Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục Giảng Giải (1996)
Thi Ca 11
Dịch: LỄ THIỀN SƯ TIÊU DAO Ở PHƯỚC ĐƯỜNG Hằng xa phong thái, Thân tuy ngoài cõi sâm với thương Thân tuy quê kệch ngụ nơi này Tạm qua thăm hỏi Cổ chùy thiền Giảng: Thượng Sĩ tuy ngộ lý Thiền, sống tự do tự tại, không còn kiến chấp hai bên, nhưng với tinh thần của người học đạo, Ngài không bao giờ lơ là bổn phận của người đệ tử đối với thầy. Hằng xa phong thái, Thượng Sĩ nói về phong cách và thái độ của Thiền sư Tiêu Dao thầy của Ngài. Ngài thường ở trong thôn vắng xa xôi không được thân cận với thầy. Thân tuy ngoài cõi sâm với thương Sao Sâm thì ở phương Tây, sao Thương thì ở phương Đông, hai sao này không bao giờ gặp nhau. Ý nói thân Ngài tuy xa cách ít được gặp thầy Ngài như sao Sâm và sao Thương, nhưng tâm của Ngài lúc nào cũng kề cận thầy, như nhìn vào gương thấy chim loan và chim phượng luôn luôn quấn quít bên nhau không xa cách. Ý hai câu này nói đạo tình của Thượng Sĩ đối với thầy của Ngài là Thiền sư Tiêu Dao. Thân Ngài tuy xa cách không được gặp thầy, nhưng tâm hồn Ngài lúc nào cũng hướng về thầy ở bên cạnh thầy. Nhàn nhã ngâm khúc vô sanh Giờ đây muốn đền ơn pháp nhũ của thầy thì trò phải ngâm khúc vô sanh cho mọi người thưởng thức. Ngài là một cư sĩ mà có ý nghĩ rất hợp với đạo lý của người xuất gia. Đức Phật dạy chúng ta muốn đền ơn Phật thì phải giáo hóa chúng sanh. Bản nhạc vô sanh là bản nhạc giải thoát sanh tử. Người học trò học được rồi, phải ngâm cho người khác nghe, tức là đem giáo lý giải thoát sanh tử dạy cho mọi người được học và tu, đó là đền đáp ơn thầy đã giáo dưỡng mình. Như vậy, dù là tại gia hay xuất gia, một khi đã thừa hưởng lời chỉ dạy của bậc thầy, được lợi ích cho bản thân, được an nhàn tự tại, chúng ta phải đem ra chỉ dạy cho người khác cũng được lợi ích như mình. Đừng nghĩ rằng chúng ta mang ơn thầy phải làm sao cho có nhiều tiền để cúng dường thầy, có chùa to để thầy an dưỡng v.v... Đó chỉ là hình thức không quan trọng bằng đem pháp vô sanh mà hướng dẫn chỉ dạy cho người. Qua hai câu này chúng ta nắm vững được phương cách đền ơn thầy và đền ơn Phật của người xuất gia cũng như tại gia tu giải thoát. Trộm có lời thơ tụng Thượng Sĩ mạn phép làm thơ tụng dâng lên thầy, tỏ chút lòng biết ơn giáo hóa của thầy. Nhờ sự giáo hóa của thầy mà Ngài được lợi ích. Thân tuy quê kệch ngụ nơi này Thượng Sĩ tự nhận mình là người quê mùa ở thôn hoang vắng. Mặc dù quê, nhưng phần đạo đức ơn nghĩa Ngài không dám lơ là; bốn ơn: ơn cha mẹ, ơn Thầy Tổ hay ơn Tam Bảo, ơn đàn-na thí chủ, ơn quốc gia xã hội, Ngài không dám lãng quên. Những người lãnh đạo quốc gia xã hội là ân nhân của người tu, vì họ có trách