|
Khánh Thọ Bách Tuế Hòa Thượng Tôn Sư
Mục Tiêu Và Tinh Thần Giáo Dục Của Hòa Thượng Trúc Lâm - Thiền Sư Thích Thanh Từ - Trần Thị Mai Hương
Tóm tắt: Hòa thượng Thích Thanh Từ là người thắp lên ngọn lửa thiền cho Phật giáo Việt Nam vào cuối thế kỷ XX. Là một Thiền sư có tinh thần bi mẫn, biết đồng cảm và chia sẻ với những người dân nghèo. Luôn tinh tấn tu học và có trách nhiệm với vận mệnh của Phật giáo Việt Nam. Ngài đã mang tinh thần giáo dục của mình hòa với tinh thần khế lý khế cơ của Phật giáo, mở ra bước phát triển mới trên con đường hoằng pháp tự lợi, lợi tha, và trở thành một giảng sư có uy tín, được nhiều người yêu mến, kính trọng. Thông qua phân tích mục tiêu và tinh thần giáo dục của Hòa thượng Thích Thanh Từ, bài viết mong muốn truyền tải tinh thần giáo dục của Hòa thượng tới những thế hệ tăng ni, Phật tử Việt Nam, giúp họ soi chiếu lại bản thân mà giác ngộ trên con đường giải thoát. Mong muốn giúp họ thấu hiểu được cội nguồn Phật pháp, tinh tấn tu tập theo chánh pháp của đức Phật, để biết trân trọng, gìn giữ và phát huy mạng mạch của Thiền tông Việt Nam. Giúp họ có tinh thần giữ lửa cho ngọn đèn Thiền luôn rực sáng và trường tồn mãi cùng thời gian. Từ khóa: Thiền phái Trúc Lâm, Hòa thượng Thích Thanh Từ, mục tiêu giáo dục, tinh thần giáo dục. 1. DẪN NHẬP Phật giáo Thiền tông Việt Nam đã đồng hành với dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Trong quá trình hình thành và phát triển, Thiền tông đã cống hiến nhiều tinh hoa cho nhân loại. Tuy nhiên, từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XX, Thiền tông đã vắng bóng trong ngôi nhà Phật giáo Việt Nam. Lý do “từ trên vua quan cho đến thứ dân, ai cũng an trí đạo Phật là ở sự cung cấp, cầu đảo, chứ không biết việc gì khác. Phần đông, họ chỉ trọng ông thầy ở danh vọng chức tước, mặc dù ông thầy ấy thiếu học, thiếu tu. Bởi tệ nạn ấy, làm cho Tăng đồ trong nước lần hồi sa vào con đường truỵ lạc." Giữa lúc Phật giáo Việt Nam đang trong thời kỳ suy đồi và phân hoá dữ dội như vậy, Thiền sư Thích Thanh Từ xuất hiện như một ngọn đuốc sáng, giúp xoay chuyển nền Phật giáo nước nhà, khôi phục lại Thiền tông Việt Nam. Ngài đã “thắp lên ngọn lửa Thiền trên núi Tương Kỳ vào hạ tuần tháng bảy nhuần, năm Mậu Thân, với mục đích đem Phật giáo Việt Nam trở về với cội nguồn uyên nguyên, đặt định đúng chỗ cho truyền thống Văn hoá Phật giáo Việt Nam”. Ngài đã mang tinh thần giáo dục Phật giáo của mình hoà với tinh thần khế lý khế cơ, mở ra bước phát triển mới trên con đường hoằng pháp, trở thành một giảng sư nổi tiếng, có uy tín và được nhiều người nể trọng. Ngài cho rằng: mình là kẻ nợ của Tăng ni, nên luôn mở lòng, nhiệt tình chỉ dạy cho những người quyết tâm muốn tu học. Mong muốn gieo vào lòng họ niềm tin sâu sắc vào giáo lý của đức Phật, giúp họ hiểu rõ về luật nhân quả, vô thường và vô ngã của đạo Phật. Từ đó soi chiếu lại bản thân mà tự giác ngộ trên con đường giải thoát, chứ không trông chờ từ nơi khác, theo đúng yếu chỉ của Thiền tông Việt Nam: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”. Niềm tin chính là kết quả từ giáo dục đạo đức, là liều thuốc bổ tăng sức mạnh cho tinh thần, giúp những đệ tử Phật vượt lên trên mọi cám dỗ cuộc đời, hướng đến một đời sống tươi đẹp, tự lợi - lợi tha. Từ những phân tích trên, và dựa vào một số nguồn cứ liệu, bài viết đi sâu phân tích mục tiêu và tinh thần giáo dục của Hòa thượng - Thiền sư Thích Thanh Từ. Mong muốn giúp thế hệ tăng ni, Phật tử Việt Nam tiếp nối tinh thần giáo dục của ngài, biết trân trọng, giữ gìn và phát huy mạng mạch Thiền tông. Giúp họ nêu cao tinh thần đoàn kết thắp lên ngọn lửa Thiền, quyết tâm giữ cho ngọn lửa ấy luôn rực cháy và trường tồn với thời gian. Đồng thời, giúp họ hiểu thấu đáo hơn về cội nguồn Phật pháp, từ đó biết tinh tấn tu tập theo chánh pháp để trở thành những vị chân sư, Phật tử có trí tuệ, biết tư duy, suy xét và áp dụng lời dạy của đức Phật vào phục vụ đời sống, mang lợi ích đến cho bản thân, gia đình và xã hội. 2. MỤC TIÊU GIÁO DỤC Trong thời đại nhà Trần, đạo đức Phật giáo được cho là lý tưởng sống của tăng ni, Phật tử, bởi lối sống tích cực và đem lại lợi ích cho tha nhân. Tiếp nối lý tưởng đó, Hòa thượng Thích Thanh Từ cũng lấy đạo đức Phật giáo làm mục tiêu chính. Ngài cho rằng, chúng ta đang sống trong một xã hội yên bình, thịnh vượng và hạnh phúc. Đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao, điều đó đồng nghĩa với truyền thống văn hoá, đạo đức trong xã hội cũng cần phải được cải thiện. Đặc biệt trong nếp sống của Thiền môn cần phải được quan tâm và kiện toàn một cách nghiêm túc. Nếu người ở Thiền viện ai cũng biết lấy đạo đức làm nền tảng, làm chỗ quy hướng cho mình, thì Thiền viện sẽ là nơi lý tưởng nhất. Còn nếu chỉ biết nặng về hình thức, rồi tự hào cho đó là cứu cánh thì nó không bền, không tốt. Để giúp tăng ni, Phật tử nâng cao tinh thần giáo dục, Hòa thượng đã soạn lập và ban hành ra bản Thanh quy để phục vụ ba môn học: văn huệ, tư huệ, tu huệ, nhằm tạo điều kiện cho các tăng, ni sinh sau khi có văn, tư rồi thực hiện tu để đạt kết quả tốt. Thanh quy là bản nội quy chuẩn mực trong hoạt động của Thiền viện, quy định rõ ràng từ nền tảng đạo đức đến đời sống tu tập hàng ngày, giúp tăng ni, Phật tử đạt đến tiến trình tự giác giác tha. Như vậy, người tu học Phật nếu biết vận dụng từ sự nỗ lực và tu chứng của bản thân, chắc chắn sẽ dễ dàng đạt được sự giác ngộ, sẽ không còn vướng bận vào bất cứ thứ gì thuộc về thế gian: cầu học tiến tu, mong đạt thấu chỗ thâm viễn trên đường tu Phật với tâm nguyện lợi mình ích người một cách viên mãn. Hòa thượng nhận thấy tăng ni, Phật tử Việt Nam rất nặng lòng với công việc hoằng hoá, họ không còn thời gian để thực hành tu tập. Do thiếu sự huân tu nên họ dễ mắc sai lầm, dễ bị cảnh trần lôi cuốn, sinh ra nhiễm đắm dục lạc và nảy sinh sân hận. Chính vì lẽ đó, Hòa thượng đã chỉ cho họ thực hành pháp môn: Thiền giáo song hành. Con người “do tu Thiền mà hiểu được Giáo, do học Giáo mà tin được Thiền”. Đây là mục tiêu quan trọng mà Hòa thượng muốn gửi đến những người tu học Phật, giúp họ giác ngộ dẹp trừ mọi phiền não, tiến tới một cuộc sống an lành, giải thoát. Hòa thượng đã chỉ bày cho tăng ni, Phật tử cách sống với thể “Chơn Không”, để nhận ra chân lý của bản thể, từ đó không còn bị rơi vào vòng sinh tử luân hồi nữa: Đối với thể Chơn Không là thể không sanh không diệt. Bởi không sanh không diệt nên khi chúng ta tu thể nhập được bản thể đó thì không còn bị sanh tử luân hồi nữa... Ai tu muốn đạt đến mục đích giải thoát thì đều phải đi sâu, nhận chân được lý Chơn Không, sống được với cái thể Chơn Không, đó là giải thoát sanh tử. Nhận ra mọi thứ tồn tại trên trái đất là không sinh, không diệt, và hiểu được chân lý tối thượng của vạn vật, vũ trụ. Nên người tu học Phật dễ dàng đạt tới sự giác ngộ và giải thoát: “Nắm được rồi, nhìn lại chỉ tay không”. Với suy nghĩ: “Mình sống trên đất nước Việt Nam, là tu sĩ Việt Nam tức là mình có trách nhiệm với Phật giáo Việt Nam. Tụi con lành mạnh tốt đẹp là đem cái tốt đẹp lại cho Phật giáo Việt Nam. Tụi con bệnh hoạn, xấu dở là đem vết nhơ lại cho Phật giáo Việt Nam.” Cho nên Hoà thượng Trúc Lâm muốn người tu học Phật phải có niềm tin vững chắc vào giáo lý của đức Phật được ghi chép trong tam tạng kinh điển, phải hạ thủ công phu pháp môn: Tức tâm tức Phật. Người tu học Phật phải cố gắng bền chí, tinh tấn tu tập. Phải hiểu rõ chánh pháp và làm tròn bổn phận và trách nhiệm của mình. Có như vậy, cho dù gặp bất cứ khó khăn hay bất cứ chướng ngại nào xảy đến trong cuộc đời, cho dù ở thời kỳ mạt pháp hay chánh pháp, thì người tu học vẫn sẽ biết cách chuyển đổi được tâm thức. Biết buông bỏ và không bám chấp vào bất cứ thứ gì của sắc trần, chắc chắn tâm sẽ toả sáng khắp muôn nơi. Như vậy, mục tiêu tối thượng của Thiền sư Thích Thanh Từ là tiếp tục tích cực phát triển sự nghiệp hoằng hoá giúp chúng sinh ngộ đạo, mong muốn đẩy nhanh “con thuyền mộng” đưa “khách mộng” đang “dạo cảnh mộng” nhanh chóng cập bến bờ: Mong muốn tăng ni, Phật tử liễu ngộ được chân lý bản thể, nhận ra Phật tính của chính mình. Từ đó có trí tuệ và trách nhiệm gìn giữ, tiếp lửa cho ngọn đèn Thiền luôn rực sáng. Hòa thượng nhấn mạnh: “Tôi muốn Phật pháp hay là con đường của Thiền tông, ngọn đuốc của nhà Thiền sẽ soi sáng, soi sáng mãi không dừng, không tắt. Chẳng những soi sáng một nơi mà soi sáng trùm hết.” 3. TINH THẦN GIÁO DỤC 3.1. Tinh thần truyền đăng tục diệm Thời đức Phật còn tại thế, ngài dạy các đệ tử phải tự thắp đuốc lên mà đi. Thời nay, noi gương đức Phật, Hoà thượng Thích Thanh Từ cũng dạy những hàng đệ tử phải biết: “Truyền đăng tục diệm”, tức là nối đèn tiếp lửa: “Tôi chỉ là một ngọn đèn mà thôi, tới quý vị là trăm ngọn, ngàn ngọn, chứ không phải một ngọn như tôi nữa”. Mong muốn mỗi tăng ni, Phật tử phải tự