Thiền Tông Việt Nam
Khánh Thọ Bách Tuế Hòa Thượng Tôn Sư
Ánh Trăng Thanh - Hạnh Nguyên

Xuyên qua từng khóm cây kẽ lá, ánh trăng rọi sáng sân thiền, bàng bạc tĩnh lặng. Gió nhẹ lay cành, những chiếc lá cuối thu chao mình rơi rụng chạm trên sỏi đá, âm thanh xào xạc hòa vào cõi không vô tận. Trăng mười sáu đẹp lạ kỳ! Trong cô tịch rỗng thênh, lòng kẻ lãng du chạnh nhớ cha già, bậc thầy chỉ đường dẫn lối, dắt đàn con ra khỏi chốn bụi mù.

Có thể nói, cái thuở mà chân vừa chạm đất Chơn Không, bỗng nghe lòng ngập tràn hạnh phúc, chính là dấu ấn in sâu vào trong tâm trí của chúng con, những đứa đệ tử nhỏ của Thầy mà quý Ni trưởng vẫn gọi thân thương bằng cụm từ “mấy Hạnh”. Mấy lần có dịp ngồi lại bên nhau, những câu chuyện về Thầy cứ miên man không dứt. Rốt rồi, trong mớ bòng bong vọng tưởng ấy, bất chợt một lời thốt lên: “Nếu không gặp Thầy thì sao?” Dường như bâng quơ, dường như tự hỏi. Ấy mà tất cả bỗng dưng chùn xuống, trả về không gian tĩnh mặc. Không có câu trả lời nào thốt ra nơi cửa miệng, nhưng sâu thẳm bên trong lòng cung kính và biết ơn vô hạn tràn dâng.

Ánh trăng trên hội Linh Sơn chiếu rọi muôn phương, ngọn đèn phương Nam mồi tận bao miền cô lãng. Trên dòng sông Phước Hậu, chiếc thuyền côi chở ánh trăng xưa đem theo nguyện cũ: “Nếu không là linh đơn thì cũng là viên thuốc bổ, mang lợi ích cho người." Thầy đã gá thân như mộng, dạo qua bao cảnh mộng. Vậy mới hay, duyên pháp hóa của Thầy chắc hắn đã huân sâu bao kiếp, nên khi ngọn đèn Pháp Lạc bùng lên, Từ quang tỏa sáng, viên thuốc bổ trở thành thần dược. Từ đó, chốn vô ngôn mở cửa, gậy trúc hóa làm thiền trượng, biến núi rừng thành Thiền viện trang nghiêm. Nơi hữu ngôn vẫy tay, tiếp đón lãng tử hồi đầu, lay kẻ mộng “thức dậy đi còn chần chờ gì nữa!”

Trong thất vắng trên ngọn Tương Kỳ, Thầy ngồi đó nơi chiếc tợ nhỏ, cặm cụi bên những trang kinh, hầu mong đem lời Phật ý Tổ soi sáng cho tăng ni tứ chúng. Sáng sáng chiều chiều, giữa hai hàng cây đại (hoa sứ) nối liền đường Tiêu Dao thẳng tắp, Thầy thong thả dạo đi trên từng bậc đá mòn. Đến đồi Tự Tại, Thầy ngồi xuống dừng nghỉ, trông xa ra biển Vũng Tàu, ngắm nhìn trời cao biển rộng, phố xá người xe qua lại. Áo vàng lộng gió, Thầy an nhiên mỉm cười giữa bao ồn ào náo động. Rồi nhẹ nhàng đứng lên, cất bước thong dong vòng qua Viên Phước, men theo lối đá Thạch Đầu rêu phong trơn trợt, lần lên Trượng thất. Trên phiến đá to phía trước Thầy xếp bằng an tọa, đàn con như chim non ríu rít kể bao điều vụn vặt. Im lặng lắng nghe, rồi bằng lòng bi mẫn Thầy trao cho từng lời huấn dụ. Pháp âm bình dị đó đã thẩm thấu tận tâm tủy, khiến cho những chú trâu hoang ngang ngạnh bao đời, dần dần thuần phục biết được lối về.

Vô thường biến dịch, cuộc thế xoay vần. Vào một ngày trời cao lộng gió, Thầy rời Tương Kỳ về Thường Chiếu. Vậy là pháp thiền từ Chơn Không thổi mát xuống đồng bằng, Thường Chiếu như thay áo mới. Mảnh đất ngày nào khô cằn cát sỏi bưng biền lầy lội, bỗng biến thành đất lành chim đậu. Mỗi ngày trên con đường tràm đầy bụi đất, Thầy chống gậy men theo bờ đê, xắn áo lội bùn trao tay từng viên kẹo cái bánh, bày cho các thiền sinh còn ngơ ngác biết cách gieo mạ, tỉa đậu, chăm sóc ruộng vườn. Cây trái mọc lên, mít điều khoe sắc, đồng cỏ tranh cắt đứt tay gầy, giờ trở thành ruộng lúa trĩu hạt. Gậy Thầy vung tới đâu, mầm xanh vươn theo tới đó. Cuộc sống nông thiền rộn rã tiếng cười, hồn nhiên trong sáng.

Mỗi chiều nơi trai đường Linh Chiếu, bên chiếc võng nhẹ đong đưa, đại chúng vây quanh đón nhận từng lời huấn thị. Thầy hỏi han việc tụ học, hoặc bảo đọc lại một đoạn kinh sử rồi giảng giải cho nghe. Từng lời dạy nhẹ nhàng nhưng có sức chuyển hóa thẩm sâu, khiến cả chúng tăng thêm nghị lực, đủ vững chãi mà tiến bước. Chiều muộn, chúng con cùng nhau tiễn Thầy về. Đến cầu Song Chiếu tất cả dừng lại cung kính xá chào, rồi đứng đó dõi mắt nhìn theo đến khi bóng áo vàng khuất hẳn mới chịu quay lên, luýnh quýnh y áo cho kịp thời kinh tối. Ngày ngày như thế, đều đặn như thế. Những đêm trăng sáng, Thầy chống gậy cùng thầy thị giả đi bộ sang xem chúng ngồi thiền thế nào. Áo hậu trang nghiêm tay cầm thiền bảng, Thầy nhẹ nhàng chỉnh sửa những đứa ngồi lệch hoặc đánh thức những đứa đang lờ mờ chìm trong mê muộn. Và, khi chúng con vẫn đang yên lành thiền tọa thì bóng Thầy đã in dài trên lối sỏi Thường - Linh, trở về trượng thất.

Một chặng đường vừa tạm yên, thuyền lại lay chèo theo ánh trăng thanh tìm về chốn Tổ Việt. Chân lần bước trên thềm đá rêu phong, thoáng cảm tịch liêu chạnh lòng xưa cũ, quyết tâm khêu sáng đèn thiền, phục hưng ấn Tổ. Vậy là gậy trúc chống lên dựng dậy những gì đã bị ngã đổ, khai quang rừng rậm, khơi thông bít lấp khiến cho mạch thiền tuôn chảy ầm ầm, từ Linh Thứu đến Tung Sơn, qua Tào Khê đổ vào Ngọa Vân Yên Tử. Thiền Trúc Lâm bừng dậy, y vàng tô điểm núi rừng, chuông mõ trầm hùng rền vang hang động. Chim muông reo mừng, cổ tùng nảy lộc. Trước tháp Tổ, Thầy đưa tay sờ từng chữ trên bia ký, cúi đầu đảnh lễ, mắt ngấn lệ mừng vui.

Thời gian qua nhanh, những thiền sinh ngày nào mặt mũi lấm lem, tay chân ướp mùi bùn đất, nay tóc đã đổi màu. Chúng con trưởng thành tới đâu, thân tứ đại của Thầy cũng hao mòn dần tới đó. Xưa Thầy một mình một bóng mở lối dẫn đường, khơi mạch nguồn thiền tông thắp sáng tâm đăng. Nay tông phong theo gió vươn xa, đệ tử đệ tôn y vàng rợp lối, thiện nam tín nữ lớp lớp vây quanh, bản nguyện tròn đủ. Thầy điềm nhiên lặng im nhìn phù thế nổi chìm, lắng nghe tiếng trăm năm thoáng qua như giấc mộng.

Chân không thể bất biến, 

Huyễn hữu thường đổi thay. 

Khói mây bọt bóng nước, 

Tan hợp cuộc vần xoay. 

Linh lung trăng rọi biển, 

Xanh biếc núi im lìm. 

Ngút ngàn mặt bể cả, 

Thăm thẳm bầu trời xanh. 

Đường phố xe qua lại, 

Sông biển tàu tới lui.

Dòng đời duyên biến đổi, 

Bệ đá đạo nhân ngồi.

Như ánh trăng sáng soi biển rộng, linh lung bàng bạc. Giữa dòng đời biến đổi, đạo nhân an nhiên tĩnh tọa nhưng vẫn không quên bản hoài “nhắn khách mộng, biết được mộng, tỉnh cơn mộng”. Cuộc đời Thầy là một vầng trăng tỏa rạng chiếu soi, chúng con dù có lắm ngôn từ xưng tán, cũng là theo dấu chim bay. Điều có thể nói được, chỉ là “Chúng con thật hạnh phúc, vì chúng con có Thầy”. Kinh nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe, Minh sư khó gặp”. Nếu có thân người mà không gặp Phật pháp thì đâu thể phân biệt chánh tà, được gặp Phật pháp nhưng thiếu Thầy sáng thì làm sao rành chân vọng. Phúc báu lớn nhất của chúng con là được trú dưới tàng cây bi trí của Thầy, được nhìn thấy ánh trăng thanh chiếu rạng, được lắng nghe tiếng pháp từ sông Hằng vọng lại. Và ngay đây, được ngẩng cao đầu hướng về núi rừng Trúc Lâm Yên Tử, cảm nhận hạnh phúc mình là cháu con của dòng thiền đất Việt.

Ô hay! Phút tao phùng hạnh ngộ bậc minh sư. Lời có thể nói ư! Ân có thể đền ư! Trong thinh lặng, cúi đầu con kính lễ.

Mục Lục
Khánh Thọ Bách Tuế Hòa Thượng Tôn Sư
Danh sách chương: