Thiền Tông Việt Nam
Tông Môn Cảnh Huấn 2
31. Pháp ngữ dạy chúng thiền viện Linh Chiếu

Ngày 11/12/ Tân Mùi - 15/01/1992

Hôm nay có buổi họp chúng bất thường là để cử Ban Lãnh đạo thiền viện, sau đó Ban Lãnh đạo sẽ cử lại Ban Chức sự. Bởi trước kia Thầy là Viện chủ các thiền viện, nên tuy có cử Trụ trì, Tri sự v.v... để lãnh đạo tại mỗi viện, nhưng mọi việc đều dưới sự điều hành chung của Thầy. Ban Lãnh đạo thì chỉ có trách nhiệm điều hành những công tác thường, còn những việc có tính cách quan trọng, từ nội bộ cho đến bên ngoài, đủ thiếu, nên hư… phần lớn là Thầy chịu trách nhiệm. Do đó trách nhiệm của Trụ trì khi xưa nhẹ nhàng, không có gì đáng kể. Ngày nay Thầy nghỉ không làm viện chủ nữa, mà giao trách nhiệm cho mỗi thiền viện tự điều hành lấy, nên phải có trách nhiệm nặng hơn trước.

Trước hết Thầy đọc qua phần tổ chức của Ban Lãnh đạo trong nội quy, cho toàn chúng nghe hiểu đường lối tổ chức của thiền viện hiện nay, rồi sẽ cử Ban Lãnh đạo sau. 

Ban Lãnh đạo thiền viện, muốn thiền viện được an ổn, bền lâu và mãi mãi là nơi chung của tập thể thiền sinh, nên cần tổ chức Ban Lãnh đạo để duy trì. Thầy dùng chữ nơi chung của tập thể thiền sinh, bởi phần nhiều các chùa khi có Trụ trì rồi thì chùa đó coi như của vị Trụ trì, dần dần thành của tư. Thầy Trụ trì muốn làm gì thì làm, có bao nhiêu tiền tùy ý tiêu xài không kiểm soát. Ở đây là thiền viện, tất cả tài sản là của công chứ không phải của tư, mà đã là việc công thì phải đôi ba người cùng gánh vác trách nhiệm chung chứ không phải một cá nhân. Vì vậy thiền viện cần giữ tinh thần tập thể, nên Ban Lãnh đạo không phải một người.

Ban Lãnh đạo gồm có ba vị: Trụ trì, Phó Trụ trì và Thủ bổn. Ba vị này chịu trách nhiệm hoàn toàn về những việc làm cho thiền viện thành công hay thất bại, dạy chúng nên hay hư... tất cả việc từ nay là trách nhiệm của Ban Lãnh đạo, Thầy không còn trách nhiệm. Trước kia thì thành bại, nên hư... Thầy chịu, các viện ni phần lớn cũng do Thầy sắp đặt, bây giờ thì không có nữa. 

Tinh thân của thiền viện là vừa học vừa tu, hai mặt này không tách rời nhau. Có học mới hiểu đường lối tu, nếu chỉ tu mà không học không khéo trở thành tu mù, vì vậy những thiền sinh mới vào hoặc chưa thông suốt đều phải học. Do đó bên cạnh Ban Lãnh đạo thì có Ban Giáo thọ giúp việc giáo dục, để cùng dạy dỗ các thiền sinh.

Trước đây, Ban Giáo thọ không chỉ ở trong thiền mà còn mời giáo thọ ở các thiền viện khác tới dạy phụ. Nhưng giờ đây Thầy hạn chế lại, ở viện nào thì dạy theo viện nấy, cho nên Ban Giáo thọ chỉ nằm gọn trong thiền viện này thôi.

I. Chịu trách nhiệm điều hành thiền viện:

A. Ban Lãnh đạo: 

1. Trụ trì: Trách nhiệm của Trụ trì là tối hệ trọng, gồm cả đối nội và đối ngoại. 

a. Phần đối nội: 

- Chịu trách nhiệm về sự tu học và đức hạnh của thiền sinh, đồng thời giải quyết mọi việc phát sinh trong nội bộ. Thâu và xuất chúng đều nên tham khảo ý kiến của Phó Trụ trì và Thủ bổn.

Như vậy mục thứ nhất của phần đối nội là sự tu sự học và đức hạnh, tức hạnh kiểm của thiền sinh, mọi việc tốt xấu, đủ thiếu... Trụ trì đều phải lo hết.

Về sự học, thấy sự học của chúng không đủ thì phải nhắc Ban Giáo thọ dạy cho đủ. Từ nay Ban giáo thọ là do Trụ trì mời chứ không phải như trước kia do Thầy sắp đặt. Vậy nên phần sau Thầy sẽ giới thiệu các nhân sự có khả năng, rồi Trụ trì chịu trách nhiệm mời làm việc.

Về sự tu, thấy chúng thời khóa lôi thôi thì phải thúc đẩy cho chúng tinh tấn tu hành. Về đức hạnh, xét người nào không xứng đáng tư cách của một thiền sinh thì phải rầy quở, người có hạnh kiểm tốt thì khuyến khích. Kế là giải quyết những chuyện phát sinh trong nội bộ, như huynh đệ bất hòa hay có những vấn đề tranh cãi thì phải giải quyết cho phù hợp.

Về việc thâu chúng và xuất chúng. Muốn thâu thêm những người mới xin vô thiền viện tu, thì ba vị trong Ban Lãnh đạo cùng tham khảo ý kiến với nhau, phải hiểu và thông cảm thì việc làm mới vui hòa. Bởi vì Thủ bổn giữ tiền, nếu không có tiền mà thâu thêm người vào thì làm sao nuôi nổi. Vì vậy muốn thâu người vào thì ba vị phải bàn với nhau rồi mới thâu.

Việc xuất chúng, nếu xét thấy vị nào không giữ đúng nội quy của thiền viện, hoặc vi phạm được nhắc nhở mà không sửa đổi thì ba vị trong Ban Lãnh đạo phải tham khảo ý kiến kỹ càng mới giải quyết, không nên vội vàng cũng không để một người tùy ý giải quyết. Tránh trường hợp người này chịu người kia không chịu, rồi gây ra bất hòa trong nội bộ, không hay. 

- Chịu trách nhiệm về kinh tế của thiền viện 

Mọi sự đói no, đủ thiếu v.v... trong chúng, cả Ban Lãnh đạo đều phải lo, nhưng phần lớn là Trụ trì gánh vác trọng trách. Ngày xưa thiền viện đói no thì chạy qua Thầy, bây giờ thì những việc đó Trụ trì phải tự chịu trách nhiệm. 

- Chịu trách nhiệm chủ lễ và mọi tổ chức đại lễ tại thiền viện. 

Trụ trì làm chủ lễ trong các buổi lễ lớn của của thiền viện.

- Chịu trách nhiệm mời Ban Giáo thọ dạy chúng, hoặc mời giảng sư giảng những ngày chủ nhật.

Ngày chủ nhật hoặc thỉnh thoảng có các đoàn Phật tử từ những nơi khác tới muốn nghe giáo pháp. Trụ trì xét thấy người nào có khả năng thì mời ra nói pháp cho Phật tử nghe. 

- Chịu trách nhiệm quy y cho các Phật tử. 

Ngày xưa, thời thầy còn ở Ấn Quang. Phật tử đi chùa phát tâm quy y thì hòa thượng Giám đốc là người chịu trách nhiệm quy y, cho nên tất cả Phật tử là Phật tử chung của chùa Ấn Quang, chứ không phải Phật tử riêng của ai. Sau này khi Hòa thượng tịch rồi, Phật tử quý mến muốn làm đệ tử thầy nào thì xin quy y làm đệ tử thầy đó, thành ra một chùa mà có từng nhóm đệ tử riêng, dẫn đến tình trạng chia rẽ trong giới Phật tử. 

Nhằm tránh trường hợp ấy, nên những người muốn phát tâm quy y tại thiền viện, thì Trụ trì đại diện cho ban lãnh chúng, đứng ra làm lễ quy y. Như vậy tất cả đều là đệ tử chung của thiền viện, chú không phải đệ tử riêng ai.

b. Phần đối ngoại:

- Chịu trách nhiệm về pháp lý và giao thiệp với chính quyền. 

Những việc liên quan đến pháp lý của chính quyền, như: khai báo cư trú, lý lịch hay giấy tờ của chúng trong các việc cần thiết khác.

- Chịu trách nhiệm về pháp lý và công tác với Giáo hội. 

Giáo hội đặt để vị nào đại điện cho thiền viện làm Phật sự, hoặc liên quan đến những giấy tờ hợp pháp của chúng.

- Chịu trách nhiệm tiếp xúc, giải quyết những nghi lễ và tín ngưỡng của Phật tử. 

Những Phật tử hỗ trợ lo lắng cho các thiền viện, nếu trong gia đình có cha mẹ hoặc người thân bị bệnh hoạn hay chết, cần chư Tăng Ni đến tụng cầu nguyện. Trụ trì phải sắp đặt cử người, đi đến để trợ giúp về mặt tín ngưỡng cũng như động viên tinh thần cho Phật tử.

2. Phó Trụ trì: Chịu trách nhiệm khi Trụ trì vắng mặt, do bệnh hoặc có duyên sự đi đâu thì Phó Trụ trì phải làm tất cả việc thay thế trách nhiệm của Trụ trì.

Trong phần trách nhiệm Trụ trì như trên, nhưng nếu thấy những việc mà Phó Trụ trì có khả năng hoặc sở trường thì Trụ trì có thể yêu cầu, để Phó Trụ trì giữ trách nhiệm đặc trách về phần đó, phụ giúp thường xuyên cho Trụ trì.

3. Thủ bổn: Chịu trách nhiệm gìn giữ tài chính của thiền viện. Tất cả mọi thu, chi trong chúng đều có sổ sách phân minh. Mỗi tháng phải báo cáo tài chính cho Trụ trì biết. Chi số tiền thường nhật cho Tri khố, Tri sự, Tri khách... Khi có việc cần chỉ một số tiền đáng kể bất thường thì nên hỏi ý kiến Trụ trì.

Như vậy Thủ bổn có trách nhiệm giữ tiền cho chúng, nhưng thu xuất phải có sổ sách rõ ràng. Tháng này thu vô bao nhiêu, xuất ra bao nhiêu. Mỗi tháng chi tiêu cho công việc thường ngày, như Thi khố hoặc Tri sự, Tri khách cần mua sắm gì lặt vặt thì Thủ bổn tự sắp xếp, khỏi phải hỏi Trụ trì.

Khi có việc bất thường cần chi một số tiền lớn thì phải có sự đồng ý của Trụ trì, chứ không nên nắm tài chính rồi tự ý muốn làm gì thì làm, vô tình trở thành thao túng, không tốt. Mỗi tháng Thủ bổn phải báo cáo số tiền thu chi, còn lại là bao nhiêu để cho Trụ trì biết mà lo liệu. Vì trách nhiệm còn mất, đủ thiếu là Trụ trì chịu, nếu không cho biết thì tất nhiên làm sao hiểu để lo. 

Thầy đã kể qua trách nhiệm của Ban Lãnh đạo rồi, bây giờ không phải chúng bầu mà Thầy chỉ định. Vì chúng không biết vị nào phù hợp, nên ở đây với tư cách là Thầy, bắt buộc đệ tử phải lãnh trách nhiệm Thầy giao để thay thế cho Thầy.

Ban Lãnh đạo thiền viện Linh Chiếu: 

- Trụ trì: Như Hạnh. 

- Phó Trụ trì: Như Tịnh. 

- Thủ bổn: Như Thành.

Hệ thống làm việc của thiền viện, dưới Ban Lãnh đạo thì có Ban Giáo thọ và Ban Chức sự. 

B. Ban Giáo thọ gồm có:

- Ngoài ba vị có trách nhiệm trong Ban Lãnh đạo là Như Hạnh, Như Tịnh, Như Thành thì mời thêm Như Tâm - thị giả Thầy, cùng chịu trách nhiệm dạy chúng học. 

- Bổ sung ba vị là Hạnh Diệu, Hạnh Nguyên, Hạnh Chiếu. 

Thầy đề nghị mời những vị này vào trong Ban Giáo thọ, để tập cho các huynh đệ nhỏ có trách nhiệm phụ giúp người lớn. Nếu không sắp đặt như thế, mai kia người lớn đau yếu thì không có người để thay thế.

Ban Giáo thọ được Thầy đề cử, không phải hoàn toàn là người mẫu mực hết. Trong đó những vị lớn đã nghiêm chỉnh đàng hoàng, cũng có những đứa nhỏ chưa được nghiêm chỉnh. Tuy nhiên, Thầy có cái nhìn khác. Thầy thấy người nào dù tư cách chưa được mẫu mực, nhưng khi có trách nhiệm rồi thì phải tự thúc liễm mình để lời nói và việc làm được đi đôi nhau, nhờ vậy mà sự tu sẽ tiến hơn. Thầy tin rằng, lãnh trách nhiệm rồi thì mỗi người đều cố gắng.

Những vị còn nhỏ, đương nhiên là có những việc chưa được thông suốt, khi nào có gì lúng túng, nếu có mặt Thầy ở đây thì hỏi Thầy, còn không có mặt Thầy thì hỏi những vị đi trước, đã thấy biết hơn mình hướng dẫn thêm. 

Đó là phần thầy giới thiệu, còn chuyện mời là của Trụ trì.

C. Ban Chức sự: 

Ban Chức sự do Ban Lãnh đạo chỉ định, chịu trách nhiệm chung lo công tác cho thiền viện, gồm có:

1. Tri sự: Điều hành chúng làm mọi công tác trong thiền viện theo sự sắp đặt của Trụ trì. 

Lúc trước Tri sự làm công tác gì phần lớn đều do Thầy chỉ đạo, rồi Tri sự phân công cho chúng làm, còn bây giờ thì do Trụ trì chỉ định, dưới Tri sự làm. Vì vậy, đổi lại Tri sự là Ban Chức sự ở dưới chứ không phải Ban Lãnh đạo ở trên. 

2. Tri khách: Lo việc tiếp đãi khách Tăng Ni, cư sĩ, chính quyền.

3. Tri khố: Quản lý kho nhà trù, sắp đặt trị nhật lo việc ẩm thực cho chúng. 

Lưu ý, ở đây dùng chữ quản lý kho nhà trù, tức là những thực phẩm thức ăn của nhà trù, thuộc về lĩnh vực ăn uống, chứ không phải nhà kho cất đồ đạc ở ngoài. Thí dụ khoai, bí v.v... cái nào nhiều cái nào ít, Tri khố phải biết để sắp trị nhật dùng cái nào trước cái nào sau cho phù hợp. Vì trị nhật chỉ có mấy ngày nên thức ăn nào sử dụng gấp, hay cần để dành lại thì không biết rõ. Do đó phải có Tri khố để quản lý thực phẩm và sắp đặt cho ổn định.

Trước kia cử Tổng khố, rồi thêm Tri khố. Bây giờ Thầy đơn giản lại, không cử Tổng khố mà chỉ ccó Tri khố thôi.

4. Tri viên: Trồng trọt, chăm sóc cây cối tron vườn thiền viện.

5. Tri điền: Chăm lo gieo cấy lúa mạ cho kịp thời vụ để thu hoạch được kết quả tốt. 

Xưa gọi là Trưởng ruộng, giờ Thầy đổi lại gọi là Tri điền. Vì các ban ở trên đa phần đặt theo chữ Hán, chỉ vài ban gọi theo chữ Việt nghe không thống nhất, nên đổi thành Tri điền, tức là biết về ruộng.

Phần cử Ban Chức sự, đúng ra là Trụ trì xét thấy người nào có khả năng gánh vác được việc gì thì giới thiệu, rồi chúng chọn. Nhưng ở đây mang tính cách chỉ định, không được từ chối. Vì ở chung với nhau, ai cũng phải gánh vác trách nhiệm. Dù nặng nhẹ, nhiều ít... tùy theo khả năng mà làm, được yêu cầu mà không chịu làm, như vậy là không có trách nhiệm chung.

Ban Chức sự tùy theo mỗi thiền viện có tăng giảm, đủ số hoặc giảm bớt không nhất định. Thí dụ các thiền viện không có ruộng thì không cần chức vụ Tri điền, tùy vào công việc khác mà sắp xếp cho phù hợp.

6. Tri thái: Gieo trồng, chăm sóc rau cải phục vụ cho chúng đủ ăn.

Thầy chỉ cử vài người đại diện, ngoài sáu chức danh này ra còn những chức vụ khác, như: Hương đăng, Khán bệnh v.v... thì Trụ trì tự lo liệu sắp đặt người làm.

II. Quy định thay đổi Ban Lãnh đạo và Ban Chức sự:

Vì là nơi chung của tập thể thiền sinh nên Ban Lãnh đạo và Ban Chức sự cũng được thay đổi chứ không phải cố định. Thay đổi trong trường hợp nào? 

Ban Lãnh đạo 3 năm họp một lần để hỏi ý kiến toàn chúng, nếu vị nào trong Ban Lãnh đạo bị ba phần tư số chúng ký tên xin thay đổi thì nên thay đổi, tức là ở trong chúng 10 người mà hết 7 người không chịu thì được thay đổi, còn dưới số ba phần tư thì không được chấp thuận.

Thí dụ vị nào trong Ban Lãnh đạo gắt gao, không làm tròn bổn phận để toàn chúng phải phàn nàn quá thì cần đổi, cử người khác lên thay thế. Bởi vì làm việc chúng, không những chỉ lo có cơm ăn, áo mặc mà còn về tu hành và đạo đức nữa. Do đó nếu Ban Lãnh đạo làm việc được lòng chúng, không có gì trục trặc thì cứ tiếp tục làm hoài không thay đổi, không nói 3 năm hay 4 năm... 

Ban Lãnh đạo thì không có định kỳ, còn Ban Chức sự Thầy giao làm một năm thôi. Trong thời gian đó, xem coi công tác mà huynh đệ lãnh làm có chạy việc hay không, rồi sau sẽ tùy duyên mà quyết định tiếp. Bởi vì đặt thời hạn dài quá, nhiều khi không chạy việc lại khó.

Thiền viện nào có điều tranh chấp mà nội bộ không tự giải quyết được, nên mời Ban Lãnh đạo các thiền viện huynh đệ họp lại để hỏi ý kiến và phụ giải quyết. Đây là tinh thần trách nhiệm chung, đừng để tự ý giải quyết không nổi rồi đâm ra bực nội, khổ sở. 

Thầy không biết mình còn sống gần hay xa, cho sên các thiền viện khi gặp khó khăn thì phải mời huynh đệ cùng chung giải quyết với nhau. Sau khi Thầy nghỉ, không có gì phải thưa hỏi Thầy nữa, để Thấy vô sự. Đừng nghĩ rằng Thầy đang nhập thất trên kia, rồi lên mời Thầy về giải quyết giùm.

Phần chỉ định chịu trách nhiệm công tác của thiền viện và phân công rõ ràng rồi, bây giờ tới phần nhập thất. 

Ở tại thiền viện Linh Chiếu hiện tại chỉ có 8 cái thất, mà trong chúng người xin nhập thì nhiều không đủ thất để nhập. Điều này cho thấy tinh thần của chúng ham tu, thích tu, rất đáng khen. Nhưng nếu nhập một lượt theo sở cầu của chúng thì không thể nào có đủ thất, nên Thầy chia ra làm hai đợt. Đợt một năm 1992 và đợt hai vào năm 1993. 

Đợt nhập thất năm 1992:

Thời gian nhập thất là một năm, bắt đầu từ ngày mùng 02 tháng 01 âm lịch. Gồm có: 

- Hạnh Nguyên. 

- Hạnh Điểm.

- Hạnh Giám.

- Hạnh Nhàn. 

- Linh Tuệ. 

Còn lại ba thất thì các vị nhập ba tháng, tới mùng 01 tháng 4 ra, ba vị khác vô. 

Đợt nhập thất năm 1993, trước hết là có Hạnh Chiếu xin nhập một năm. Đợt này Hạnh Chiếu cũng xin nhập thất, nhưng Thầy cho Hạnh Nguyên nhập trước. Hạnh Nguyên xin nhập tới hai ba năm, nhưng Thầy thấy còn nhỏ nên cho nhập một năm thôi, ra thất cho Hạnh Chiếu nhập thất. Hiện tại chưa có người đăng ký nhập thất đủ nên phiên nhập thất năm 1993 sẽ sắp đặt sau.

Phần sắp đặt mọi chuyện trong thiền viện đã xong. Thầy có ít lời nhắc nhở Ban Lãnh đạo, Ban Chức sự và Ban Giáo thọ để các con ý thức. 

Từ trước đến giờ Thầy gánh hết mọi chuyện, có gì cần thì Thầy sắp đặt, có gì khó thì Thầy giải quyết. Nhưng bây giờ khác hơn, tất cả việc khó dễ hoặc những gút mắt... trong cuộc sống hằng ngày của chúng thì Ban Lãnh đạo có trách nhiệm, thay Thầy làm hết bổn phận của mình.

Từ năm 1970, Thầy đã thành lập các thiền viện dần dần cho tới ngày nay đã hơn 20 năm. Có những lúc rất bình yên nhẹ nhàng, cũng có khi sóng gió bất thường, nhưng Thầy vẫn giữ một mực không đổi thay, không lay chuyển. Ngày nay thì tạm gọi là hoàn cảnh thuận lợi, không còn khó khăn nữa. Sở dĩ Thầy làm được như thế là vì Thầy hết lòng đối với chúng, đối với đạo. Nhân đây, Thầy nói cho tất cả tụi con biết: 

Thứ nhất, Thầy nhiệt tình đối với chúng. Điều gì Thầy thấy biết, khả năng tới đâu Thầy làm hết bổn phận tới đó. Nhiệt tình của Thầy lo cho tất cả chúng, nên rồi chúng cũng cảm thông. Do đó nhiều người tu được an vui, không có tâm chán cũng không lui sụt.

Thứ hai, Thầy chủ trương phải sống chân thật. Lúc nào cũng đem hết lòng mình, tất cả những sự thật thế nào thì sống như thế ấy. Thầy làm mọi việc không có tính cách để mưu đồ, gạt gẫm hoặc lợi dụng chúng làm cái đà cho mình tiến, hay lợi dụng Phật tử để có tiền nhiều v.v… Thầy sống với tâm chân thật, có thì nói có, không thì nói không, sự thật thế nào thì nói thế ấy, không có một ý niệm nào khác. Do lòng thật thà đó ở trong chúng cũng như đối với tín đồ, nên việc lãnh đạo của Thầy được thuận lợi tốt đẹp.

Thứ ba, Thầy lúc nào cũng chỉ vì chánh pháp chứ không vì một ý tứ riêng tư nào hết. Từ đi giảng dạy đến trải qua nhiều thời biến chuyển, Thầy vẫn giữ một lập trường. Thầy viết bao nhiêu sách, giảng bao kinh... cũng chỉ vì đem chánh pháp của Phật chỉ dạy cho mọi người biết, chứ không có một ý niệm xuyên tạc hay chống đối ai. Tất cả việc làm của Thầy đều vì mong muốn, làm sao cho mọi người hiểu được chánh pháp của Phật mà tu hành. Do hết tâm vì chánh pháp nên mọi việc làm đều được trôi chảy, tốt đẹp, êm xuôi. 

Thầy nhắc lại, tất cả những đứa lớn có trách nhiệm với đàn em thì phải ráng tập, giữ được ba tinh thần, đó là: 

- Luôn luôn nhiệt tình lo cho chúng.

- Luôn luôn chân thật đối với chúng và tất cả mọi người. 

- Luôn luôn vì chánh pháp chứ không vì cái gì khác. 

Nếu tụi con làm được như lời Thầy thì nhất định sẽ có kết quả tốt. Nhiều người có tài đức hơn Thầy nhưng vì không đủ những điều kiện này, nên trên đường tu có lúc thăng lúc trầm, khi được khi mất. Do đó, Thầy mong tất cả tụi con cố gắng tập theo những điều thầy đã ứng dụng.

Ban Lãnh đạo, Ban Chức sự và toàn chúng phải ráng học như vậy. Nhất là Ban Giáo thọ, là những người có trách nhiệm hướng dẫn và chỉ dạy kinh điển cho chúng học. Cứ thành thật, hiểu tới đâu thì nói tới đó, điều nào chưa hiểu hết thì tra cứu hoặc thưa hỏi lại, chứ không vì hổ thẹn không hỏi ai mà nói sai, cũng đừng tỏ ra mình thông kim bác cổ mà nói không đúng thành lỗi. Giả sử chỗ nào thấy lúng túng chưa rõ ràng thì cứ thú thật là đoạn này thấy chưa sáng, để từ từ hỏi những vị lớn rồi sẽ giảng thêm sau. Phải nhớ luôn thật thà, nói đúng như chỗ mình đã học đã hiểu và kinh nghiệm tu của chính mình mà thôi.

Lúc nào cũng phải nhiệt tình. Như tụi con thấy nhiều khi Thầy bị cảm sổ mũi mà tới buổi dạy thầy vẫn dạy. Không vì yếu yếu sơ sơ rồi bỏ, nghỉ dạy. Bởi vì toàn chúng lúc nào cũng trông cậy vào đường lối mà mình hướng dẫn, cho nên phải đem kinh Phật, lời Tổ ra nói cho chúng biết mà cùng tu với nhau. Được như vậy thì việc tu mới có lợi ích. Nếu đại chúng đông đảo mà chỉ lo việc ăn mặc, ngủ nghỉ, làm công tác, còn đạo lý không hiểu biết gì hết thì đời tu còn có ý nghĩa gì nữa.

Vì vậy Ban Giáo thọ phải ráng, giả sử tới bữa dạy mà có gì bận rộn chút ít cũng phải bỏ, cố gắng dạy cho đủ chứ đừng bữa dạy, bữa nghỉ, làm cho lớp học trông đợi. Đó là điều Thầy mong tất cả trong Ban Giáo thọ phải cố gắng, đừng vì lý do nào đó mà bỏ những buổi dạy của mình. Trừ trường hợp đặc biệt bất khả kháng thì thôi. Như vậy, với tinh thần đó tụi con sẽ tiến và sẽ có lợi cho chúng nhiều. 

Về phần chúng thì ở đây có mới có cũ, không phải toàn là cũ cũng không phải toàn là mới. Thầy gọi là lớp mới, lớp cũ chứ không nói lớp lớn, lớp nhỏ. Bởi vì trong lớp này có những người bốn năm mươi tuổi rồi chứ không phải là nhỏ. Vì vậy Thầy gọi người vô tu trước là lớp cũ, người vô tu sau là lớp mới. Lớp cũ học lâu tu lâu, có thể thuần thục hơn, còn lớp sau thì mới nên cũng phải ráng tu, ráng học. Bởi vì tu là gốc, nhưng nếu không hiểu thì không biết tu như thế nào, rồi lạc theo ngoại đạo hoặc chấp vào tà kiến.