thắp sáng ngọn đuốc, rồi mồi ngọn đuốc sáng của mình cho người kế tiếp. Nếu ngọn đuốc này tắt sẽ có ngọn đuốc khác nối tiếp để thắp sáng. Ý thức được điều đó, nên từ thời đức Phật và qua bao nhiêu đời tổ sư, cho đến tận ngày nay luôn có những vị chân sư biết nối đèn tiếp lửa. Các ngài luôn thắp sáng lên ngọn đèn của chính mình, giữ cho ngọn đèn ấy luôn rực cháy đến mãi về sau. Ngọn đèn sáng đó chính là tâm của mỗi người. Tâm ngay thẳng, chân thật chắc chắn sẽ có Phật ngự trị trong đó. Khi tâm có Phật, cuộc sống sẽ trở nên tươi đẹp, trí tuệ khởi sinh. Khi có trí tuệ, con người sẽ nhận ra bản thể, đây là lúc con người biết quay về sống với cái tâm chân thật của mình, họ không còn bị mắc kẹt hay bám chấp vào bất cứ thứ gì của thế gian. Người có trí tuệ là người biết xoá bỏ vô minh, đạt đến sự giải thoát, biết thắp sáng và gìn giữ ngọn đuốc tâm của chính mình. Tinh thần “Truyền đăng tục diệm” được cho là “thành tựu bước đầu trong công cuộc mồi đèn nổi lửa của Hòa thượng Trúc Lâm, đã tạo được niềm tin yêu và quý kính pháp môn tu Thiền trong lòng tăng ni và Phật tử xa gần”. Tuy nhiên, muốn cho Phật giáo nước nhà được phát triển và trường tồn cùng thời gian, tăng ni Phật tử Việt Nam phải hiểu rõ: Tu là cái gốc để duy trì Phật pháp và bảo vệ Phật pháp, nên họ cần tinh tấn tu tập theo chánh pháp để có trí tuệ sáng suốt, biết trân trọng, gìn giữ và biết thắp sáng ngọn đèn truyền thống của tổ tiên mình bằng tinh thần “Truyền đăng tục diệm”. 3.2. Tinh thần giáo dục tự kỷ Đức Phật khi còn tại thế, sau khi giác ngộ đã tìm ra nguyên nhân và nguồn gốc của khổ. Khổ xuất phát từ chính bản chất tham sân si của loài người. Tiếp nối tinh thần của đức Phật, Hòa thượng dạy các hàng đệ tử: “Chúng ta thấy gốc đau khổ từ cái mê lầm là tham, sân, si... Cho nên chúng ta phải soi sáng để cho mọi người thức tỉnh. Dẹp bỏ được tham sân si, đó là cứu khổ cho chúng sanh.” Nhưng muốn diệt trừ tận gốc tham sân si, trước tiên phải diệt trừ vô minh. Vô minh là mắt xích đứng đầu trong thuyết mười hai nhân duyên, là nguồn gốc sinh ra tham và sân. Khi con người bị bức màn vô minh che mờ thì si sẽ xuất hiện, khiến con người không biết phân biệt thật giả, phải trái. Vô minh dẫn họ đến con đường của mọi sự đau khổ. Do đó, Hòa thượng Trúc Lâm dạy chúng ta phải sống trong tỉnh thức để biết quan sát sự khổ. Phải nhìn, phải xem xét cho tường tận nguyên nhân của nó là cái gì? Phải biết tự giáo dục và tha giáo dục là điều quan trọng. Khi đã quan sát một cách tường tận, nhận ra chân lý của khổ, lúc đó con người mới đạt tới sự giác ngộ và giải thoát. Ngày nay, con người đang mải miết chạy theo lối sống hiện đại, vô tình họ đã đánh mất đi tự ngã. Chính điều này đôi khi khiến họ rơi vào trạng thái mất cân bằng trong cuộc sống. Sống trong tỉnh thức chính là liều thuốc chữa lành tâm hồn, giúp họ biết buông bỏ và thể nghiệm từng phút giây ở hiện tại, để nhận biết những gì diễn ra xung quanh. Hòa thượng nhấn mạnh: “Những ai đang khao khát tìm lại chính mình, mong sống trọn niềm an lạc giữa cuộc tử sinh ba chìm bảy nổi, nếu biết nương duyên thắng pháp dừng bước phong trần, về với khung trời Thiền đơn bạc, sẽ bỗng chốc nhận ra quê hương muôn thuở là đây.” Càng sống trong tỉnh thức, chúng ta càng làm chủ được thân tâm, và nhanh chóng tiến tới sự giải thoát trong vòng sinh tử luân hồi: Nếu thức tỉnh thì chuyện thoát ly sanh tử không khó. Nếu chúng ta mê hoài thì không biết chừng nào ra khỏi biển sanh tử. Cho nên thấy rõ thân này không phải thật ngã thì tự nhiên sẽ thoát ly sanh tử. Nếu thấy là thật ngã thì không bao giờ ra khỏi sanh tử, dù tu hạnh gì cũng thế? Vì thế, để được sống trong tỉnh thức, đòi hỏi người tu học phải kiên trì tập luyện, phải kiểm soát chặt chẽ những hành động và suy nghĩ của mình để tránh mắc sai lầm và mang tổn thương đến cho người khác: Chúng ta cố gắng nỗ lực tu, từ cố gắng đó, nơi mình đầy đủ công đức thì bên ngoài theo đó mà được. Đây là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của mỗi con người, đưa con người đến một cuộc sống an lạc, hạnh phúc và giải thoát. Như vậy, tinh thần giáo dục tự kỷ của Hòa thượng Thích Thanh Từ khuyên con người phải biết sống trong tỉnh thức để: trở về với con người chân thật của mình, phá màn vô minh, đưa đến con đường giải thoát. 3.3. Tinh thần Lục Hòa Sống hoà thuận là yếu tố quan trọng trong mọi mối quan hệ của cuộc sống. Nó giúp con người có cuộc sống an lành, hạnh phúc. Chính vì lẽ đó mà Hòa thượng Trúc Lâm đã nối tiếp tinh thần của đức Phật, tạo ra môi trường giáo dục cho chư tăng ni, Phật tử. Ngài khuyên: “Tụi con phải sống theo tinh thần Lục Hòa... tụi con phải nhớ từ Lục Hòa để trở thành một người xuất gia, một tập thể tốt đẹp...” Mong muốn người tu phải có nếp sống đạo đức, phải hiểu rõ Thân hòa cùng ở - Miệng hoà không tranh cãi - Ý hoà cùng vui - Giới hòa đồng tu - Kiến hòa đồng giải - Lợi hoà đồng chia. Nên ngài lập ra bản Thanh quy, trong đó có giáo dục tinh thần Lục Hòa, để chư tăng ni, Phật tử trong Thiền viện thực hiện mọi sinh hoạt hàng ngày theo đúng nội quy được đề ra. Mong muốn họ khi sống trong một tập thể phải biết thương yêu, đùm bọc nhau, phải: bằng lòng kiên trì nhẫn nại... dốc chí dốc lòng, cùng bảo ban chia sẻ, em ngã chị nâng, đồng lao cộng khổ. Phải luôn trân trọng, coi nhau như một gia đình, luôn giữ hoà khí, không tranh cãi gây bất bình và thành kiến đố kỵ nhau. Ngài dạy: “Tất cả chúng con đều đủ phước đủ duyên mới được sống chung với nhau một nơi tu hành thanh tịnh thì các con phải cố gắng giữ cho ba nghiệp được thanh tịnh... Ở bên trong phải dẹp ba con rắn độc tham sân si. Đối với huynh đệ thì phải sống đúng tinh thần Lục Hòa. Được vậy thì tụi con tu hành sẽ được tiến triển, còn thiếu những điều này thì tụi con tu có hình thức mà không tiến bộ... Ráng tu để khỏi uổng phí một đời.” Theo ngài: Nếu có bệnh mà không bắt trị để nó hoành hành đến lúc không kham trị nữa thì sẽ dẫn đến hậu quả đáng tiếc. Hiểu rất rõ nghiệp lực và luật nhân quả, cho nên ngay từ khi bước chân vào sống trong Thiền viện, Hòa thượng đã bắt buộc các Thiền sinh phải tuân thủ và thực hành pháp Lục Hòa. Mong muốn họ hiểu rõ tính khí của nhau, biết tôn trọng, chấp nhận và đối đãi tử tế với nhau, tránh tạo nghiệp. Như vậy, tinh thần Lục Hòa có thể coi: là chất keo gắn chặt lâu bền các Thiền sinh chung sống tại Thiền viện. Lục Hòa cũng là nền tảng vững chắc của đoàn thể tăng ni, là pháp tu của sự hoà hợp và tôn trọng lẫn nhau mà Hòa thượng Trúc Lâm muốn gửi tới tăng ni, Phật tử để ứng dụng vào trong đời sống, mang đến lợi ích cho bản thân và cộng đồng. 3.4. Tinh thần thiểu dục tri túc Ngày nay, trong xã hội hiện đại huy hoàng, lộng lẫy nhưng cũng đầy cám dỗ. Người tu hành phải làm gì để giữ được đạo đức và nếp sống nơi Thiền môn? Trăn trở với điều này, noi theo gương đức Phật, Hòa thượng dạy các đệ tử sống theo tinh thần “Thiểu dục tri túc”. Từ thời xa xưa nếp sống “thiểu dục tri túc” đã ăn sâu vào nhận thức của mỗi đệ tử Phật, trở thành nét đặc trưng riêng của Thiền viện: Cuộc sống thanh đạm là đời sống của Thiền sinh lại các Thiền viện. Hiểu rõ hạnh của người tu sĩ là không được để các pháp sai khiến tâm trí, không để mình trở thành nô lệ của các pháp. Cho nên Hòa thượng Trúc Lâm đã: Ăn uống đạm bạc, giữ trọn nếp sống thanh bần thường lạc nơi Thiền thất, để tâm không còn tham cầu sắc dục và danh lợi của thế gian. Theo Hòa thượng, người nào dục vọng càng nhiều thì tội ác càng lớn; muốn ít, biết đủ chính là giữ gìn đạo hạnh, từ đó phát triển trí tuệ. Ngài khuyên người tu học phải lấy trí tuệ làm sự nghiệp: “Tu theo đạo Phật mà không đặt nặng vấn đề giác ngộ, không đặt nặng mở sáng con mắt trí tuệ thì chưa phải đạo Phật.” Xét cho cùng, chạy theo sắc dục là do sự vô minh của con người, sống tư lợi cá nhân nên bị sắc dục ngự trị và chi phối. Tuy đầy đủ về vật chất, nhưng đau khổ vẫn còn ngự trị. Vì vậy, muốn thoát khỏi sự ràng buộc của sắc dục, con người cần phải tu học và thực hành theo pháp môn “thiểu dục tri túc”, mới mong xoá bỏ được vô minh và thoát khỏi những phiền não. Đời sống tu hành như những con mồi để những cám dỗ lao đến, cho nên Hòa thượng luôn nhắc nhở các đệ tử về sự nguy hiểm của cám dỗ, cần phải tỉnh táo giữ cho tâm thanh tịnh để tu hành. Phải thực hành giữ giới luật “ngoài dứt các duyên, trong bặt vọng tưởng”, đây là tôn chỉ đặc trưng của Thiền phái Trúc Lâm. Người tu học Phật cần biết tiết chế ngũ dục, sống đời phạm hạnh, tu tập theo chánh pháp phòng hộ các căn an nhiên thanh tịnh: “Đã nguyện tu theo hạnh giải thoát nên mới thọ giới... Vì vậy khi đắp lá y vào mình rồi thì chúng ta đang từng bước đi trên con đường giải thoát... Được xuất gia thọ giới để tu đúng hạnh giải thoát thì kể từ đây mãi về sau trên đường tu lúc nào cũng biết tham sân si là ba con rắn độc không nên dung chứa nó nữa. Vì còn tham sân si thì tụi con còn điêu linh khổ não nên phải dẹp bỏ. Giữ giới luật cũng chính là tinh thần “thiểu dục tri túc”. Những gì con người nhận được đều là kết quả của những hành động mà mỗi người đã thực hiện trước đó, nếu tuân thủ giữ giới sẽ được phước báu, và có một cuộc sống hạnh phúc, an nhiên, tự tại. Còn không sẽ nhận lại sự đau khổ và mãi trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi. Như vậy, nếu hiểu và thực hành đúng theo tinh thần “Thiểu dục tri túc” của Hòa thượng Thích Thanh Từ: ít muốn, biết đủ là chúng ta đã tìm được sự bình yên trong tâm hồn và ung dung, tự tại giữa dòng đời mà không còn bị ngũ dục chi phối, đeo bám nữa. Chúng ta cương quyết tu là phải sáng, là phải giác ngộ. Như vậy thì còn tối tăm hay chỗ nào tôi tăm, chúng ta phải thắp đèn, phải đốt đuốc để rọi cho sáng. 3.5. Tinh thần tinh tấn tu học, cần cù, siêng năng Hòa thượng Trúc Lâm quan niệm: “có thực mới vực được đạo”. Cho nên mặc dù quê hương đang trong thời kỳ loạn lạc, chiến tranh tàn phá, kinh tế gặp nhiều khó khăn. Muốn đời sống tu hành được ổn định để tu học, Hòa thượng đã khuyên các Thiền sinh phải bắt tay vào tăng gia sản xuất. Phải “nếm ít nhiều phong vị khổ hạnh của hành giả nuôi chí xuất trần!” Cho nên Ngài chỉ dạy các đệ tử cách cấy lúa, trồng khoai, be bờ, tháo nước... Cùng đồng cam cộng khổ, lao tâm khổ tứ với các Thiền sinh, mong sao có đủ lương thực để các Thiền sinh yên tâm tu học. Mồ hôi Ngài đã đổ ra tưới khắp đất cằn, ruộng cạn cho ra hạt gạo củ khoai rau xanh trái ngọt. Thế nên dù nhà dột cột xiêu, hẩm hút muối dưa, cơm độn qua ngày, mà chan chứa nghĩa tình huynh đệ, nồng ấm ân từ. Cho dù cuộc sống tu hành thiếu thốn trăm bề, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nhưng các Thiền sinh vẫn: ngày hai buổi, chẳng quản nắng mưa, ra sức phá rừng dọn đất như nông phu thực thụ. Mặc cho tay phồng chân rộp, bùn sình lấm láp, lấy mồ hôi và cả nước mắt, tưới tẩm cho đất khô cằn. Như vậy có thể hiểu, cuộc sống của người xuất gia rất gian nan, khổ cực. Vì thế, để trở thành một người tu hành đắc đạo, không thể một sớm một chiều mà đạt được. Cần phải có cả một quá trình dài để trải nghiệm, thực hành tu tập. Hòa thượng và các đệ tử phải mất rất nhiều tâm huyết và cả sự kiên trì không mệt mỏi: kiên quyết vượt qua chướng ngại, thực hiện kỳ được giải thoát viên mãn. Chính sự kiên quyết đó đã tạo nên sức mạnh và niềm tin để Hòa thượng và các đệ tử thực hiện được ước mơ dựng lại con đường Thiền trên chính quê hương mình. Với ngài: không tu thì thôi, nếu đã tu thì phải tu đến nơi đến chốn để xứng đáng với sở nguyện của mình. Và nếu chúng ta, những người tu học Phật, biết áp dụng tinh thần của ngài vào phục vụ cuộc sống, chắc chắn chúng ta sẽ có một tâm thái bình an, và luôn mỉm cười trước những nghịch cảnh của cuộc sống: Đến đây rồi hạnh phúc khó thưa trình Chỉ xem thấy, nụ cười luôn hé nở. 3.6. Tinh thần bi mẫn Sinh ra trong thời chiến tranh loạn lạc, sống trong cảnh bần hàn, cơ cực, Hòa thượng rất thấm thía và đau xót trước nỗi thống khổ của người dân. Ngài luôn mong muốn đất nước không còn chiến tranh, loạn lạc... không muốn mình bị lâm vào cảnh giết người, nên ngài xuất gia đi tu để mong giữ trọn hạnh nguyện, mong lập được một phòng chẩn trị Đông y miễn phí để giúp đỡ những người bệnh nghèo. Ngài tâm sự: “Đời tôi nếu không là viên linh đơn cứu tất cả bệnh cho chúng sanh, thì cũng xin làm viên thuốc bổ để giúp người bớt khổ”. Với tinh thần bi mẫn, biết đồng cảm và sẻ chia với đồng loại, Hòa thượng Trúc Lâm đã gây ảnh hưởng lớn tới những thế hệ tăng ni, Phật tử. Cụ thể: Ngài đã quy tụ được số lượng lớn tăng, ni có trình độ nghiệp vụ tham gia phục vụ tại Tuệ Tĩnh đường Linh Chiếu. Theo quan niệm của đạo Phật, tình thương yêu và sự sẻ chia xuất phát từ lòng từ bi của con người. Nhưng do tham sân si, ích kỷ và vô minh, con người vô tình đã để tâm thức của mình bị đóng băng, và trở nên vô cảm. Do đó, Hòa thượng luôn nhắc nhở hàng tăng ni, Phật tử phải lấy hạnh từ bi, kham nhẫn nuôi lớn tinh thần phụng sự tha nhân: Ở đây chúng ta thể hiện lòng từ bi bằng cách giúp đỡ bệnh nhân. Bệnh nhân họ khổ đau bệnh tật, tụi con giúp đỡ cho họ hết bệnh, đó là thể hiện lòng từ bi. Đây chính là pháp tu theo hạnh bố thí, có khả năng nhiếp phục được tâm tham sân si, xoá bỏ sự vô minh, giúp tâm con người giải thoát khỏi sự đóng băng, nhường chỗ cho tình thương yêu, và sự sẻ chia với những hoàn cảnh kém may mắn. Tinh thần bi mẫn cũng chính là tinh thần giáo dục đạo đức mà Hòa thượng Trúc Lâm muốn gửi tới các thế hệ tăng ni, Phật tử Việt Nam ngày nay. Mong muốn giúp họ thoát khỏi sự đóng băng của tâm, biết mở lòng để yêu thương, chia sẻ với tha nhân. KẾT LUẬN Qua những phân tích trên có thể nhận định, tinh thần giáo dục của Hòa thượng Trúc Lâm - Thiền sư Thích Thanh Từ đã và đang đồng hành với xu hướng phát triển của thời đại. Với mong muốn Thiền tông Việt Nam tiếp tục lớn mạnh và trường tồn cùng thời đại, nên Hòa thượng đã rất tâm huyết chắt lọc những cái hay, cái tinh tuý trong giáo lý của đức Phật để chỉ dạy cho các thế hệ tăng ni, Phật tử Việt Nam thể nghiệm được chân lý của vạn vật, vũ trụ, từ đó biết cách tu tâm và tu theo đúng chánh pháp. Có trí tuệ để biết trân trọng, gìn giữ và nối tiếp mạng mạch Thiền tông Việt Nam. Đồng thời biết ứng dụng giáo lý của đức Phật vào phục vụ cuộc sống, để tìm cho mình một lối đi riêng, đồng thời sáng suốt nhận ra con đường nào phù hợp nhất với xu hướng của thời đại để tự điều chỉnh và thực hành theo. Mục Lục
|
Khánh Thọ Bách Tuế Hòa Thượng Tôn Sư
|
Nét Đẹp Trong Văn Hóa Thiền Phái Trúc Lâm Hiện Nay - Tông Huyền
Sư Ông Trúc Lâm Người Đã Soi Sáng Con Đường Cho Con - Hướng Thiện
Sự Phát Triển Của Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam - Trúc Lâm Chính Pháp
Mục Tiêu Và Tinh Thần Giáo Dục Của Hòa Thượng Trúc Lâm - Thiền Sư Thích Thanh Từ - Trần Thị Mai Hương