Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục Giảng Giải (1996)
Đối Cơ 1 (Trả Lời Người Hỏi)
Dịch: Một hôm Thầy (Tuệ Trung) rảnh rang, môn đệ đứng hầu. Khi đó có vị Tăng hỏi: - Bạch Thượng Sĩ, tôi vì việc lớn sanh tử, vô thường nhanh chóng, chưa biết thân này, sanh từ đâu lại, sau khi chết đi về đâu? Thầy đáp: Giữa trời dù có đôi vành chuyển Lại hỏi: - Thế nào là đạo? Thầy đáp: - Đạo không ở trong câu hỏi, câu hỏi không ở trong đạo. Lại hỏi: - Cổ đức nói “không tâm là đạo” phải chăng? Thầy đáp: - Không tâm chẳng phải đạo, không đạo cũng không tâm. Thầy tiếp: - Nếu người bảo “không tâm là đạo” thì tất cả cỏ cây đều là đạo sao? Nếu lại nói “không tâm chẳng phải đạo” thì đâu cần nói có, không. Nghe tôi nói kệ: Vốn không tâm không đạo Vị Tăng bỗng nhiên nhận ra ý chỉ, lễ bái lui ra. Giảng: Hôm trước tôi có nói, không phải chỉ có giới cư sĩ đến học đạo với Thượng Sĩ mà có cả giới xuất gia tới học đạo với Ngài. Ở đây, người đứng ra thưa hỏi là một vị Tăng. Tăng hỏi: - Bạch Thượng Sĩ, tôi vì việc lớn sanh tử, vô thường nhanh chóng, chưa biết thân này, sanh từ đâu lại, sau khi chết đi về đâu? Câu hỏi này là câu hỏi căn bản của người tu. Đi tu là vì chẳng biết thân này từ đâu lại, và sau khi chết đi về đâu? Ngài đáp: Giữa trời dù có đôi vành chuyển Tăng thắc mắc việc sanh tử; từ đâu sanh ra và chết đi về đâu? Đây là vấn đề thiết yếu trọng đại của kiếp sống con người, thế mà Ngài đáp quá đơn giản. Đôi vành chuyển là chỉ cho mặt trời mặt trăng mọc lặn trong bầu trời. Mặt trăng mặt trời mỗi ngày mọc rồi lặn trong hư không, sánh với bầu trời thênh thang chẳng có nghĩa lý gì. Và, hòn bọt nổi lên rồi tan đi trên mặt biển cũng chẳng có quan trọng gì đối với biển cả mênh mông. Ý Ngài nói chúng ta tu, khi nhận ra nơi mình có Tâm thể bất sanh bất diệt rồi thì, thấy sự sống chết ở thế gian này chẳng có nghĩa lý gì hết. Thế thì bận gì mà hỏi sanh từ đâu lại chết rồi đi về đâu? Cũng giống như mặt trời mặt trăng mọc lặn trong bầu trời thênh thang và hòn bọt nổi tan trong biển cả chẳng có nghĩa lý gì. Để thấy, người tu khi nhận ra Bản thể chân thật bất sanh bất diệt rồi, thấy tất cả tướng sanh diệt ở thế gian chỉ là trò chơi chẳng có gì bận tâm. Sở dĩ bận tâm với sanh tử là vì chúng ta còn thấy thân này thật, thấy thân này quan trọng. Hai câu này lấy ý từ hai câu thơ của người xưa: “Nhật nguyệt chuyển song cốc, cổ kim đồng nhất khâu.” Nghĩa là mặt trời mặt trăng xoay vần như hai bánh xe, xưa nay ai rồi cũng tới gò mả, tức là ai rồi cũng chết. Lại hỏi: - Thế nào là đạo? Thầy đáp: - Đạo không ở trong câu hỏi, câu hỏi không ở trong đạo. Tăng thắc mắc đạo là gì, đạo như thế nào? Thượng Sĩ đáp: Đạo không ở trong câu hỏi, câu hỏi không ở trong đạo. Bởi vì khởi niệm tìm hiểu, khởi niệm hỏi là vọng động, đạo không hiện, nên nói đạo không ở trong câu hỏi. Và, câu hỏi là tướng sanh diệt cho nên không ở trong đạo, vì đạo là Thể bất sanh bất diệt. Lại hỏi: - Cổ đức nói “không tâm là đạo”, phải chăng? Thầy đáp: - Không tâm chẳng phải đạo, không đạo cũng không tâm. Chúng ta thường nghe nói “không tâm là đạo”, tại sao ở đây Thượng Sĩ phủ nhận, nói không tâm chẳng phải đạo? Vì tâm và đạo là hai từ ngữ đối đãi dựng lập, nó chỉ là giả danh không thật có. Thể chân thật tự nó không có tên thì nói gì là đạo nói gì là tâm? Cho nên đứng về mặt thể thì không đạo cũng không tâm. Thượng Sĩ đáp như thế sợ vị Tăng ấy còn nghi nên nói tiếp: - Nếu người bảo “không tâm là đạo”, thì tất cả cỏ cây đều là đạo sao? Cỏ cây là vật vô tri, nếu nói không tâm là đạo thì cỏ cây vô tri là đạo sao? Không đúng. Nếu lại nói “không tâm chẳng phải đạo” thì đâu cần nói có, không. Nếu nói có nói không là còn thấy hai bên, là đã ở trong chỗ có tâm rồi. Nghe tôi nói kệ: Vốn không tâm không đạo Thể chân thật tự nó không có tướng mạo, không có danh tự. Đã không tướng mạo danh tự thì nói tâm hay nói đạo, cũng chỉ là lời nói hư dối không thật, nên nói có đạo chẳng không tâm, vì thấy có đạo liền thấy có tâm, không thể nói không tâm được. Tâm hay đạo vốn rỗng lặng, nó không có tên và tướng nhất định để chúng ta có thể nhìn thấy hay sờ mó, thì làm sao theo đuổi tìm kiếm? Thượng Sĩ nói tới đây thì vị Tăng khế hội ý chỉ của Ngài dạy, nên lễ bái. Dịch: Vị khác hỏi: - Bạch Thượng Sĩ, thế nào là đại ý Phật pháp? Thầy đáp: Đầu trạnh vỗ sóng mắt sâu bọ Lại nói: - Thế ấy thì học nhân được chỗ vào. Thầy nói: Gãi ngứa không phải người khác ngứa Lại hỏi: - Thế nào là Pháp thân thanh tịnh? Thầy đáp: Ra vào trong nước đái trâu Lại nói: - Thế ấy thì chứng nhập đi vậy. Thầy bảo: - Không niệm nhơ nhớp là thân thanh tịnh. Nghe tôi nói kệ: Xưa nay không dơ sạch Giảng: Tăng muốn biết đại ý của Phật pháp, nên đến hỏi Thượng Sĩ, Thượng Sĩ trả lời bằng hai câu thơ rất thi vị. Câu này ngày xưa ngài Lâm Tế hỏi Tổ Hoàng Bá bị Tổ cho ăn gậy. Ở đây, Thượng Sĩ hiền quá không cho ăn gậy, mà lại nói thơ nghe như chơi. Điều này cho chúng ta thấy thiền Trung Hoa quá táo bạo, còn thiền Việt Nam thì thi vị hiền hòa. Con trạnh là loại rùa biển, đầu mình to mà vỗ sóng trong mắt con sâu nhỏ. Cánh bằng là chỉ con chim lớn, thường gọi là đại bàng, cánh to mà lướt gió trong ruột con kiến riện. Thiền tăng muốn hiểu về đại ý Phật pháp đến hỏi thì bị Thiền sư Trung Hoa đập một gậy, không hiểu gì hết. Ở đây thì Thượng Sĩ nói hai câu thơ nghe qua cũng chẳng biết nói gì! Tuy vậy, trọng tâm trả lời không hai, mà cách sử dụng phương tiện của Thiền sư Trung Hoa và Thiền sư Việt Nam có khác. Cả hai đều nhằm đưa người học đạo đến chỗ dứt nghĩ bàn. Câu hỏi này xưa kia ngài Lâm Tế đem hỏi Tổ Hoàng Bá bị ăn đòn, nên từ giã tìm đến Thiền sư Đại Ngu. Thiền sư Đại Ngu hỏi: - Ông từ đâu đến? - Con ở Hoàng Bá đến. - Hoàng Bá dạy ông lời gì? - Con ba phen hỏi đại ý Phật pháp, ba lần bị đánh. Chẳng biết con có lỗi hay không lỗi. - Hoàng Bá với tâm lão bà đã vì ngươi chỉ chỗ tột khổ, lại đến trong ấy hỏi có lỗi không lỗi. Ngay câu ấy, ngài Lâm Tế đại ngộ. Ở đây Thượng Sĩ đọc thơ diễn tả con rùa biển to mà ở trong mắt con sâu, chim đại bàng lớn mà vỗ cánh trong ruột con kiến riện. Diễn tả ngược ngạo như vậy cốt không cho người học đạo khởi tâm chấp trước. Vị Tăng lại nói: Thế ấy thì học nhân được chỗ vào. Như vậy là con vào được rồi. Thượng Sĩ bảo: Gãi ngứa không phải người khác ngứa Tức là mình ngứa chỗ nào, mình gãi mới đúng chỗ mình ngứa, người khác biết đâu mà gãi cho mình. Cũng như mình đói mình ăn mình mới no, người khác không ăn thế cho mình được. Ý nói thấy được chỗ vào đó là ông thấy và ông sống chớ không ai thế cho ông được việc này. Lại hỏi: Thế nào là Pháp thân thanh tịnh? Thượng Sĩ đáp: Ra vào trong nước đái trâu Chỗ này trong kinh Pháp Bảo Đàn Lục Tổ có dạy ba mươi sáu cách trả lời trong pháp đối đãi. Thí dụ hỏi: Thế nào là trắng? Đáp: Do đen mà có trắng. Hỏi: Thế nào là tối? Đáp: Do sáng mà có tối. Dùng sáng trả lời tối, dùng đen trả lời trắng. Vì tất cả pháp thế gian nằm trong pháp đối đãi không thật, pháp này có là do đối đãi với pháp kia mà lập ra. Nếu không có tối thì có lập sáng không? Bây giờ, nếu có ai hỏi: thế nào là sáng, chúng ta trả lời sáng là thấy mọi vật trước mắt, thấy đường đi... Diễn tả như thế để cho người ta hiểu, nhưng không chắc là hiểu đúng. Vì sự thật nếu không có tối thì làm sao biết sáng? Từ ngữ “sáng” có là do từ ngữ “tối” mà lập. Sở dĩ nói cái này đen là do đối với cái kia trắng, do trắng mà nói đen, nếu tất cả sắc cùng một màu thì không còn nói đen. Như vậy, có trắng là do có đen, có tối là do có sáng, cho nên lấy tối mà đáp sáng, lấy đen mà đáp trắng. Ở đây hỏi Pháp thân thanh tịnh là thế nào, Ngài lấy nước đái trâu đống phân ngựa là đồ nhơ nhớp để đáp, đó là cái thuật đáp trung thành với lời dạy của Lục Tổ. Hiểu như thế mới hiểu được ý nghĩa của câu đáp, bằng không thì thấy thô tháo kỳ quái. Lại nói: - Thế ấy thì chứng nhập vậy. Thầy bảo: - Không niệm nhơ nhớp là thân thanh tịnh. Còn thấy nhơ nhớp là còn chấp hai bên đối đãi, nếu hết niệm nhơ nhớp thì ngay đó là Pháp thân thanh tịnh. Nghe tôi nói kệ: Xưa nay không dơ sạch Thượng Sĩ nói ngôn ngữ chúng ta lập ra, đây là dơ kia là sạch là lập trong đối đãi, không thật, nên nói là tên suông. Pháp thân là Thể chân thật vượt khỏi pháp đối đãi, nên không có gì ngăn ngại. Đã không ngăn ngại thì nói thanh tịnh, dơ bẩn làm gì? Thế nên, muốn thấy được Pháp thân chân thật thì phải vượt ra ngoài cái thấy hai bên đối đãi nhơ sạch. Mục Lục
|
Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục Giảng Giải (1996)
|
Đối Cơ 1 (Trả Lời Người Hỏi)