Thiền Tông Việt Nam
Khánh Thọ Bách Tuế Hòa Thượng Tôn Sư
Ân Thầy - Thuần Nhất

Kính dâng Thầy, bậc Ân sư khả kính!

Dòng thời gian thấm thoát trôi qua, mới đó mà đã hơn nửa thế kỷ con được phước duyên làm đệ tử của Thầy, được nương tựa đức trí của Thầy. Nhờ đó mà con được gội nhuần ơn pháp nhũ và vị thiền dần thấm cho con niềm vui trong đạo.

Kính lễ Thầy.

Trước hết con xin chắp tay nguyện cầu Tam bảo gia hộ cho Thầy tứ đại luôn nhu hòa, bi trí luôn sáng ngời. Thầy mạnh khỏe an vui, trụ đời dài lâu với chúng con. Không có niềm vui nào đánh đổi được, khi huynh đệ chúng con cùng quây quần bên Thầy, ấm áp và an lạc biết bao! Cảm xúc trào dâng thật thanh thoát đạo vị, dù có diễn tả thế nào cũng không hết được niềm hỷ lạc của chúng con. Để hôm nay muốn viết về Thầy, con cảm thấy ngôn từ quá hạn hẹp, không biết làm sao nói lên hết được ân đức cao vời của Thầy.

Con may mắn sớm hội nhập cùng quý Ni trưởng bảy Huệ, đệ tử của Thầy, nên con được theo về núi thăm Thầy từ những ngày đầu phá núi, dựng am. Đến lúc nương Thầy xuất gia tu học, con lại được cho làm thị giả, rồi thư ký cho Thầy và cuối cùng được trở về hành đạo chốn xưa. Hôm nay ngồi ngẫm lại, quả là duyên lành rất lớn cho con trong đời này.

Cuộc đời Thầy gắn liền với đạo pháp, khi nói về Thầy là nói đến Thiền tông Việt Nam. Con còn nhớ thuở đầu khai phá dựng Chơn Không, núi Tương Kỳ không cô phụ người đại chí. Thầy quyết tâm hạ thủ công phu. Tre gai sỏi đá phải cúi đầu và Pháp Lạc thất được dựng lên cùng với lời thệ nguyện: “Lần nhập thất này không thời hạn, nếu đạo không sáng quyết không ra thất.” Sự quyết tâm đó đã đưa Thầy đến kết quả. Ánh sáng tuệ giác mở ra, dòng thiền Tâm tông tuôn chảy. Chơn Không bừng sáng, hội chúng đông vầy. Pháp âm Thầy vang đội bốn phương, người người được nếm pháp vị từ Thầy mà chuyển hóa bao nỗi khổ niềm đau. Ân Thầy đã lớn, đức Thầy càng sâu, chúng con bạc đầu vẫn thấy mình non trẻ, bởi công hạnh và trí đức của Thầy quá cao vời! 

Thầy, một bậc chân nhân, nối tiếp bước chân của Phật tổ, một mình vạch lại lối xưa, gạn đục lóng trong chỉ cho người Bản lai diện mục. Lối xưa cỏ đã phủ đầy, đâu dễ dàng gì dấn bước. Thế mà Thầy vẫn kiên trì bền chí, giữ vững lập trường vượt qua tất cả định kiến đương thời. Trải bao chông gai thử thách, Thầy vẫn một lòng vì đạo pháp. Thế sự thăng trầm, dâu bể đổi dời, từ núi rừng Chơn Không u tịch Thầy đưa chúng về Thường Chiếu tu học. Sự thay đổi này ảnh hưởng rất lớn đến việc hoằng pháp của Thầy và đời sống của các thiền sinh, đang yên tu chuyển qua cuộc sống nông thiền, vừa lao tác vừa tu học, mọi thứ lại bắt đầu. Dù thế, Thầy vẫn không quản ngại vất vả, mỗi tháng đội nắng dầm mưa, từ Núi Lớn - Vũng Tàu xuống Long Thành, đều đặn đi về để chỉ dạy cho tăng ni tu học. Thầy đã nuôi lớn tâm thiền, khơi nguồn tuệ giác, để ngày nay bao bậc tùng lâm thạch trụ tiếp bước chân Thầy, mang trống pháp gióng khắp nơi nơi.

Quả thật, có nếm trái cây của vườn Pháp Lạc mới thấy tâm từ của Thầy rộng lớn vô biên. Khi vừa ngộ lý sắc không, Thầy liền chan rải niềm an lạc ấy. Và từ đó, mỗi ngày của Thầy là mỗi ngày vì người, lợi lạc cho người. Buổi sáng, sau giờ tọa thiền, thể dục, điểm tâm xong Thầy bách bộ quanh trượng thất vài vòng, rồi đầu đội nón lá, tay cầm chiếc kéo đi xuống vườn, vừa cắt tỉa cành cây vừa hướng dẫn chư tăng làm việc. Đến mùa trái chín, Thầy trò cùng hái về đem chia đều cho các am thất. Thầy là như vậy, từ vật chất đến tinh thần, Thầy không giữ niềm vui cho riêng mình mà đem chia sẻ cho mọi người cùng được lợi lạc.

Buổi chiều, Thầy chống gậy xuống Viên Phước, đây là thời gian Thầy dành cho chư ni thưa hỏi đạo lý. Dùng chút sữa chiều, Thầy hỏi thăm sự tu học của ni chúng, rồi tùy vào chỗ thưa thỉnh mà nhắc nhở, chỉ dạy thêm trong công phu thiền tọa. Niềm vui nhân đôi, khi cùng được quây quần bên võng Thầy, được nghe Thầy động viên răn dạy. Như trẻ thơ núp bóng mẹ hiền, chị em vui cười ríu rít, cảm nhận niềm hạnh phúc bình an lan tỏa. Bóng chiều dần tắt, Thầy lại chống gậy theo đường Thạch Đầu trở về trượng thất nghỉ ngơi. Bóng áo vàng ung dung trong hoàng hôn đồi núi, nhẹ nhàng như làn gió thoảng, không vương vấn không bận lòng.

Tâm từ của Thầy đã thế, hạnh kham nhẫn và ý chí bền bỉ của Thầy lại càng đáng nể phục. Vào giai đoạn đó, đường lối tu học của Thầy là một sự bứt phá khác hẳn đương thời. Nhằm làm sáng tỏ đường lối tu hành cho tăng ni và minh chứng cho việc làm của mình không khác Phật tổ, Thầy ngày đêm miệt mài nghiên cứu Tam tạng, dịch thuật Thiền sử... để làm tư liệu cho thiền sinh tu học và lưu lại cho người sau hiểu rõ lời Phật ý Tổ, mà hành trì theo bước Như Lai.

Khi làm thị giả hầu Thầy, con học được rất nhiều từ thân giáo của Thầy, con chưa bao giờ thấy vẻ hấp tấp hay lo lắng hiện trên gương mặt Thầy. Thầy rất nhiều việc, với trách nhiệm Viện chủ chăm lo đời sống và hướng dẫn tăng ni tu học tại các Thiền viện, nhưng Thầy luôn đặt công phu lên hàng đầu, dù bận cách mấy Thầy vẫn không bỏ một thời thiền nào. Thầy thường dạy, chỗ thiết yếu tu hành là biết trở về chính mình. Ngay khi không phải thời khóa, Thầy cũng để tâm vào pháp hành, không cho lơi lỏng. Thầy nói, phải tu trong mọi lúc mọi nơi chứ không phải đợi lên bồ đoàn mới tu. Thầy đã khẳng định rõ ràng, mục đích tu là để thoát ly sanh tử. Thế nên, suốt một đời Thầy chỉ chuyên tâm tu thiền và nghiêm trì giới luật thanh tịnh. Thầy thường dạy chúng, ngay khi không khởi niệm, đó là giữ giới thanh tịnh. Với nguyện lực và bi lực mà ngày nay, sự hoằng pháp của Thầy đã lan rộng khắp nơi, từ trong nước cho đến hải ngoại. Nguồn tuệ giác đó trở thành suối pháp an lạc tuôn chảy qua bao thế hệ, mà trong đó có chúng con, tăng ni Phật tử ở bốn phương trời cùng nương về tu học, cùng thực hành lời Phật dạy. 

Thầy, một đời sống có mục tiêu và lý tưởng rõ ràng. Mục tiêu của Thầy là giải thoát, lý tưởng của Thầy là hoằng pháp độ sanh. Thầy chủ trương là một tu sĩ Việt Nam thì phải phát huy được tinh ba của Phật giáo Việt Nam, mà muốn phát triển Phật giáo Việt Nam thì phải dùng phương ngữ để giáo hóa nhân sinh, nên Thầy đã Việt hóa kinh sách để cho tăng ni Phật tử dễ hiểu. Song song đó, lần theo dấu vết Tổ sư, Thầy đã lặn lội tìm về chốn Tổ, khôi phục lại dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một dòng Thiền riêng biệt của Phật giáo Việt Nam, do ngài Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập. 

Ngày nay Thầy gần trăm tuổi, huynh đệ con ai cũng bạc đầu. Vậy mà mỗi khi cùng nhau về thăm Thầy, được xúm xít bên Thầy, chúng con dường như quên đi tuổi tác, vẫn nhỏ dại hồn nhiên an yên bên Thầy, bậc Thầy khả kính của chúng con. 

Ân đức của Thầy cao vời vợi mà ngôn từ thì hạn hẹp không thể nào nói hết được, chúng con chỉ biết kính cẩn cúi mình quỳ dưới chân Thầy với trọn lòng quý kính. Nguyện mười phương chư Phật gia hộ cho Thầy luôn mạnh khỏe, trụ thế lâu dài lợi lạc quần sanh, bi trí rạng ngời, từ quang chiếu rọi muôn nơi. Dù trong cuộc sống còn nhiều bận rộn, nhưng con luôn nhớ lời Thầy dạy, mọi thời mọi lúc đều là công phu, quay lại chính mình không để sáu trần chi phối thì cái biết hiện tiền. Con nguyện nương theo phước duyên lành này, quyết tiến tu cho đến bao giờ thành Phật mới thôi.

Cung kính đảnh lễ Thầy!

Cúi lạy Ân sư, dạ chí thành

Đời Thầy truyền dạy rạng sử xanh

Dòng Thiền nước Việt khơi nguồn mạch

Tuôn chảy muôn nơi được mát lành.

Cúi lạy Ân sư, đức sáng ngời

Pháp lành chan rải khắp muôn nơi

Người nghe thấu lý tâm khai mở

Phiền não xa rời được thảnh thơi.

Cúi lạy Ân sư, bi trí đầy

Lòng từ bủa rộng khắp đông tây

Chỉ thẳng tâm người nhận được tánh

Phật chẳng tìm đâu, tại nơi này.

Cúi lạy Ân sư, kính nguyện Thầy

Tứ đại nhu hòa trụ mãi đây

Bi trí sáng ngời từ quang chiếu

Lợi lạc quần sanh, hạnh nguyện Thầy.

Cúi lạy Ân sư, nguyện đời đời

Theo Người học đạo chẳng buông lơi

Tự lợi, lợi tha đều viên mãn

Niết-bàn đạo quả quyết đến nơi.

Mục Lục
Khánh Thọ Bách Tuế Hòa Thượng Tôn Sư
Danh sách chương: