuế Hòa Thượng Tôn Sư
Ân Đức Cao Cả - Ni Chúng Bạch Mã

Mạng sống con người ngắn ngủi - tạm bợ!

Hạnh phúc thế gian dễ vỡ - mong manh!

Chủng duyên tu hành đã khiến chúng con thấy ra điều đó một cách sâu sắc. Nó khiến chúng con không cam tâm mãi chìm đắm trong khổ đau mê tối. Không đành lòng đem những thứ quý giá nhất đời mình, thời gian, sức khỏe, trí tuệ để đeo đuổi những thú vui phù phiếm, hư ảo. Không cam lòng sống một đời vô nghĩa như con rối bị nghiệp lực giựt dây để rồi khi đối diện với cái chết lại hối tiếc hoảng sợ, hoang mang đến cùng cực. Cũng chính chủng duyên tu hành đã cho chúng con có được niềm tin hy hữu: rằng sự giác ngộ là điều có thật, rằng những bậc chân sư vẫn đang hiện diện trên đời, rằng niềm tin miên viễn - hạnh phúc chân thật - sự an ổn thực sự là điều hoàn toàn có thể đạt được chứ không phải là mơ ước hão huyền. Nó thôi thúc chúng con đi tìm giác ngộ - giải thoát. Để rồi một ngày hạnh phúc vỡ òa khi chúng con được gặp chánh pháp, minh sư; được xuất gia tu tập trong Thiền viện thuộc Thiền phái Trúc Lâm; được tu theo Thiền tông Việt Nam do Sư ông tiếp nối phục hưng.

“Thuyền lẻ cùng qua sông còn có duyên đời trước

Ba tháng hạ chung ở, đâu không duyên nhiều đời.” 

               (Thiền sư Huệ Nam Hoàng Long)

Quả vậy, chúng con từ nhiều phương, xuất phát từ nhiều hoàn cảnh nên động lực đến với đạo cũng khác. Nhưng khi cùng nhau tụ hội về đây chúng con đều có chung một cảm nhận ấm áp, thân quen như được trở về nhà. Chắc hẳn không phải chỉ hôm nay mà nhiều đời về trước chúng con đã từng được gieo trồng căn lành nơi chánh pháp, nơi Thiền tông, nơi Thầy chúng con, nơi pháp hội của Sư ông.

Dù hiếm khi có cơ hội được gần Sư ông, nhưng mỗi lần nghe nhắc đến ngài, trong lòng chúng con lại trào dâng niềm kính thương vô hạn. Qua những câu chuyện về Sư ông mà Thầy chúng con hay kể, qua những bài giảng của Sư ông mà chúng con đã được nghe lại trên băng, chúng con thầm cảm nhận một cách sâu sắc tấm lòng và sự hy sinh thầm lặng của Sư ông cho chúng sanh, cho đạo pháp, cho hàng hậu học. Sư ông đã từng kể “Từ buổi ban sơ, tôi lên Núi Lớn - Vũng Tàu cất một cái thất lá, đề tên là Pháp Lạc thất. Một mình tôi vạch ra lối tu, tự cố gắng nỗ lực công phu, không có bạn, không có người cùng chí hướng. Việc làm đơn độc của tôi cay đắng vô cùng, đã mấy lần khóc trước Phật…”. Sư ông đã tự mình cố gắng nỗ lực, âm thầm vượt qua muôn vàn đắng cay mới có thể khôi phục lại nền đạo pháp, gầy dựng lại Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam. Bằng cái nhìn sâu sắc, Sư ông nói: “Phật giáo còn là do sự tu chứng của tăng ni. Có tu chứng thì mới truyền bá được đạo. Nếu không tu ra gì mà giữ đạo thì giữ bằng cách nào? Cho nên phải tu cho đạt đạo thì mới giữ được mối đạo.” Thật vậy, Sư ông đã dồn hết tâm huyết, dành trọn thời gian, vắt kiệt sức lực cho việc dịch giảng kinh sách, đào tạo tăng ni, ngõ hầu tìm ra những hạt giống để ươm mầm, tưới tẩm chăm sóc thành những cây đại thụ làm trụ cột cho Thiền phái Trúc Lâm - những con người giác ngộ. Để rồi dưới sự dìu dắt của một bậc Thầy “Tông thuyết gồm thông, nhìn rõ căn cơ, trao đuốc tuệ”, hàng môn hạ đệ tử của ngài có rất nhiều vị đạt đến “Học - tu chẳng lệch, ngộ sâu yếu chỉ nối tâm thiền”. Để hôm nay hàng hậu học chúng con có phúc duyên được vị Thầy như thế dẫn đường, được gội nhuần trong suối nguồn đang không ngừng tuôn chảy.

Là người được cận kề bên Sư ông, được Sư ông trực tiếp chỉ bày, với quyết tâm thực hiện cho được hoài bão một đời mà Sư ông ấp ủ đó là: thắp lên thật nhiều những ngọn đèn giác ngộ, để cho ánh sáng Thiền được lan tỏa khắp nơi, cho thế gian bớt vô minh mê tối, để người hết khổ được vui. Thầy chúng con đã tổ chức đời sống tu học tại Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã theo hướng thực học - chuyên tu, hướng đến sự giác ngộ chứ không dừng trên hình thức chữ nghĩa đúng với đường lối mà Sư ông đã chủ trương hướng dẫn. Cụ thể:

Có ngoại viện riêng cho khách tham quan nghiên cứu lễ Phật. Đại chúng được sống trong nội viện chuyên tu. Có nội viện riêng biệt với thế giới bên ngoài. Đã tạo điều kiện cho đại chúng tu hành nghiêm mật. Không giữ tiền riêng, điện thoại, không đọc sách báo bên ngoài như Thanh quy Sư ông đề ra. Có lịch học cố định theo đúng tinh thần “Thiền giáo song hành” mà Sư ông đã chỉ dạy. Có Thiền thất thay phiên nhau nhập thất, chúng con được nhập thất chuyên tu. Khi nhập thất, chúng con có cơ hội đóng cửa hẳn với các duyên bên ngoài, chỉ một bề hạ thủ công phu, tự kiểm chứng lại công phu của chính mình để thực sự hành trì nghiêm mật hơn, để thực sự nếm được pháp lạc, thiền duyệt.

Có trải qua vô thường đau khổ, mới biết giá trị của sự an yên. Có trải qua quá trình học tập, rèn luyện, hạ thủ công phu quyết liệt trong môi trường chuyên tu nghiêm mật mới thấy rõ giá trị của sự tỉnh giác, mới biết quý trọng những tháng ngày thực học - thực tu. Mới thấy ra đường lối tu hành mà Sư ông đã hướng dẫn là con đường thẳng tắt, là những chuẩn mực, những chân lý mà chỉ một mực “Y giáo phụng hành” thì việc tu tập mới có tiến bộ, đời sống tu hành mới có niềm vui, mới vững lòng tin vào con đường mình chọn, mới có thể đạt đến mục tiêu giác ngộ mà mỗi người tu đều mong mỏi, hướng về. Đúng như lời Sư ông từng nói: “Vì muốn cho quý vị có lòng tin mà tiến tu để trở thành người hữu dụng, nên tôi không ngại rụng hết lông mày vì quý vị mà chỉ thẳng.” 

Ân đức của Người cao như trời biển. Những dòng pháp của ngài tuôn chảy như dòng suối Tào Khê xoa dịu cho bao con người lầm đường lạc lối trở về cố hương muôn thuở chính mình. Người dẫn dắt chúng con ra khỏi những ngõ ngách lầm mê của cuộc đời, thức tỉnh chúng con tìm lại con người chân thật của chính mỗi người. Khi chúng con đã có sự vui thích trong việc học và tu thì nó sẽ xóa đi tất cả, nó như giải quyết bao khúc quanh mà đời tu ai cũng phải nếm trải qua. Nếu chúng con không có phước duyên gặp Sư ông, không được đưa đường chỉ lối thì biết đến bao giờ mới tỏ được cội nguồn của sanh tử, cũng vậy hàng triệu trái tim u tối sẽ trôi lăn trong sanh tử, không biết đến bao giờ mới thoát ra được. Phật dạy: “Cái khổ địa ngục chưa gọi là khổ, cái khổ của loài ngạ quỷ chưa gọi là khổ, cái khổ của loài ngựa kéo xe cũng chưa gọi là khổ, chỉ có cái khổ của những kẻ vô minh, không biết lối đi mới thật là khổ nhất.” 

Thật hạnh phúc thay, hy hữu thay cho chúng con đã gặp được chánh pháp, được làm con cháu trong Tông môn. Ai ai trong chúng con cũng cảm nhận ít nhiều từ những bài pháp của ngài. Những vị mới đến thì còn khó khăn trong tọa thiền như đau chân, đau lưng... nhưng vẫn có niềm vui trong đời sống tu học. Có những huynh đệ giỏi học, siêng tu nên có những niềm vui thênh thang, sâu lắng. Có vị thầm nhận ra con người bất tử mà Sư ông đã chỉ thẳng cho chúng con. Tuy mỗi huynh đệ còn có những giới hạn, nhưng dưới nguồn pháp nhũ của Sư ông, chúng con vẫn có những tiến bộ riêng, tất cả cùng chung một niềm pháp hỷ, thiền duyệt đến "không ngờ”.

“Không chìm nơi cạn hẹp liên thành cao xa”. Hạt mầm bé nhỏ, yếu mềm, không cô phụ công người tưới tẩm chăm bón đã tự mình cố gắng xuyên thủng lớp đất dày để ngoi lên, tìm đến với ánh sáng, hướng về phía mặt trời. Trong bão táp, mưa sa... vẫn không ngừng phát triển, không ngừng vươn lên, đơm hoa kết trái, dâng cho đời quả ngọt hương thơm. Để rồi từ hạt của nó sẽ có thêm nhiều cây mới được mọc lên, dòng giống của nó nhờ đó mà không bị dứt tuyệt. Có lẽ chư Tôn đức trong tông môn cũng từ những thiền sinh ban đầu còn bỡ ngỡ với thiền, có những khó khăn nhất định buổi đầu đến với con đường giác ngộ, nhưng đã không cô phụ ân giáo dưỡng của Sư ông, đã tự mình nỗ lực hạ thủ công phu, vượt khỏi phàm mê, vươn tới chân trời giác ngộ. Trong nghịch cảnh, chông gai... vẫn đứng vững, trở thành người nối truyền Tông phong mạng mạch Thiền tông Việt Nam, thắp sáng ngọn đèn thiền, dẫn dắt những người đang đau khổ vì lạc lối về tới bến đỗ bình an muôn thuở của chính mình. Để rồi, ánh sáng từ ngọn đèn ấy cứ được mồi ra mãi. Chánh pháp nhờ đó vẫn được lưu truyền, dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử nhờ đó mà không bị mai một. Đúng như những gì Sư ông đã kỳ vọng giao phó: “Con đường tôi chuẩn bị cho quý vị đi là con đường rất xa, rất dài. Tăng ni phải cố gắng sao cho đủ nghị lực, đủ khả năng để tiến lên. Không được để cho sự nghiệp thầy tổ gây dựng mai một. Không được để cho cỏ mọc rêu phủ khiến con đường Thiền tông bị mọi người lãng quên. Đó là trách nhiệm. Tôi mong tất cả tăng ni phải hiểu, nắm vững và thực hành cho bằng được, đừng lơ là như trước đây nữa. Khi trao trách nhiệm lớn cho quý vị, tôi đã chuẩn bị tinh thần cho tăng ni trước. Quý vị không được ỷ lại, không trông chờ ai, mà mỗi vị phải tự thấy bổn phận của mình, cùng chung đứng ra gánh vác việc lớn. Đó là chỗ tôi mong tất cả tăng ni phải ý thức chuẩn bị, để ngày mai, quý vị là người Lãnh đạo tăng, Lãnh đạo ni đúng như những gì tôi đã chỉ dạy, đã vạch ra. Có thế thì Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam mới hy vọng cửu trụ nơi đời, đem lợi lạc đến cho muôn người.” Nhờ đó mà hôm nay, tuy không được Sư ông trực tiếp hướng dẫn giảng dạy, nhưng chúng con không cảm thấy thiệt thòi vì ở trong môi trường Thiền viện, chúng con vẫn đang được thừa hưởng trọn vẹn tất cả những gì Sư ông đã trao truyền cho con cháu của ngài: chánh pháp; minh sư; đại chúng hòa hợp, môi trường tu hành thanh tịnh - trang nghiêm; pháp tu cụ thể - rõ ràng theo đúng tông chỉ Thiền phái Trúc Lâm.

Có đi mới đến, có hành trì mới biết được, nếm được, mới nhận ra hết mọi giá trị, không phải qua người khác kể. Có tu tập hành trì, thực sự có sống thực mới nhận ra hết diệu chỉ của Phật tổ hãy còn tại đây, bây giờ, ngay đây chưa từng thiếu vắng. Càng tu tập tiến bộ, chúng con càng cảm bội niệm ân sâu sắc trên Sư ông, quý Hòa thượng và đặc biệt là sự dìu dắt, chỉ bảo chu đáo, tận tình từ pháp học đến pháp hành của thầy Trụ trì - người đã trực tiếp kế thừa pháp âm của Sư ông.

Chúng con hôm nay thực sự đã tận hưởng được chút vị ngọt của Thiền. Dù chỉ một chút thôi, nó cũng đem lại cho chúng con rất nhiều điều mà trước đây không có được: niềm tin, sự vững vàng trên con đường mình chọn và niềm lạc quan vui sống. Những điều đó được thầy tổ chúng con... đã khổ nhọc giúp chúng con nhận ra. Chúng con phải cố gắng nỗ lực tu tập để góp phần vào việc đưa Thiền tông đến với mọi người như lời thầy Trụ trì thường nhắc nhở: “Ăn quả phải nhớ người sau chưa được ăn”. Sư ông làm được, quý Hòa thượng, chư Tôn đức tăng ni trong tông môn cũng làm được. Chúng con nguyện lấy đó làm tấm gương sáng, làm kim chỉ nam, làm hành trang, làm sự sách tấn trong suốt cuộc hành trình đi đến giác ngộ - giải thoát.

Phước duyên này, nhân duyên này không dễ gì có được - được làm con cháu của Sư ông, được làm đệ tử của bậc minh sư, chúng con luôn trân quý và tự hào về những gì mình đang có. Chúng con xin thầm hứa sẽ quyết chí, nỗ lực công phu cho đến ngày sáng đạo để không phụ công ơn của thầy tổ. Nguyện Tam bảo gia hộ cho Sư ông cửu trụ nơi đời, để một ngày khi có thêm những đóa hoa tâm bừng nở, chúng con diễm phúc được nhìn thấy Sư ông mim cười hài lòng khi biết rằng con cháu ngài đã thực sự trưởng thành.

Xin cho chúng con đời đời làm con cháu trong nhà Thiền, làm con cháu Sư ông cho đến ngày tu hành viên mãn.

Mục Lục
Khánh Thọ Bách Tuế Hòa Thượng Tôn Sư
Danh sách chương: