|
Khánh Thọ Bách Tuế Hòa Thượng Tôn Sư
Trúc Lâm Trên Đất Thần Kinh - Bảo Pháp
Trên pháp hội Linh Sơn, Thế Tôn niêm hoa, Ca-diếp mỉm cười, mở bày kho tàng chánh pháp, Phật truyền tâm ấn. Một vầng nhật nguyệt soi sáng trời Tây. Suối nguồn Thiền tông tuôn chảy, rạng ngời ánh đạo vàng. Sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, nhiều đời chư vị Tổ sư trao truyền tâm ấn này, soi rọi chốn nhân gian. Mở bày phương tiện, khai thị chỉ thẳng, phá tan mê mờ u tối. Thời vàng son chánh đạo, chốn nhân thiên mở sáng một con đường, chúng sanh thừa tư lợi lạc mãi đến ngàn sau. Cứ thế dòng Thiền chảy mãi, đổ về Đông Độ. Trên ngọn Tung Sơn, Đạt-ma bích quán, Thần Quang xuất hiện, tấu khúc an tâm, ánh chớp lóe sáng đất trời, đỉnh Tung Sơn đất bằng dậy sóng. Nối nắm ngọn đèn Phật tổ, làm hưng thịnh, phát triển thành nhiều dòng Thiền, tỏa ngát muôn ngàn hương sắc, đồng về trong một nguồn chơn. Mở lối nước Nam, tụ hội tại non thiêng Yên Tử, với sự ra đời của một bậc minh quân tài ba kiệt xuất, Phật hoàng Trần Nhân Tông. Ngài học đạo với Tuệ Trung thượng sĩ có lối vào. Xuất gia, tu hành, chứng ngộ sâu thiền tủy. Từ trí tuệ chứng ngộ, ngài dung nhiếp các dòng Thiền hiện thời, từ đó sáng lập ra một dòng Thiền thuần Việt - thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, khế hợp căn cơ và bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được phát huy rực rỡ, đưa Phật giáo lên đỉnh cao, đó là Quốc giáo. Huy chấn tông phong, tỏa sáng một vùng trời Nam. Dòng đời đổi thay, qua bao cuộc thịnh suy, dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử một thời vang bóng rồi như lại ngủ yên theo dòng lịch sử. Mãi đến hôm nay, người người bất ngờ thấy rõ hương thiền Trúc Lâm vẫn còn, chưa từng thiếu vắng. Tiếp nối Tổ đăng, khơi mạch nguồn Thiền tổ, suối nguồn Trúc Lâm Yên Tử tuôn trào. Hòa thượng Tôn sư đã làm sống dậy tinh thần thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, khơi dậy sức sống thiền trong lòng người con đất Việt, thắp sáng ngọn đèn Thiền tông Việt Nam, lan tỏa khắp năm châu bốn biển. Một vầng tinh tú, bốn phương tụ hội. Khí sắc nhà Thiền nuôi lớn chí xuất trần cho bao người con tìm về trong hương vị giải thoát. Thật là diễm phúc và túc duyên sâu dày nên hàng hậu học con cháu chúng con được sống và tu tập trong pháp hội của Người. Được tắm gội trong suối nguồn trong mát, nếm được pháp lạc hương thiền của dòng chảy Trúc Lâm lan tỏa trên mảnh đất Thần Kinh. Cõi thế vô thường, mạng sống mong manh. Cuộc đời tạm bợ, công danh phú quý như màn sương khói, nay được mai mất. Tất cả như một sự lay tỉnh, nhắc thức, thúc đẩy, đưa chúng con đến với đạo Phật, với thiền. Chí nguyện cao cả, vì lý tưởng tìm đường giác ngộ giải thoát cho mình và cho bất cứ ai có cùng tâm nguyện. “Mình là ai?” Phải chăng đây là một dấu hỏi lớn mà bất kỳ ai cũng muốn khám phá, là sinh lộ mà ai cũng phải đi qua để tìm lại quê hương chân thật chính mình. Sự khắc khoải về nghi vấn này như một nhân duyên lớn đưa chúng con đến với Thiền. Con đường thiền thênh thang rộng mở, chào đón chúng con dưới ánh bình minh rực sáng phía chân trời. Tại một vùng trời sông núi hữu tình, Bạch Mã hiển hiện trầm hùng, kỳ vĩ mà ôn hòa như mang theo cái mát lành của cao nguyên Đà Lạt về trên xứ Huế. Hồn thiêng Yên Tử, suối nguồn Trúc Lâm như đang hòa quyện, làm khơi dậy sức sống thiền nơi đây. Núi biếc một màu, trời xanh thăm thẳm, tọa lạc tại chân núi Bạch Mã, Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã hiện lên giữa lòng hồ Tỉnh Giác, như một đóa hoa gối đầu vào núi rừng, trải dài đến vút mắt. Bên trong ngõ lối quanh co, đá dựng chập chùng gồ ghề hiểm trở. Tuy nhiên hành giả luôn phấn đấu, quyết