nhiệm giữ cho đất nước được thanh bình, để người tu được yên tu nên cũng là một trọng ân. Trong bốn trọng ân Thượng Sĩ chỉ mang có ba ân vì Ngài là cư sĩ không thọ ân đàn-na, nhưng Ngài luôn luôn không quên. Ý vụng sớm nhờ thêm ý khí Hai câu này thấm thía làm sao! Thượng Sĩ nói Thượng Sĩ dốt nát khờ khạo, nhờ Thiền sư Tiêu Dao thầy của Ngài giúp cho tăng trưởng ý chí để tiến đạo. Hôm qua tôi có nhắc, Tăng Ni tu ý chí phải vững mạnh, mới vượt qua những chướng ngại thử thách trên đường tu. Bởi vì quí vị tu lâu ngày mệt mỏi ý chí cùn lụt, nên tôi phải nhắc quí vị phấn phát nỗ lực mạnh lên. Đó là nhờ thầy nhắc nhở thúc đẩy làm cho mình tăng trưởng ý chí thêm vững mạnh. Tuy tâm Thượng Sĩ không còn những vọng niệm lăng xăng, những tình cảm nồng nhiệt bi lụy như người thế tục, nhưng đối với Thầy Tổ Ngài riêng giữ tấc lòng son. Người cư sĩ mà nói lên được điều này thật là hi hữu, đáng tôn quí. Ngài nói lên được cái đạo tình cao cả giữa thầy trò. Người xuất gia chúng ta nhiều khi tu lâu, lớn tuổi đạo có đệ tử, bận lo cho đệ tử nên quên mất bổn phận làm trò! Còn Ngài thì nguội lạnh với thế tình mà đạo tình vẫn một tấm lòng son sắt. Xuân về ngắm rỗng hoa đào nở Trước kia còn vọng niệm nên Xuân về hoa đào nở lòng Ngài cũng rộn rực. Giờ đây Xuân về hoa đào nở, lòng lặng rồi nên Ngài xem hoa một cách nhẹ nhàng, thấy hoa nở chỉ cười thôi chớ lòng không rộn rực như thuở nào. Gió thổi tiếng trúc chạm nhau cọt kẹt, chỉ nghe một cách hững hờ, không còn để tâm dính mắc như thuở trước. Tâm hồn của Ngài bây giờ rất nhẹ nhàng thảnh thơi, đối duyên xúc cảnh thấy nghe hay biết mà không bị dính mắc. Ngày trước đến nhà thăm hỏi hết Ngày trước đến chùa thăm hỏi từ thầy cho tới các chú điệu, bây giờ không muốn thăm hỏi từng người nữa, mà chỉ xin thầy dạo cho một cung đàn không dây. Nghĩa là bây giờ không muốn thăm hỏi từng người, mà chỉ xin thầy dạy cho giáo lý giải thoát không kẹt hai bên, không còn đối đãi, đó là dạo cung đàn không dây. Tạm qua thăm hỏi Cổ chùy thiền Cổ chùy thiền chỉ cho Thiền sư Tiêu Dao thầy của Thượng Sĩ. Nhà Thiền ví Thiền sư như cái chùy. Thuở xưa hay dùng từ ngữ mũi dùi ở trong đãy, mũi dùi đó gọi là cổ chùy, dù cho có đãy bao bọc mà mũi dùi luôn cứng và nhọn, nên lúc nào cũng ló đầu ra khỏi bọc, bao không nổi. Ý muốn nói rằng các vị đạo cao đức trọng dù có ai cố ý che đậy, đức độ các ngài vẫn tỏa sáng, không ai ngăn che giấu giếm nổi, giống như cây dùi để trong đãy mà vẫn ló đầu ra. Thượng Sĩ ví thầy mình như cái chùy xưa và mong thầy luôn luôn được khỏe mạnh sống lâu dài. Huệ Khả thân buồn, da tủy ký Thượng Sĩ nói mình giống như Tổ Huệ Khả “thân buồn da tủy ký” (buồn là thẹn, chữ thẹn không hợp vận nên phải dùng chữ buồn). Nghĩa là Tổ Huệ Khả được Tổ Bồ-đề-đạt-ma thọ ký: “Ngươi được phần tủy của ta.” Thượng Sĩ bấy giờ không được thọ ký như Tổ Huệ Khả, nên Ngài thấy buồn. Xưa khi Tổ Bồ-đề-đạt-ma sắp tịch bảo đệ tử trình sở ngộ. Ngài Đạo Phó thưa: - Theo chỗ thấy của con chẳng chấp văn tự chẳng lìa văn tự, đây là dụng của đạo. Tổ bảo: - Ngươi được phần da của ta. Theo ngài Đạo Phó, dụng của đạo là không dính hai bên, vậy mà Tổ bảo là chỉ thấy phần da. Chúng ta bây giờ chắc chỉ thấy được sợi lông của Tổ. Ni Tổng Trì ra thưa: - Nay chỗ hiểu của con, như Tổ A-nan thấy nước Phật A-súc, chỉ thấy một lần, không còn thấy lại. Tổ bảo: - Ngươi được phần thịt của ta. Đoạn này Ni Tổng Trì dẫn đức Phật dạy Tôn giả A-nan về cõi Phật A-súc, Tôn giả A-nan muốn thấy, nhưng không biết làm sao để thấy, đức Phật liền vận dụng thần thông cho Tôn giả A-nan thấy. Sau đó đức Phật thâu thần thông, Tôn giả A-nan hết thấy. Câu chuyện này ngầm ý nói người tu dụng công miên mật, tâm thanh tịnh, lúc nào đó hốt nhiên nhận ra Thể chân thật có sẵn nơi mình. Song, chỉ nhận ra một lần mà không hằng sống được, giống như Tôn giả A-nan thấy cõi Phật A-súc chỉ có một lần. Ở trước ngài Đạo Phó nói không chấp văn tự không lìa văn tự là việc bên ngoài, nên Tổ nói thấy da của ta. Ni Tổng Trì nói thấy cái chân thật của mình mà chỉ thấy có một lần, nên Tổ nói được phần thịt của ta, sâu hơn một chút. Ngài Đạo Dục ra thưa: - Bốn đại vốn không năm ấm chẳng có, chỗ thấy của con không một pháp có thể được. Tổ bảo: - Ngươi được phần xương của ta. Đến ngài Huệ Khả bước ra đảnh lễ Tổ, rồi lui lại đứng yên lặng. Tổ bảo: - Ngươi được phần tủy của ta. Tổ truyền y bát cho ngài Huệ Khả. Chỗ cuối cùng của đạo là chỗ không ngôn ngữ, vì còn ngôn ngữ là còn đối đãi, nên ngài Huệ Khả không nói, chỉ xá, lui ra đứng khoanh tay. Chỗ ngôn ngữ không diễn tả được là chỗ rốt ráo. Dễ quá! Nhưng, xin đừng bắt chước. Nếu hôm nào quí vị lên trình sở ngộ với tôi, tôi hỏi, quí vị xá lui đứng khoanh tay, sẽ bị tôi nạt: “Chú chưa được phần tủy đâu nghe!” Đó chỉ là hành động bắt chước, chớ chưa thật ngộ. Thời nay người ta hay bắt chước mà làm trật. Thượng Sĩ thẹn vì chưa được thọ ký như Tổ Huệ Khả. Nhớ ơn thầy, Thượng Sĩ mong ước thầy mình sống lâu như Thiền sư Triệu Châu sống đến một trăm hai mươi tuổi. Nên biết thế gian người có Phật Thượng Sĩ nhắc cho mọi người biết, ở thế gian tất cả chúng ta ai cũng có sẵn ông Phật, nên không lạ gì khi nghe Thiền sư nói trong lò lửa nở hoa sen. Lò lửa chỉ cho thân vô thường, hoa sen chỉ cho tánh Phật có sẵn nơi mỗi người. Ngọn lửa vô thường đốt cháy từng giờ từng phút. Tuy nhiên, trong thân vô thường này có tánh Phật chưa bao giờ bị vô thường chi phối, chẳng khác nào trong lò lửa cháy hừng hừng mà có hoa sen nở tươi thắm. Biết rõ như vậy chúng ta mới thấy được giá trị thật của người tu. Chúng ta tu là phải nhận ra cái chân thật của mình đang bị vùi lấp phủ che bởi những tướng vô thường sanh diệt. Cốt lõi của nhà Thiền, thầy dạy trò tu chủ yếu là phải nhận ra ông Phật của chính mình, chớ không phải tìm ông Phật ở nơi nào khác, Phật ở ngay trong cái thân vô thường giống như trong lò lửa nở hoa sen vậy. Trân trọng dâng lên lời tụng hứng Thượng Sĩ hứng làm bài tụng dâng lên cúng dường thầy và mong thầy không từ chối. Thượng Sĩ là một cư sĩ mà lòng quí kính của Ngài đối với bậc thầy hết sức thiết tha, biết rõ trọng trách của mình đối với bậc thầy, phải cúng dường như thế nào mới là đền ơn thầy, phải tu như thế nào để khỏi phụ lòng thầy. Đây là điều rất hiếm có ở nơi người cư sĩ. Thượng Sĩ còn biết rõ vì sao mình mang ơn thầy. Vì thầy là người dạy mình tu, giúp cho mình thêm ý chí. Sau cùng Thượng Sĩ khuyên mọi người tu, phải nhận ra nơi mình có sẵn tánh Phật như trong lò lửa có hoa sen. Dịch: CẢNH VẬT PHƯỚC ĐƯỜNG Phước Đường cảnh trí chính là đây Giảng: Thượng Sĩ làm thơ tả cảnh Tinh xá Phước Đường của Thiền sư Tiêu Dao thầy Ngài. Phước Đường cảnh trí chính là đây Ngài nói Tinh xá Phước Đường cảnh tịch mịch, nhưng nhờ ngọn gió thiền nên được mát mẻ. Dậu đổ tiêu sơ măng mọc ốm Đây tả cảnh vật quanh Tinh xá Phước Đường, nào là rào xiêu, nào là măng mọc không người cho phân, không người săn sóc nên nó gầy ốm. Từ cổng đi vào Tinh xá chỉ có một rặng tùng gầy, sân thì cỏ cây mọc chằng chịt. Cảnh vật Tinh xá Phước Đường thật vắng vẻ tiêu sơ, không có vẻ gì phồn thịnh. Tại sao vậy? - Vì: Chưa gặp thời lành Hiền Thánh hiện Sở dĩ cảnh vật Phước Đường tiêu sơ tịch mịch, vì chưa gặp thời nên Hiền Thánh có đó mà còn ẩn chưa hiện. Thú quí ẩn trong rừng tiêu sơ tịch mịch, ngầm chỉ cho Thiền sư Tiêu Dao đang ẩn ở chốn này chưa gặp thời mở mang truyền bá. Sớm muộn trời già khai Phật nhật Thượng Sĩ ước mơ thời cơ xoay chuyển mặt trời Phật bừng sáng. Chừng đó cảnh Phước Đường sẽ có đào nở hoa, lý có trái, đùa cợt với ánh sáng mùa Xuân. Thiền sư Tiêu Dao thầy Ngài, một ngày nào đó sẽ mở mang truyền bá Thiền, mọi người thấm nhuần lý Thiền trở thành người giác ngộ sáng suốt. Dịch: TẶNG PHÁP SƯ THUẦN NHẤT Pháp thân tịch diệt, Sắc thân còn Giảng: Pháp thân tịch diệt, Sắc thân còn Pháp thân thì tịch diệt lặng lẽ, Sắc thân do tứ đại duyên hợp tạm có và Hóa thân thì ý thức đang dạo nơi này nơi kia. Đó là ba thân: Pháp thân, Báo thân và Hóa thân. Ví chửa rong chơi Thiền Tổ vực Thượng Sĩ nói ngài Thuần Nhất là một vị Pháp sư đã từng học giáo lý ở các trường, hay