Vì vậy toàn chúng phải học để hiểu rõ lời Phật tổ chỉ dạy. Dù cho sự tu chưa tới đâu nhưng nếu đi đúng điều của Phật tổ dạy thì có lợi ích lớn, còn tu nhiều mà tu sai thì đó là họa trên đường tu. Vì vậy trong chúng muốn tu thì cần phải học, học hiểu để tu. Có người nói, tôi muốn tu không cần học gì hết. Nói như vậy là sai lầm! Phải ráng học để mà tu. Các vị giáo thọ y theo kinh Phật, lời Tổ mà giảng dạy cho mình nghe. Phải khéo nhận lấy cái hay đó mà học mà tu.

Giả sử có một hai vị giáo thọ nào, có những việc làm chưa đúng như lời dạy thì mình cũng nên thông cảm, tha thứ. Như trong Luận Đại Trượng phu có nói: “Người học đạo phải khôn ngoan, gần gũi thiện tri thức. Đừng chấp nê mà phải hiểu như là trong thùng rác có hòn ngọc. Nếu muốn lấy hòn ngọc trong thùng rác thì tự nhiên tay phải dơ. Phải bươi rác ra rồi mới lấy được hòn ngọc”. Người học đạo cũng vậy.

Thiện tri thức bây giờ không phải như thời Phật tại thế. Thiện tri thức thời Phật là những vị là những đã chứng quả, nên lời nói và hành động của các ngài theo kịp nhau, nói được làm được. Thiện tri thức bây giờ, học thì có nhưng thực hành đôi khi chưa tới. Do đó, nếu cứ chấp vài hành động sơ sót của thiện tri thức thì mình không được học kinh. Bởi những vị ấy trước đã có duyên tốt hơn mình, được học với quý thầy có hiểu rồi, tuy là giờ hành chưa được nhưng đã có hiểu. 

Mình học với vị đó là học cái hiểu về ý nghĩa trong kinh, mà các vị đã hiểu được và chỉ lại cho mình. Còn hành động thì các vị đó sẽ cố gắng sau. Đừng nói, dạy tôi như vậy thì phải làm đúng như vậy, làm sai tôi không học. Nói vậy là mình chưa biết hoàn cảnh của mình. Thế nên hiểu rõ ý nghĩa học đạo rồi thì dù học với người nói làm theo nhau, hay học với người nói được mà làm chưa được... mình đều cảm thông. Nếu suy nghĩ như thế thì việc học của mình được kết quả tốt, còn cố chấp thì không học được điều gì hay.

Hôm nay Thầy sắp đặt và nhắc nhở như thế, tất cả từ Ban Lãnh đạo cho tới toàn chúng, từ trên đến dưới cố gắng làm tròn bổn phận của mình. Người lớn làm tròn bổn phận người lớn, người nhỏ làm đúng ý nghĩa của người nhỏ, để trên đường tu dìu dắt nhau ai cũng tu tiến. Không nên vì lý do này, lý do nọ mà để chùn bước.

Thầy đặt tên thiền viện này là Linh Chiếu, đây cũng chính là sự nhắc nhở lớn đối với tụi con. Bởi khi đặt tên Linh Chiếu là Thầy đã có ý, mong muốn làm sao cho chánh pháp mãi sáng soi, không để cho những thứ mê tín, dị đoan, tà giáo... làm cho mờ tối. Lúc nào Thầy cũng muốn thiền viện là nơi soi sáng cho tất cả mọi người, vì vậy mà Thầy đặt tên các thiền viện đều có chữ “Chiếu” ở sau. 

Linh Chiếu còn là tên của vị một nữ thiền sư Trung Hoa. Tuy còn nhỏ, với hình thức cư sĩ mà đã thấy đạo, sống chết tự do. Thầy cũng muốn Ni chúng ở đây, dù tụi con là Ni nhưng mai kia cũng sẽ là những người được đầy đủ đạo lực, trong lúc sống cũng như trong lúc chết. Không bị ngoại cảnh chi phối, có thể làm được những điều mà thế gian không làm được.

Như trường hợp cô Linh Chiếu, mặc dù cô đã tịch cả ngàn năm, mà bây giờ chúng ta vẫn nhớ, vẫn học sử của cô. Người trước là một nữ cư sĩ đã làm được thì Ni chúng ở thiền viện Linh Chiếu, là người xuất gia phải ráng học theo gương của cô Linh Chiếu. Làm sao mai kia, đối với con đường sanh tử tụi con có chút phần tự do. Đừng để khi sống bị ngoại trần lôi cuốn, khi chết lại bị nghiệp dẫn đi mất tự do, uổng một đời tu.

Đó là lời nhắc nhở của Thầy.

***

Cuối hạ năm Bính Tý - 1996

Năm nay là năm Bính Tý 1996, còn mấy hôm nữa là giải hạ, Thầy có vài lời nhắc nhở Ni chúng về đường lối tu hành. Do không có cơ hội dạy chung một lượt cho tất cả biết rõ đường lối tu của mình, Thầy e rằng có những đứa không đủ duyên, vào tu sau nên chưa được nghe, không biết sự tu bắt đầu như thế nào và kết thúc ra sao. Vậy nên Thầy dành buổi nói chuyện này để nói rõ lại cho cả chúng cùng được nghe. 

Đường lối tu của chúng ta ở đây, có thể chia làm ba chặng hoặc hai chặng đường, tùy theo trình độ của mỗi người tu. Trước hết Thầy nói về ba chặng đường: 

Chủ trương tu của Thiền tông là “Phản quan tự kỷ”, tức là xoay chiếu về nội tâm của mình. Muốn xoay chiếu lại nội tâm của mình, không gì bằng phương tiện dùng hơi thở. Tại sao? Bởi vì chúng ta quen để sáu căn đuổi theo sáu trần, ngày tháng năm nào cũng đều đặn như vậy. Do không có phút giây soi trở lại mình, nên ở bên ngoài chúng ta biết rõ mà nơi tự thân thì lại không biết gì hết. 

Người tu thiền phải biết cái thật nơi mình. Nhận ra được cái thật thì gọi là ngộ đạo hay kiến tánh, còn đuổi theo bám vào cái hư dối, nuôi dưỡng nó, đó là tạo nghiệp luân hồi sanh tử. Vì vậy, muốn thoát ly sanh tử là phải quán chiếu trở lại chính mình. Soi xét coi cái gì là hư vọng thì đừng đuổi theo, đừng giữ gìn, bảo vệ nó nữa. Cái gì là thật thì phải nhận rõ, không quên mất cũng không xao lãng. Đó là gốc của người tu thiền, cũng là gốc của đạo Phật.

Xưa nay chúng ta có thói quen phóng ra nên không có khả năng tự chiếu rọi lại mình, bây giờ muốn xoay lại thì bắt buộc phải mượn hơi thở. Ngồi đếm hơi thở tưởng chừng rất đơn giản, không có gì cao siêu kỳ đặc cả, nhưng vô cùng thiết yếu. Việc làm y như trẻ con, cứ hít vô cùng, thở ra sạch đếm một; hít vô cùng, thở ra sạch đếm hai. Đếm tới mười thì bỏ rồi đếm trở lại từ một đến mười, mãi như vậy. Nương hơi thở lâu dần thành thói quen, hơi thở vô ra tới đâu đều biết rõ ràng, đó là nhìn thấy bằng trí tuệ của mình. Nhờ nương hơi thở mà phản quan lại, giúp chúng ta thấy tường tận hơi thở và sự sống của mình liên quan mật thiết như thế nào.

Phật dạy, thân xác thịt này là do tứ đại địa thủy hỏa phong hòa hợp mà thành. Phong đại tức là gió, mà hơi thở là phần chủ yếu trong đó. Tại sao nói hơi thở là phần chủ yếu? Vì hơi thở chính là mạng sống của con người. Chúng ta có thể nhịn ăn một hai tuần, nhịn uống năm ba ngày mới chết, còn nhịn thở thì chết liền. 

Sự sống và chết của chúng ta gá vào hơi thở, một hơi thở ra không hít vô lại, lập tức mạng sống không còn, nó thiết yếu như vậy mà chúng ta coi thường. Hơi thở ra vô liên tục không dừng nên nó thuộc về vô thường, hơi thở đã vô thường thì đương nhiên mạng sống cũng thuộc vô thường, làm sao thân này lâu dài được. Rõ ràng mạng người hết sức tạm bợ, vậy mà cả đời chúng ta cứ đuổi theo nó, lo cho nó, vì nó mà khổ sở, thử hỏi mình mê hay tỉnh? Quán hơi thở vô ra rồi đếm, tức là buộc tâm mình đừng chạy ra ngoài, nhờ thế dần dân tâm yên định.

Thấy được lẽ vô thường của thân này rồi thì bớt tham sân si. Tại sao? Bởi biết là giả dối vô thường, đó là giác, tức bớt si. Thân chỉ là tạm bợ thì đối với những nhu cầu của thân như ăn ngon, mặc đẹp… chúng ta đâu còn tham muốn cho nhiều để làm gì, nên bớt tham, bớt tham thì bớt sân. Bởi trước kia mong muốn được cái này cái kia mà không được nên mới nổi sân, bây giờ không mong muốn nữa thì lấy gì mà nổi sân. Quán thân vô thường giảm được tham sân si, đó mới là hiệu nghiệm, là công đức của người tu.