bước đến chỗ sơn cùng thủy tận, chỗ tột cùng của mọi quanh co khó khổ. Ẩn hiện sau những ngọn cây cao vút là hình ảnh những con người thầm lặng làm việc bổn phận, rất mực bình dị, ẩn mình trong nếp sống tùng lâm, với ý chí cao vút của bậc xuất trần thượng sĩ. Thừa hưởng đường hướng Sư ông hướng dẫn, sống trong nội viện Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã, chúng con được trên Thầy chúng con hướng dẫn tu học miên mật. Chúng con ra đời muộn hơn nên không được Sư ông trực tiếp hướng dẫn. Bằng sự nỗ lực, quyết tâm của chính bản thân mà chúng con cảm nhận được Phật tổ không cô phụ người quyết tâm. Với chánh pháp Nhãn Tạng chúng con cũng tự thấy có phần. Chúng con không thấy thiệt thòi bởi pháp âm của Sư ông vẫn còn trong sách vở, trong các băng giảng của Sư ông được ghi hình lại. Đường hướng chủ trương của Sư ông vẫn còn đó nơi Thầy chúng con truyền đạt lại. Qua lời chỉ dạy của Thầy chúng con, hình ảnh Sư ông như hiện ra trước mắt. Từ chỗ không có gì, Người đã âm thầm trong khó khăn vất vả phục hưng, gây dựng cơ đồ, khơi mạch nguồn thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ngủ yên bấy lâu. Thiền tông Việt Nam lại có mặt trong ngôi nhà Phật giáo Việt Nam như bản vị lịch sử của nó. Đèn Thiền tỏa sáng nơi nơi, người người cộng lạc trong pháp vị giác ngộ giải thoát Phật tổ đã trao truyền. Một lần nữa, dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử lại sáng rỡ, vang dội đất trời. Sư ông đã đem kinh nghiệm sống thực trong đời tu của mình để chỉ dạy cho hàng hậu học. Những kinh nghiệm quý báu này mãi là ngọn đuốc soi đường cho nhiều thế hệ mai sau. Hình ảnh vị Thiền sư dung dị, đầy ắp từ tâm đã in sâu vào tâm thức chúng con, chan hòa vào nếp sống thiền môn. Trong môi trường thực học, chuyên tu, chúng con nhận ra những gì Sư ông chỉ dạy có ngay nơi sự nỗ lực hạ thủ công phu của chính mỗi người. Sư ông đã thắp sáng lên ngọn đuốc niềm tin chánh pháp trong chúng con. Bừng sáng ngọn lửa của sự quyết tâm, quyết chí. Và Thầy của chúng con đã tiếp nối, lãnh nhận trách nhiệm và sứ mạng của Sư ông giao phó. Thầy luôn là người truyền lửa cho chúng con để nó hừng hực cháy mãi, không để lụi tàn hay yếu đi chút nào. Chúng con luôn được Thầy chúng con nhắc nhở, sách tấn trong việc học, việc tu. Học, mỗi mỗi phải xoay lại chính mình, không dừng trên văn tự chữ nghĩa mà phải đạt đến phát minh, sáng tạo. Tu, tin tâm mình có Phật tánh, có khả năng sáng đạo ngay đời này. Quyết chí hạ thủ công phu đến sáng đạo, thành Phật. Không dừng giữa đường, được ít cho là đủ. Học phải đạt đến Thuyết thông, tu phải đạt đến Tông thông thì mới có khả năng chống đỡ Tông thừa, truyền trì mạng mạch Phật tổ, đủ tư cách gánh vác trọng trách thầy tổ giao phó. Ngoài học và tu, chúng con còn được rèn luyện thân tâm trong các công tác chung cùng đại chúng. Đây là lúc kiểm xét công phu, vượt quá sự nóng lạnh của bản thân, hay đối duyên xúc cảnh tạo ra. Tu học phải miên mật, không được gián đoạn. Luôn hằng giác trên mọi sinh hoạt, sáng biết rõ ràng trong tất cả oai nghi, nói nín, động tịnh. Được như vậy thì công phu mới đắc lực, khế hợp tự tánh, mới có ngày bừng ngộ. Làm được như trên mới xứng đáng là con cháu nhà Thiền, không cô phụ hoài bão, tâm huyết một đời của Sư ông. Trải thời gian tu học cùng đại chúng, hội đủ duyên lành, chúng con được trên Thầy chúng con cho phép luân phiên nhau nhập thất. Việc nhập thất như là một nhân duyên lớn nên Thiền sinh nào cũng trân quý. Lòng đã quyết, tâm dồn về một mối, chỉ còn một việc là quyết chí hạ thủ công phu. Trong thời gian này, cái gì là chân thật chính mình hiển bày rõ ràng hơn, không qua ngôn ngữ văn tự bên ngoài. Sức sống chân thật trong đây khiến chúng con thấy rõ những gì đã được học, lời Phật lời Tổ, lời Sư ông, lời Thầy chúng con dạy như bày ra trước mắt, như thanh kiếm bén đốn thẳng nguồn tâm. Mỗi mỗi sáng lên từ nơi ánh sáng trí tuệ tự tâm chính mình. Đến đây rồi, chỉ bằng sức công phu, sự thể nghiệm chứng thực nơi chính mình mới thấy rõ việc tu, không qua học hỏi, suy luận mà có được. Khéo dụng công, bặt hết dấu vết, mất hút các tướng, không một vết mê thì tánh thể hiện tiền. Sống thẳng ngay đó là tu hành. Nhân duyên thời tiết chín muồi thì tánh này tự bừng ngộ. Càng nhiều lần nhập thất thì chúng con càng rõ việc bổn phận mình hơn. Vững chãi, an lòng, thẳng bước tiến lên trên đại lộ Giác Ngộ mà chư Phật chư tổ đã qua. Tuy ra đời sau, không được trực tiếp gặp Sư ông chỉ bày, kích phát, thẳng đó ngộ nhập như chư Tôn đức. Nhưng trong mỗi chúng con tự thấy ra rằng, nếu đêm ngày tâm tâm niệm niệm miên mật với những gì Sư ông chỉ dạy thì diệu chỉ Phật tổ, yếu diệu Sư ông trao lại cho chúng con là có thật, đang hiện tiền. Như thế, tuy không được thường xuyên trực tiếp đảnh lễ Sư ông, nhưng chúng con cũng không thấy mình xa cách. Càng học, càng tu theo đường hướng mà Sư ông đã chỉ dạy, chúng con càng thấy rõ mình thật may mắn được làm con cháu của Sư ông, luôn tự hào vì được sống trong mình dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Nếu không đủ phúc duyên được dự trong pháp hội của Sư ông, chúng con giờ này vẫn là những chàng Cùng Tử nghèo đói với chánh pháp, lang thang không định hướng giữa dòng đời ngược xuôi. Có huynh đệ mới xuất gia, ngồi thiền còn đau chân, nhức mỏi nhưng vẫn tinh tấn và có niềm vui trong đời sống tu học. Có huynh đệ đào sâu nghiên tâm nội điển, công phu miên mật nếm được thiền duyệt pháp hỷ nhất định. Có vị gặp trở ngại trong công phu, được nghe lại lời dạy Sư ông liền khơi thông, phấn phát. Có vị đọc sách Sư ông viết, chợt có chấn động, thầm nhận ra con người chân thật xưa nay mà Sư ông đã chỉ thẳng. Dưới nguồn pháp nhũ, dưới ánh sáng Thiền soi rọi của Sư ông, mỗi huynh đệ chúng con đều có những tiến bộ riêng, nhưng tất cả đều có chung một cảm khái “không ngờ”. Sự hoan hỷ trong thượng vị chánh pháp, thiền duyệt đến không ngờ. Qua lời dạy của Thầy chúng con, hình ảnh của Sư ông thật oai nghiêm, nhưng từ hòa, bình dị và gần gũi. Nhất cử nhất động của ngài luôn toát lên đạo phong rạng ngời, tỏa sáng. Trên đỉnh Phụng Hoàng, suối nguồn Trúc Lâm - dòng chảy do ngài khơi lại lan tỏa bủa khắp nơi nơi, tưới tẩm cho bao người con đất Việt. Dòng chảy ấy đã cuốn phăng đi những mê mờ tình chấp. Lúc thì êm đềm, nhẹ nhàng như dìu dắt, đưa hàng hậu học vượt qua những khó khăn thử thách trong việc tu học và Phật sự, tiến thẳng trên con đường giác ngộ, giải thoát. Nhưng có lúc lại chảy xiết, cuộn trào dữ dội như muốn nhấn chìm, cuốn trôi tất cả kiến giải, tình chấp, đẩy hành giả đến chỗ tận cùng, vực thẳm buông tay. Ánh chớp xé trời, bất chợt hoác toang, chân trời giác sáng hiện tiền. Linh thông sáng rỡ, đất trời thênh thang, tiêu sái, tự tại. Lúc này mới cảm nhận hết tâm lão bà của Sư ông đã hết lòng vì cháu con. Có nếm được mới nhận ra hết giá trị. Có tu tập thực sự mới thấy ra diệu chỉ Phật tổ chỉ bày. Càng tu tập tiến bộ, chúng con càng cảm trọng niệm Ân sâu sắc trên Sư ông. Người đã gieo mầm hạt giống Phật, niềm tin chánh pháp, mở lối Thiền, dẫn đường đưa chúng con về trong ngôi nhà giác ngộ. Người chẳng những cứu chúng con trong một đời mà còn trong muôn kiếp. Chúng con ước nguyện được đời đời là con cháu trong nhà Thiền, làm con cháu Sư ông, quyết chí tiến tu cho đến ngày viên mãn, nối nắm ngọn đèn Thiền tông sáng mãi ngàn đời. Mục Lục
|
Khánh Thọ Bách Tuế Hòa Thượng Tôn Sư
|