trong những pháp hội giảng pháp. Tuy Ngài thông giáo lý, nhưng chưa thâm nhập lý Thiền, nên nói chửa rong chơi Thiền Tổ vực mà từng qua lại Pháp vương môn. Vô sanh đường Thánh lười tiến bước Lười đi trên đường vô sanh của Thánh Hiền, mải ở trong cõi trời cõi người sanh tới sanh lui. Hai câu này trớ trêu, ngầm ý nói mỉa mai Pháp sư Thuần Nhất. Tuy Pháp sư giảng kinh hay nhưng chưa sống được với Thể bất sanh bất diệt, đối với đường vô sanh không chịu tiến bước, thì bảo đảm sẽ đi mãi trong đường sanh tử luân hồi ở cõi trời cõi người. Nếu gặp tác gia bàn diệu chỉ Tác gia là chỉ cho những bậc tu hành đã ngộ đạo. Nếu gặp những vị ấy bàn diệu chỉ Thiền thì Pháp sư sẽ bí, giống như trên cầu Thiên Tân xem khỉ giỡn. Nghĩa là tâm còn lăng xăng chạy hết chỗ này tới chỗ kia chớ chưa im bặt. Ý này Thượng Sĩ dẫn từ câu chuyện: Một hôm có Đại Nhĩ Tam Tạng người Ấn Độ sang Trung Hoa nhằm đời Đường, xưng là đã được Ngũ thông, Vua muốn trắc nghiệm nên mời ông ra mắt Quốc sư Huệ Trung. Vừa đến thấy Quốc sư ông khoanh tay đứng hầu bên hữu. Quốc sư hỏi: - Ông được Tha tâm thông chăng? Tam Tạng đáp: - Chẳng dám. Quốc sư hỏi: - Ông nói xem hiện giờ Lão tăng đang ở chỗ nào? Tam Tạng đáp: - Hòa thượng là thầy của một nước sao lại đến Tây Xuyên xem đò đua. Quốc sư hỏi: - Ông nói xem hiện giờ Lão tăng đang ở chỗ nào? Tam Tạng đáp: - Hòa thượng là thầy một nước sao lại đứng trên cầu Thiên Tân xem khỉ giỡn. Lần thứ ba Sư cũng hỏi như trước, Tam Tạng lặng thinh không biết Ngài ở chỗ nào! Thượng Sĩ nói “Thiên Tân bến ấy dấy Hồ tôn” ngầm nhắc Pháp sư Thuần Nhất: ông thông hiểu giáo lý, mà chưa ngộ được lý Thiền thì tâm ông vẫn lăng xăng, chưa đến chỗ vô tâm. Bài thơ này tặng Pháp sư mà cũng muốn nhắc khéo người có học mà thiếu tu. Dịch: ĐÙA THIỀN SƯ TRÍ VIỄN XEM KINH GIẢI NGHĨA Mực mồi thơm ngát, bút làm cần Giảng: Mực mồi thơm ngát, bút làm cần Thượng Sĩ nói Thiền sư Trí Viễn dùng bút mực để giải thích kinh điển, giống như dùng thuyền câu đi trong biển giáo lý, thả mồi bằng mực, cần bằng bút để giải thích giáo lý của Phật. Khen ngợi Viễn Công từng câu thả Thượng Sĩ khen Viễn Công từng thả câu, câu rồng to ở dưới biển. Nhưng mà ngày bắt được rồng còn xa thăm thẳm, đến năm con lừa mới bắt được. Trong mười hai con giáp, không có con giáp nào là lừa cả. Như vậy, Trí Viễn câu suốt đời cũng không bắt được rồng. Ý Thượng Sĩ nói Trí Viễn thông hiểu kinh Phật, dùng bút mực để giải thích giáo nghĩa. Tuy vậy, suốt đời vẫn không thấu suốt lý Thiền thâm sâu, giống như người muốn thả mồi câu rồng to ở dưới biển, suốt đời vẫn không câu được. Dịch: ĐIỆU TIÊN SƯ Một khúc vô sanh hát vừa im Giảng: “Điệu” là truy điệu, tức là nói lên công hạnh của người đã mất. Điệu Tiên Sư là nhắc đến công hạnh của thầy sau khi tịch. Một khúc vô sanh hát vừa im. Thầy không còn hát khúc vô sanh, tức là thầy đã tịch rồi, không còn giáo hóa nữa. Vậy thầy đi đâu? Vác ngang cây gậy về cố hương. Câu này Thượng Sĩ dẫn câu chuyện đi ở tự tại, của một vị đệ tử tông Vân Môn là Am chủ Tường ở Liên Hoa Phong. Khi sắp tịch Ngài cầm cây gậy để ngang vai nói: “Vai vác cây gậy tức lật chẳng đoái đến người, đi thẳng vào ngàn đảnh núi muôn đảnh núi.” Nói xong Ngài tịch. Người xưa ra đi rất là tự tại, muốn tịch thì tịch, ngồi nằm đi đứng gì cũng được. Bây giờ hỏi thầy đi đâu? Trả lời: - Thầy cũng giống như Am chủ Tường vác cây gậy đi qua ngàn núi muôn núi, chớ không dừng ở nơi nào. Đầu trên qua khỏi nơi nào có “Nơi nào có” nguyên chữ Hán là “hà hữu hương”, nghĩa là quê hương không nơi chốn. Ở đoạn trước Ngài nói chỗ cuối cùng là đạt đạo hay giải thoát sanh tử. Chỗ đó là chỗ tha hồ cỡi ngược con trâu đất, chỗ đó là chỗ rốt ráo. Thầy của Thượng Sĩ đi về chỗ tột cùng của đạo, Ngài có diệu dụng không lường nổi. Đó là lời tán thán của Thượng Sĩ đối với Thiền sư Phước Đường thầy Ngài. Dịch: KHUYÊN ĐỜI VÀO ĐẠO Thời tiết xoay vần Xuân lại Thu Giảng: Khuyên đời vào đạo là khuyên người đời nên bước vào đường đạo để tu hành, chớ để qua luống uổng một đời. Thời tiết xoay vần Xuân lại Thu Thời tiết xoay vần hết Xuân rồi tới Hạ, hết Thu rồi tới Đông. Thời tiết cứ đi qua đều đều, con người thì từ đầu xanh trở thành đầu bạc, vì nó biến chuyển theo sự xoay vần của năm tháng, chúng ta nhìn lại đầu của mình mới năm nào tóc còn đen mướt, bây giờ đã hoa râm bạc trắng. Như vậy thời tiết tháng năm luôn luôn xoay vần biến chuyển, kiếp người cũng chịu ảnh hưởng của sự biến chuyển vô thường ấy, nên thân từ trẻ biến thành già chớ không trẻ mãi. Đa số chúng ta đều có bệnh mâu thuẫn, mong cho ngày tháng qua mau mà không muốn mình già. Công nhân đi làm sở thì muốn cho mau tới cuối tháng để lãnh lương, trông mau tới dịp hè để được nghỉ, nhưng quên rằng mỗi lần lãnh lương thì cái đầu mình sẽ điểm thêm vài sợi tóc bạc, lãnh lương nhiều chừng nào thì đầu mình bạc nhiều chừng nấy. Muốn cho ngày tháng qua nhanh mà muốn thân mình trẻ mãi, vậy có mâu thuẫn không? Muốn ngày tháng qua nhanh thì phải chấp nhận thân mình mau già, đầu mình mau bạc! Giàu sang nhìn lại một trường mộng Biết bao kẻ phú quí sống đời sang cả, nhưng trải qua những cuộc bể dâu thăng trầm, giờ đây còn đâu, còn chăng chỉ là một giấc mộng. Vì vậy mà “năm tháng ôm suông muôn hộc sầu”. Mỗi năm qua mỗi tháng qua, nào buồn thương giận ghét dồn đầy cả bụng. Sống càng nhiều tháng nhiều năm chừng nào thì phiền não chồng chất nhiều chừng nấy, cho nên nói muôn hộc sầu. Chẳng biết người tu có chất thêm những hộc sầu không, chớ người đời khó tránh. Bởi vì nay gặp việc bất như ý này, mai gặp việc bất như ý kia, cứ ôm ấp mà không chịu buông xả, nên buồn thương giận ghét tăng thêm thành muôn hộc. Như vậy cuộc đời như giấc mộng mà lòng thì chất chứa cả muôn hộc phiền não, rất đáng thương. Nẻo khổ luân hồi xe chuyển bánh Nếu ôm ấp phiền não thì nhất định sẽ trôi lăn vào nẻo khổ luân hồi, vì động cơ đưa con người tái sanh trong lục đạo là những niệm phiền não lăng xăng. Phiền não chứa đầy cả kho cả hộc thì nhất định sẽ lôi đi trong luân hồi không thể tránh. Thế mà người đời không biết dừng, cứ yêu thương, giận ghét v.v... Nếu yêu thương giận ghét thì phải chìm nổi trong dòng sông ái dục. Vì nhân sanh ra phiền não đều từ yêu ghét; nếu còn ôm lòng yêu ghét thì sự chìm nổi ở biển khổ không bao giờ hết, giống như chùm bọt nước tụ tan mãi trên dòng sông trên mặt biển không biết bao giờ cùng. Gặp trường chẳng chịu sờ lên mũi Gặp cơ hội tốt mà chúng ta không chịu nắm bắt, dù cho có duyên lành muôn kiếp cũng chỉ có thế thôi, không tiến được. Ở đây tôi nhắc quí vị, được cơ hội nghe kinh học đạo, mà không chịu nắm ngay cơ hội đó để tiến tu, cứ thả trôi cũng như gặp trường mà chẳng chịu sờ lên mũi. Nhà Thiền thường nói lên lẽ thật: lỗ mũi lúc nào cũng ở trước mặt mình không bao giờ thiếu vắng, hơi thở là sanh mạng của chính mình. Lỗ mũi là chỗ phát ra hơi thở, cho nên dụ lỗ mũi là sanh mạng sẵn ở trước mặt mình. Vậy mà chúng ta không nhớ cái mũi và hơi thở, cứ mải lo chuyện này chuyện kia, mà quên mất cái ở trước mặt mình. Cũng vậy, Tâm thể chân thật sẵn có nơi mỗi người chúng ta giống như cái lỗ mũi lúc nào cũng ở trước mặt. Bây giờ có cơ hội tốt nghe kinh học đạo tu để trở về với cái chân thật, thế mà chúng ta lơ là bỏ qua thì “muôn kiếp duyên lành chỉ thế thôi”. Vì gặp cơ hội tốt mà không chụp ngay cái cơ hội đó, để tiến lên thì dù cho có duyên lành muôn đời vẫn không được lợi ích. Hôm trước tôi đi ra nước ngoài gặp quí Phật tử họ than: “Hồi ở trong nước chúng con thiếu duyên không gặp Thầy, không trực tiếp nghe Thầy giảng để tu. Bây giờ ra nước ngoài nghe những lời Thầy giảng trong băng, chúng con hối tiếc sao lúc đó mình không đi tìm Thầy để học đạo, bây giờ mới học quá muộn màng...” Quí vị ở đây đủ duyên được quí thầy giảng dạy hướng dẫn trực tiếp cho tu học thì đừng bỏ qua cơ hội tốt, sau tìm lại rất là khó! Đây là bài thơ nhắc nhở người còn mắc kẹt ở ngoài đời, phải mau bước vào con đường đạo để tu học chớ đừng lơ là, duyên lành qua mất, muôn kiếp không được lợi ích. Mục Lục
|
Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục Giảng Giải (1996)
|
Thi Ca 11