Bước đầu Thầy dạy đếm hơi thở, tụi con thấy hết sức tầm thường, nhưng đó là con đường đưa tới tỉnh giác. Tu đếm hơi thở có hai điều trọng yếu: một là dùng hơi thở chiếu rọi lại bên trong, kềm chế không cho sáu căn rong ruổi ra ngoài; hai là nhờ soi rọi lại thấy rõ thân tạm bợ mà giác ngộ được lý vô thường, quay về cái sáng suốt nơi mình. Từ đó phá được một phần chấp về thân.

Quán sổ tức là bước thứ nhất. Qua bước thứ hai là tùy tức, tức là theo dõi hơi thở. Khi tụi con xoay rọi lại quen rồi, Thầy bảo tụi con khỏi đếm số nữa mà theo dõi hơi thở. Ở chặng này chỉ để tâm vào hơi thở vô ra, hễ có niệm dấy lên đều biết nó là vọng tưởng liền buông. Nghĩa là khi nào niệm khởi thì buông, không thì cứ biết hơi thở vô ra là đủ rồi. Bởi vì thấy hơi thở vô ra biết rõ ràng, tức là bắt mình phải nhìn ngược trở vô. Nếu không nương hơi thở thì dễ buông trôi, ngồi đó mà phóng ra bên ngoài nghĩ tưởng việc này việc kia rồi quên mất mình. 

Chúng sanh mê lầm bởi hai cái chấp: một là chấp thân thật, hai là chấp tâm thật. Bởi thấy thân thật nên cho nó là quý. Do chấp những nghĩ tưởng hư dối là tâm mình thật, nên lúc nào cũng cho cái thấy biết của mình là đúng, là chân lý. Do đó ai nghĩ khác là mình không chấp nhận, cho là họ trật họ sai, rồi chống đối thù nghịch lẫn nhau. Chỉ cần hai người ở chung là có bất đồng ý kiến, có cãi vã, buồn phiền... đủ thứ chuyện.

Ý kiến chỉ là một mớ vọng tưởng, có gì thật đâu mà đồng với bất đồng. Suy nghĩ vọng tưởng chỉ là trò ảo ảnh, đồng hay không đồng cũng là chuyện thường. Như bao nhiêu bong bóng nước nổi lên, dù to tới mức nào cũng vẫn là bong bóng, có gì đâu mà chấp, giống nhau hay không giống nhau đâu có gì quan trọng. Vậy mà người thế gian suốt cả đời ôm ấp, đau khổ vì hai thứ chấp này. Từ thấy thân là thật, cho tâm vọng tưởng là thật mà gây ra không biết bao nhiêu là đau khổ. Không phải chỉ riêng chúng ta mà tất cả nhân loại đều chấp như thế. 

Vọng tưởng là gì? Vọng là dối, tưởng là suy tưởng. Nếu đã biết vọng tưởng là hư dối không thật thì tụi con có còn chấp không? Tuy vọng tưởng chưa lặng bao nhiêu, nhưng thấy niệm khởi biết là không thật, không theo nó là tụi con tu được khá khá rồi. Nghĩa là tụi con đã bước qua cửa thứ hai, đó là tỉnh giác. Tuy chưa hết vọng tưởng, nhưng tụi con không còn mê lầm như trước nữa. Đó là bước đầu tiên mà người tu thiền phải thực hiện cho bằng được. 

Đạo Phật là đạo giác ngộ, chúng ta vào đạo tu hành, không nhiều thì ít mình cũng phải có giác. Thấy rõ mạng sống theo hơi thở không thật, tâm suy nghĩ hơn thua chỉ là vọng tưởng hư ảo cũng không thật, đó là cái thấy của sự tỉnh giác, tức là mình đang giác. Như vậy tụi con đang giác mà không biết, cứ tưởng mình tu sao còn ngu muội hoài, thật là đáng tiếc! 

Thật tình mà nói, nếu tụi con thực hành sâu hơi thở thì sự giác ngộ không khó. Đời tu của tụi con nhẹ nhàng vì đã vơi bớt bao đau khổ, giảm bao nhiêu thứ nghiệp chướng. Chỉ cần biết vọng tưởng chứ chưa nói là lặng vọng tưởng, mà tụi con đã tiến một bước rất dài rồi, huống là tu đến lúc lặng hết vọng tưởng. Lâu nay Thầy dạy tụi con mới vào phải đếm hơi thở, mà Thầy chưa giảng kỹ, nên tụi con cứ tưởng sao Thầy dạy chuyện tầm thường. Nghĩ rằng, đếm hơi thở có nghĩa lý gì? Vọng tưởng gì kệ nó, thấy vọng tưởng thôi chứ có gì quan trọng đâu? Nhưng tụi con không ngờ, đó chính là giá trị thật của đời tu chúng ta.

Người thế gian, suốt cuộc đời của họ phải chịu bao khổ sở, điêu đứng, bực bội phiền hà... cũng từ chấp thân tâm mà ra. Chúng ta bây giờ qua được hai cái thấy lầm này, là một bước tỉnh giác rất xa chứ không phải tầm thường. Tất cả tụi con, có đứa nào không đi đường này không? Ai cũng đi, chỉ có đi xong hay chưa xong mà thôi. Thầy nhắc lại, tất cả cần nhận định chín chắn việc làm của mình, đó là mình đang tập đi trên đường giác, chứ không phải còn mê lầm như cũ.

Sau khi biết vọng tưởng rồi phải làm gì? Trong ba nghiệp thân khẩu ý thì ý là gốc. Phật dạy chúng sanh luân hồi trong lục đạo là do nghiệp dẫn, mà động cơ của nghiệp chính là ý. Ý nghĩ thiện thì miệng nói thiện, thân làm thiện. Ý nghĩ ác thì miệng nói ác, thân làm ác. Như vậy, nghiệp lành hay nghiệp dữ đều từ ý làm ra, ý tức là vọng tưởng. Muốn giải thoát sanh tử luân hồi thì phải dứt nghiệp, mà muốn dứt nghiệp thì ý phải lặng. Cho nên căn bản tu thiền chính là dừng ý. Khi thấy ý nghiệp dấy lên lăng xăng, liền buông. Buông mãi cho tới lúc ý thức lặng yên tức là manh mối tạo nghiệp được dừng, ngang đây thì đâu còn gì dẫn mình đi trong luân hồi sanh tử nữa, gọi đó là giải thoát.

Khi vọng tưởng hư dối lặng hết, chúng ta mới thấy cái thật của chính mình hiện ra. Tâm chân thật hiện tiền đó, trong nhà thiền gọi là “bản lai diện mục”. Như vậy, nhờ không mê lầm cái giả nên mới nhận ra cái thật. Từ chỗ buông xả vọng tưởng, cho tới nhận ra bộ mặt chân thật của chính mình. Đó là bước tiến thứ hai trên con đường đạo. Chặng thứ nhất dễ, có thể tụi con có đứa đã đi qua. Chặng thứ hai khó hơn, nên chắc đi cũng hơi chậm. Thế nhưng, có đi thì nhất định sẽ tới, chắc chắn không nghi ngờ.

Trên đường tu tụi con phải cố gắng. Một khi đã biết rõ công dụng, cùng lợi ích thiết thực của sự tu hành thì phải hăng hái lên mà tu, chứ đừng lờ mờ bảo sao làm vậy. Hoặc có người cho là mình đã nhận ra cái chân thật là xong việc, rồi nói năng om sòm, muốn làm gì thì làm. Cứ tưởng mình tự tại thong thả nên mặc tình sống phóng túng, đến khi vọng tưởng sống dậy nó lôi dẫn quên mất lối về. Người tu bước qua chặng thứ hai cũng chưa phải là xong, mà còn phải tiến lên chặng thứ ba nữa. Ngài Trần Tôn Túc nói: “Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ, việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ”. Tại sao? Bởi tuy việc lớn đã sáng, tức là nhận được cái chân thật rồi, nhưng do tập khí nhiều đời chưa hết nên còn phải dẹp sạch. Đây là thời gian khá dài chứ không phải ngắn. Tổ sư nói “đốn ngộ tuy đồng Phật, đa sanh tập khí thâm”. Đốn ngộ bản tâm đồng các chư Phật, nhưng tập khí nhiều đời sâu dày. Cho nên, dù nhận biết rõ rồi mà vẫn cần phải hết sức tinh tế dụng công, một khi tập khí phát ra là dẹp ngay, như vậy lâu ngày mới sạch hết. Còn tập khí là chưa xong việc, chừng nào tập khí sạch rồi, được rảnh rang buông thõng tay vào chợ thì chừng đó mới gọi là tự tại giải thoát. 

Qua ba chặng đường Thầy vừa nói, tụi con thấy rõ đường hướng Thầy dạy đầu đuôi gốc ngọn rõ ràng. Bước vào như thế nào, đến chặng cuối cùng ra sao. Thấy tường tận như vậy thì sự tu mới có ý nghĩa, mới không lầm lẫn. Thầy nhắc kỹ cho tụi ton nhớ, giai đoạn ngồi thiền là giai đoạn tốt nhất để phản quan. Phản quan hơi thở, rồi phản quan vọng tưởng, cuối cùng là nhận ra cái chân thật. 

Trong khi buông xả vọng tưởng, đòi hỏi tụi con phải làm hai việc. Thứ nhất là phải thấy rõ từng niệm khởi, vì vậy cần phải tỉnh sáng. Nếu nhắm mắt ngủ mê thì không thể thấy được vọng tưởng. Lúc vọng tưởng lặng lặng thì cần phải tỉnh tỉnh, chứ không phải lặng rồi ngủ luôn. Cho nên tụi con phải luôn luôn tỉnh giác một cách mạnh mẽ, yên tĩnh mà phải sáng suốt, sáng suốt nhưng vẫn yên tĩnh, đó là thuật khéo của người ngồi thiền. Thiền sư Huyền Giác dạy rõ: “Tỉnh tỉnh lặng lặng phải, tỉnh tỉnh tán loạn sai. Lặng lặng tỉnh tỉnh phải, lặng lặng hôn trầm sai”. Lặng tức là vọng tưởng mất, khi lặng phải tỉnh mới thấy mặt thật của chính mình, nếu lặng mà ngủ khò không tỉnh thì làm sao nhận ra cái chân thật. 

Tinh thần Thiền tông là định tuệ song tu, chứ không phải trước định rồi sau mới tuệ. Định tuệ đồng thời tức là trong khi tỉnh phải có lặng, trong khi lặng phải có tỉnh. Vì vậy khi buông xả vọng tưởng được thưa lặng, là lúc nào đó tụi con được tỉnh sáng. Chặng đường này rất dài, tụi con cần phải cố gắng kiên trì bước đi, đừng dể duôi xem thường.

Thầy biết lâu nay phần nhiều thực hành không đúng trình tự của ba chặng đường này, bởi vậy nên tu hoài mà không kết quả. Ngang đây tụi con cần phải nhận thức kỹ càng, thấy rõ chặng đường mình đang đi là đúng hay sai, rồi điều chỉnh thực hành lại cho đúng để tu. Đừng nghĩ rằng mình vô thiền viện năm bảy năm rồi, mà sao không thấy giác ngộ chút nào hết? Tụi con kiểm nghiệm xem, chí ít cũng đã có chút chút giác rồi. Trước là giác thân vô thường, kế là giác tâm vọng tưởng là hư dối. Phải không? Như vậy tụi con đâu còn mê tối như người thế gian nữa.

Thầy đã nói qua ba chặng đường của người tu đạo, bây giờ Thầy nói về hai chặng kế tiếp. Hai chặng này cũng không ngoài ba chặng trước. Chặng thứ nhất là biết được cái thật, buông xả không theo những cái giả. Nếu người nào vào đạo mà có túc duyên sâu, khi học kinh, nghe giảng hoặc nghiên cứu, bỗng dưng sáng lên thấy rõ ông chủ nơi mình, không nghi ngờ. Khi nhận ra mình có ông chủ rồi, từ đó biết rõ cái thật, nên đối với những thứ giả mình buông hết không theo nó nữa.

Chặng thứ hai là khi tất cả những cái giả không còn khả năng quấy nhiễu mình, tuy nhiên mọi tập thí nhiều đời vẫn chưa sạch hết, vì vậy phải luôn luôn dè dặt, tỉnh táo đừng để nó lôi kéo. Người đã biết được cái này là thật thì tự nhiên rõ biết cái kia là hư giả. Hạng người như thế đi chỉ mất một chặng đầu là tới chặng thứ hai liền. Đến chặng thứ hai lại cố gắng buông xả những tập khí đời này, đời kia cho sạch. Chừng nào tập khí sạch hết, không còn gì làm chướng ngại đường tu của mình thì chừng ấy tự do tự tại. Đó là hai chặng, chặng thứ nhất là tiệm tu rồi đốn ngộ, chặng thứ hai là đốn ngộ rồi tiệm tu. Chư Tổ dạy hết sức rõ ràng, tiệm tu rồi đốn ngộ, hoặc đốn ngộ rồi cũng phải tiệm tu, chứ không thể không tiệm tu.

Đường tu của chúng ta cụ thể rõ ràng, lúc nào cũng đặt giác ngộ làm gốc. Giác ngộ được hư dối, đó là từ cái giả đi tới cái thật. Điều cần yếu trong sự tu là biết được lối đi rõ ràng, chứ không phải chỉ nghe qua lời Thầy dạy rồi tu theo thôi. Nếu đi tu mà không biết thấu đáo ý nghĩa của việc mình làm, không có nhiệt tâm, chỉ là tu cho lấy có thì vào chùa một thời gian dễ bị buông xuôi, thả trôi theo các duyên rơi vào xao lãng. Cũng bởi nghe dạy sao thì làm vậy còn tự mình không nắm vững công phu, nên việc tu lờ mờ, ngồi thiền dễ bị ngủ gục. 

Những người không biết việc tu thực tế như thế, nên họ đi tìm học hạnh này, tập hạnh kia để cho mình hết tham sân si. Nhưng không ngờ, muốn hết tham sân si thì tự mình phải giác, tức là nhận ra cái thật nơi mình. Khi nhận ra được cái thật, tụi con mới thấy giờ ngồi thiền là giờ vàng ngọc, vì đó là giờ được ngồi yên để phản quan lại chính mình. Chừng nào tìm ra được sự giác ngộ cụ thể nơi mình rồi, chừng đó không cố dẹp tham sân si mà tham sân si cũng tự lặng.

Hôm nay Thầy đã nói rõ cho tất cả tụi con biết, những chặng đường phải đi của một hành giả tu thiền. Ba chặng hoặc hai chặng là tùy theo căn cơ của mỗi người. Nắm vững ý nghĩa việc tu của mình rồi thì từ đây về sau tụi con phải luôn ghi nhớ. Ngồi thiền là phản quan, vì vậy giờ ngồi thiền là giờ lặng lẽ sáng suốt, chứ không phải là giờ ngồi ngủ hay giờ để nghĩ ngợi lung tung. Đừng ngồi đó mà gục lên gục xuống, cũng đừng phóng tâm ý ra ngoài chạy ngược chạy xuôi. 

Ở trong chúng tu, tụi con phải hiểu cho rành, biết cho rõ để bản thân mình tu tiến, rồi mai này dạy cho người sau tu cũng không lầm lẫn. Nhân đây Thầy nói thêm, vừa rồi trong chúng có người hỏi, hiện nay chúng ta tu thiền nhưng còn phải lao tác và học tập kinh điển, không có thời gian ngồi thiền nhiều thì làm sao để tu cho rốt ráo? Thầy nói rõ điểm này cho tụi con nắm vững. 

Thầy từng dạy tụi con, không thể lấy việc ngồi thiền làm cứu cánh trong đời tu, mà ở bất cứ hoàn cảnh nào, dù động hay tịnh mình cũng có thể tu được. Không phải chỉ ở cảnh tịnh mới tu, còn trong cảnh động thì tu không được. Động của người tu là chỉ cho khi làm việc trong chúng hoặc làm các Phật sự khác, chứ không phải động như người thế gian. Vấn đề này Thầy cũng thường nhắc, tụi con làm việc gì chỉ biết việc đó thôi, đừng để tâm duyên theo cảnh khác. Thí dụ các vị giáo thọ, giờ nào soạn bài dạy học thì dồn hết tâm tư trong việc soạn bài. Chỗ này tụi con đừng hiểu lầm, cho rằng dồn hết tâm tư trong đó là trụ. Tuy soạn bài là động, nhưng có làm chủ. Tại sao? Vì mình không để tâm ý phóng đi ra ngoài việc đang làm. Như người chăn trâu, giữ trâu đi trên bờ nếu nó xoay đầu qua lúa mạ thì giật dây kéo lại. Chăn trâu đâu phải khi trâu nằm yên một chỗ mới chăn, mà chính khi trâu đi mình cũng phải chăn như vậy. Bệnh của con người là làm cái này mà nghĩ tới cái khác, làm ở đây chưa rồi mà nhớ chuyện kia, chuyện nọ. Cứ như vậy cho nên việc làm không chu đáo, lại còn thêm loạn tưởng. Làm cái gì tụi con chỉ để tâm trong phạm vi đó, không có cái thứ hai chen vô. Như vậy, dù ở hoàn cảnh nào hay làm bất cứ việc gì thì tụi con cũng luôn tỉnh sáng, vừa làm chủ tâm mình vừa chu đáo trong công việc. Tuy có xao động nhưng chỉ trong một giới hạn cố định, chứ không phải xao động mà thiếu tu. Như người tu quán vô thường hay quán khổ, trong lúc khởi quán cũng động, quán lâu dần tâm ý mới yên tịnh, động đó là động trong quán chiếu, chứ không phải loạn động theo cảnh.

Mỗi ngày chúng ta tập tỉnh sáng trong mọi hoạt động của mình, lâu ngày tâm ý sẽ thuần thục. Khi đã thuần thục rồi thì đặt đâu yên đó, không còn vọng tưởng lăng xăng lộn xộn nữa. Hiện tại khéo tu trong cảnh động, mai kia ra dạy người tu thiền cũng được lợi ích. Cư sĩ tu tại gia phải suy nghĩ làm việc này việc kia, đâu có thời giờ ngồi thiền như mình, chúng ta cần hướng dẫn cho họ tu một cách thiết thực.

Phương pháp tu này không những hữu ích cho Phật tử, mà cũng hữu ích cho cả xã hội. Nhất là thời đại khoa học, phần nhiều làm việc sử dụng máy móc, nếu mọi người chuyên tâm trong việc làm của mình thì hiệu quả sẽ cao hơn, giúp cho xã hội tiến bộ nhanh hơn. Nếu không chuyên tâm, đang làm cái này mà nhớ chuyện khác thì dễ gây ra tai nạn hoặc hư hỏng. Hiểu như vậy rồi, tụi con không phải thắc mắc nên buông hết việc để tu hay vừa làm vừa tu. Lúc ngồi thiền tu được mười phần thì giờ làm công tác bên ngoài mình tu cũng được năm phần.

Dù làm việc chùa hay việc xã hội cũng đều khéo tu, có như vậy đời tu của chúng ta mới không rơi vào tiêu cực. Nếu nghĩ phải bỏ hết việc bên ngoài, vô thất đóng cửa ngồi yên mới là tu thì chừng nào mình tu được? Như ở đây có cả ngàn Tăng Ni tức là phải có cả ngàn cái thất để tu, vậy ai đủ sức ủng hộ cho chúng ta ngồi không chỉ ăn rồi tu. Cho nên tụi con cần phải thấu triệt đường lối tu, làm sao trong sự tu tập của mình được tăng tiến, mà đối với mọi sinh hoạt ở thế gian chúng ta cũng không gây chướng ngại, đó mới thật sự là tinh thần tích cực của đạo Phật.

Cuối mùa an cư năm nay Thầy có vài lời nhắc nhở Ni chúng, mong rằng mỗi ngày tụi con đều có những bước tiến vượt bậc, không còn trì trệ như những năm trước. Đó là sự mong đợi của Thầy, mấy đứa con phải gắng tỉnh giác tu hành, đừng để mê lầm nữa.

***

Ngày 28/11/ Canh Thìn - 23/12/2000

Chúng ta là người tu phải bòn từng chút phước, không nên để phước đức của mình bị tiêu mòn. Phật dạy người có phước muốn làm gì đều thành công, còn người vô phước làm gì cũng thất bại. Phước đức giúp chúng ta làm việc gì cũng thành tựu. Thí dụ như Thầy, mấy đứa con thấy Thầy có làm ra đồng xu nào đâu, nhưng khi muốn làm việc gì, khởi xướng lên đều làm được hết. Tại sao như vậy? Bởi Thầy có tu nên có phước.

Nhưng nếu Thầy tu ở thất một mình thì có phước được như vậy không? Chắc chắn là không. Nhờ Thầy vừa tu vừa đi giảng dạy cho mọi người hiểu đạo, từ đó Thầy có phước mới nuôi nổi mấy đứa tu. Do vì Thầy có tâm hỗ trợ Tăng Ni tu, hướng dẫn Phật tử cùng hiểu Phật pháp nên được phước báu như thế. Nếu Thầy ích kỷ, chỉ lo cho riêng mình khỏe thôi thì chắc hẳn đã không có phước.

Nhân đây Thầy muốn nhắc nhở đại chúng, nếu mỗi đứa có phước thì trên đường tu gặp được duyên lành, làm việc không bị chướng ngại. Trong khi tu tụi con phải tập, đứa nào cũng phải có tinh thần tương trợ huynh đệ, sẵn sàng hy sinh. Những việc khó nhọc mình phát tâm làm, không nạnh người này, chờ người kia. Hiện tại tuy mấy đứa con chưa làm lợi ích cho nhiều người, nhưng ít ra cũng làm trong phạm vi của mình. Đừng tránh nặng tìm nhẹ, cho rằng làm cái này nặng nhọc, làm cái kia nhẹ nhàng hơn. Người nào sẵn sàng làm những việc nặng nề nhọc nhằn, gánh vác thay cho chúng thì người đó có phước nhiều, còn kẻ tránh né chỉ ưa làm việc nhẹ thì tự nhiên phải ít phước hơn. Tụi con nên nhớ, ở trong chúng phải tận tâm lo cho Tam bảo, có thế mới xứng đáng, mai này ra làm Phật sự được.

Thầy làm Phật sự có khi nào mấy đứa nghe Thầy than mệt mỏi, hết muốn làm không? Tuy mệt nhưng luôn luôn cố gắng làm, nhờ vậy Thầy mới có phước. Tụi con nghĩ xem, tiền đâu mà Thầy cất được chùa? Xây dựng thiền viện Thường Chiếu Thầy đâu có đồng xu nào, cũng không xin ai hết, chỉ cần khởi xướng Thầy muốn làm việc này thì Phật tử liền chung tay ủng hộ. Đứa nào ở trong chúng cứ tránh nặng tìm nhẹ, nghĩ như vậy khỏe thân, mà không ngờ đó là tổn phước. Tổn phước dần dần đưa tới gặp nhiều trở ngại trên đường tu. Chẳng những thế, nhiều khi còn tu không được nữa.

Trong kinh Phật có nói, đừng sợ dư phước, chỉ sợ thiếu phước. Cho nên mỗi đứa ở trong chúng phải biết hy sinh, gánh vác việc nặng, thay nhọc cho huynh đệ. Người nào biết nghĩ như thế là biết thương mình, để dành phước báu để tu hành và mai kia còn làm được nhiều lợi ích khác. Nếu cứ sợ làm nhiều sanh bệnh, làm quá tu không được v.v... thì không tốt. Mấy đứa con thấy, mỗi ngày Thầy giảng hai ba thời, sáng giảng chiều giảng, nhưng vẫn làm việc không nghĩ đến mệt mỏi. Biết rằng già thì thân phải yếu, nhưng vì tinh thần mạnh mẽ nên luôn muốn làm lợi ích cho nhiều người, cứ vậy ngày ngày lướt qua mà không thấy mệt nhọc gì hết. 

Tụi con đứa nào cũng lớn khôn rồi, biết tu hành thì phải ráng tạo công đức cho mình. Giả sử trong thiền viện có việc gì khó khó một chút, ban lãnh chúng thấy người nào làm được, đề nghị thì mấy đứa con chắp tay nhận hay trốn tránh? Chấp tay xá nhận, đó là người biết tạo duyên phúc cho mình. Đại chúng ráng tập tu hạnh từ bi, có tinh thần vị tha đối với mọi người. Bây giờ còn nhỏ đầy đủ điều kiện tạo phước mà không chịu làm, đến lúc già bệnh muốn làm cũng không làm được, chừng đó bị thiệt thòi, hối tiếc cũng không kịp. 

Trên con đường tu hành, Phật tổ luôn gia hộ cho những người nhiệt tình vì chúng sanh, chứ không gia hộ cho kẻ tiêu cực, ích kỷ. Hiện tại chúng ta thấy dường như mình làm cho người khác, nhưng thật sự chính là làm cho mình. Giúp đỡ người này người kia, tức là giúp đỡ cho mình. Người tu khôn ngoan, không có tâm thối chuyển, không nên để mình ích kỷ nhỏ mọn, mà phải luôn cố gắng làm những việc phước đức, nhất là hy sinh cho chúng.

Ngày xưa hòa thượng Giám đốc tức hòa thượng Thiện Hòa, ra miền Trung học. Trường cử Hòa thượng làm Tri sự, mà ở đó làm Tri sự cực lắm, ngài hay giúp đỡ người này người kia. Vì Hòa thượng viết chữ tốt, nên ngoài việc Tri sự ra, nếu có ai mượn viết gì thì ngài đều sẵn sàng viết giùm hết. Học xong, Hòa thượng về lập Phật học đường Ấn Quang, từ Tăng Ni cho tới cư sĩ, ai ai cũng quý kính ngài. Tại sao mọi người quý kính Hòa thượng? Chính là nhờ đức hy sinh của ngài, nên mới có đầy đủ phước báu như vậy.

Những người đi trước luôn luôn quên mình vì người sau, dấn thân lo cho chúng Tăng, phụng sự đạo pháp, nên các ngài có đầy đủ phước đức. Kẻ lánh nặng tìm nhẹ, chỉ muốn ở thất tu một mình cho sướng, miễn sao có cơm ăn áo mặc thì thôi, không cần làm gì hết, riết thành tiêu cực ích kỷ, tu hoài không tới đâu. Thế nên tụi con nhớ học gương hạnh của quý hòa thượng để bắt chước.

Chính bản thân Thầy cũng học theo gương hạnh của Sư Ông, khi nào cần giảng dạy cho ai thì sẵn sàng, không nệ hà gì cả. Thấy việc gì có lợi cho người thì làm, nhiều khi Thầy rất mệt, nhưng có những đoàn tới hỏi đạo, Thầy cũng vẫn nói. Nói vui nên quên mệt. Mấy đứa con hiểu đạo lý rồi, ráng nhớ ứng dụng vào trong cuộc sống tu hành của mình, đừng bao giờ nói tôi mệt lắm thôi không làm nữa. Được như vậy thì tụi con sẽ là những người tốt cho mai sau, làm ích lợi cho đạo pháp và xã hội.

***

* Thầy dạy Tuệ Tĩnh Đường 

Năm Canh Thìn - 2000 

Hôm nay Sư Ông có vài lời nhắc nhở tụi con, nhữngvij được phân công làm việc tại Tuệ Tĩnh Đường Linh Chiếu. 

Sư Ông cho thành lập Tuệ Tĩnh Đường, vì muốn đóng góp việc làm có ích cho xã hội. Như thế mình thể hiện lòng từ bi, mà cũng vừa nói lên tinh thần nhập thế của đạo Phật, nhằm dẹp bỏ quan điểm sai lầm của một số người cho rằng người tu là tiêu cực, ích kỷ. Nếu tổ chức của mình tốt thì làm lợi ích được cho nhiều người, nên tụi con phải cố gắng tận tâm tận lực. 

Người bệnh tật nhiều đau khổ, chúng ta góp chút phần xoa dịu nỗi đau cho họ. Việc làm này tuy không lớn lao gì, cũng không đòi hỏi kết quả 100%, khoảng 80% là quý rồi. Nhưng trước mắt là đem lại niềm vui cho đồng bào. Một người hết bệnh là cả gia đình họ được vui theo, qua đó chúng ta đem họ đến gần Phật pháp.

Tất cả tụi con phải luôn cố gắng làm việc để đóng góp với xã hội, lợi ích cho mọi người. Là thầy thuốc trong thiền viện, phải nhớ lời Phật dạy về hạnh bố thí. Đừng thấy mình là người bố thí, bệnh nhân là kẻ thọ thí, khiến cho đạo đức của mình bị tổn giảm. Nếu thấy trị bệnh là ban ơn, người bệnh là kẻ thọ ơn, rồi có những lời nói nặng nhẹ, quát tháo thì không tốt. Nên nhớ, nhân có người thọ thí, chúng ta mới làm được việc bố thí. Vì vậy đã phát tâm làm việc giúp dân, phải làm với lòng quý trọng, từ đầu đến cuối không thay đổi, không để thiếu sót. Làm sao tất cả người bệnh đến đây điều trị đều cảm thấy vui, đó mới thật sự là đức tính cao đẹp của một người tu. 

Những người nhỏ được phân công làm Tuệ Tĩnh Đường, tự thân phải ý thức cao việc làm của mình. Đừng nghĩ rằng làm việc này là gánh nhọc cho thầy tổ, là có công lớn đối với Tam bảo, mà phải thấy đây là bổn phận của mình đối với xã hội. Nếu thấy mình làm như thế là có công lớn, mọi người phải nể, rồi xem thường huynh đệ và đại chúng, đó là tổn đức. Phải hiểu, tất cả những gì người lớn giao người nhỏ làm, cũng đều nhằm tạo phương tiện cho người nhỏ có cơ hội tu học và tạo công đức. Do đó mấy đứa con khi được chút thành tựu gì, phải có lòng biết ơn và kính trọng thầy của mình. Đừng bao giờ ỷ có công mà coi thường thầy tổ. Phải biết, nhờ người lớn lo lắng sắp đặt, tạo điều kiện giúp đỡ nên mình mới được thành tựu.

Phần các vị lớn có trách nhiệm trông coi gánh vác cũng phải nhớ, chúng ta làm việc không phải để riêng cá nhân mình hưởng tiếng tốt, mà đó là tiếng tốt chung cho cả thiền viện. Điều cốt yếu của chúng ta là sự tu, công tác từ thiện chỉ là phương tiện tạo duyên lành. Cho nên phải luôn luôn làm trong đạo đức, bằng tình thương chân thật, chứ đừng làm vì bản ngã tự kiêu tự đắc. Người nào thấu suốt được như vậy thì làm Phật sự mới lâu bền. 

Dù làm ngành nào, ban nào, mỗi người cũng đều phải đặt hết tâm trí của mình vào đó. Nếu làm mà gượng gạo, không hết lòng thì không nên làm. Muốn việc làm đạt kết quả tốt thì khi rảnh rỗi nhớ nghiên cứu sách thuốc, để hiểu thêm về những cây thuốc mới được y học phát hiện. Làm sao càng làm càng kinh nghiệm, càng giỏi mới được. Thầy thuốc có kinh nghiệm giỏi thì việc điều trị bệnh nhân ngày càng tiến bộ, cứu được nhiều người. Nên nhớ, mục đích của Tuệ Tĩnh Đường là cứu người, chứ không phải làm để lấy tiếng hay vì lợi dưỡng, hoặc được cấp bằng khen.

Khi khám chữa bệnh cần phải tập trung, gặp người quen đến khám bệnh cũng không nên nói chuyện nhiều. Bình đẳng với tất cả mọi người, đừng để bệnh nhân so bì, nghĩ rằng mình chiếu cố người này nhiều, người kia ít, rồi sanh ra bất mãn. Những người đi khám bệnh, ai cũng nôn nóng mong được về sớm. Nếu người lấy số 1, số 2 mà không được khám cứu, còn người lấy số 6, số 7 lại được châm trước thì làm sao không bực mình. Khi bực mình họ phản ảnh lại, tự nhiên mình mang tiếng không tốt. Bởi vậy nên tất cả tụi con làm việc phải theo đúng trật tự, để giữ uy tín cho Tuệ Tĩnh Đường.

Nơi đây là chỗ mà Sư Ông đã cố gắng tạo mọi điều kiện tốt, để làm việc thiện cho có quy củ nề nếp, trật tự ngăn nắp, vệ sinh... đều sạch sẽ. Chúng ta làm việc này không phải lợi dụng từ thiện để dụ dỗ thiên hạ, mà làm từ thiện bằng tâm chân thật của mình. Như vậy, việc làm này chính là làm vì mọi người, mà đã vì mọi người thì phải công bằng chứ không nên bất công. 

Khi chúng ta làm vừa lòng người này, tự nhiên sẽ mất lòng người kia. Thành ra chúng ta làm từ thiện mà gây bực bội cho người khác, đó là sự bất công. Nhiều khi vì nghèo mà họ không biết đi đâu, nên ráng nhịn chịu đến với mình. Nhưng vô tình chúng ta đã gieo trong tâm họ ác cảm, không vui. Từ đó mọi người đồn đãi nhau, làm ảnh hưởng uy tín của Tuệ Tĩnh Đường. 

Người tu lúc nào cũng để sự công bằng lên trên, sống cho có đạo đức. Tất cả phải nên hết sức cẩn thận. Dứt khoát đừng để xảy ra những vấn đề đáng tiếc. Bất cứ khía cạnh nào chúng ta cũng phải khéo léo chu toàn. Chúng ta nói, thành lập Tuệ Tĩnh Đường là vì lòng thương người. Từ bi thì phải bình đẳng, nếu thiên vị thì không phải từ bi, mà đó là ái kiến. Làm việc tốt phải tốt trọn vẹn, đừng để nó tốt giữa chừng, sau này hối hận không kịp. 

Tất cả tụi con trong công tác nào cũng nhớ ráng làm cho tròn thì uy tín Tuệ Tĩnh Đường Linh Chiếu mới bền vững, lâu dài. Ngày nay Sư Ông còn có mặt nên nhắc tới nhắc lui cho nghe, nếu mai kia Sư Ông nghỉ không làm nữa thì ai nhắc nhở tụi con! Nếu không nghe theo lời dạy, chỉ làm theo ý riêng của mình, đó là tự mình phá hoại công đức, còn mang tiếng không tốt cho đoàn thể nữa. 

Nếu ước tính chi phí của Tuệ Tĩnh Đường trong một năm, chúng ta thật khó kham nổi. Nhưng nhờ vào lòng chân thành của tất cả mọi người, từ trên đến dưới đều hết lòng ủng hộ, lo cho người bệnh. Thế nên tuy chi phí rất nhiều mà sự cung ứng vẫn luôn đầy đủ, không thiếu. 

Khi lập Tuệ Tĩnh Đường, tâm huyết của Sư Ông là muốn tạo phương tiện cho người bệnh vơi bớt đau khổ. Chúng ta không cần người ta đăng báo hay tán thán mình, nhưng chính lương tâm của người thầy thuốc, chúng ta cần phải phục vụ đắc lực. Sư Ông nói để tất cả thấy được việc của mình làm là đúng nghĩa, đúng với chánh pháp. Không vì cầu danh, cầu lợi, chỉ cầu cho người bệnh được chóng lành, được an ổn, đó là tâm hạnh của người xuất gia. 

Ngày nào Sư Ông còn khỏe mạnh, bảo đảm Sư Ông lo cho mấy đứa con không thiếu phương tiện để làm, trừ lúc Sư Ông mệt thì không biết sao, nhưng hiện tại thì tụi con hãy làm hết sức mình, đừng toan tính. Như vậy mới không uổng phí công sức của đại chúng đã gánh vác công tác, dành thời giờ cho mình tạo duyên lành. Đồng thời cũng xứng đáng với tấm lòng của các Phật tử, đã đóng góp cho Tuệ Tĩnh Đường, giúp thiền viện làm công tác xã hội được hoàn mỹ, đem lợi lạc đến cho đồng bào. Nghĩ lại xem, nếu cộng hết từ đầu năm đến cuối năm thì mấy đứa con điều trị được bao nhiêu bệnh nhân? Khoảng mấy ngàn người. Người có bệnh đến mình điều trị, họ hết bệnh mà không tốn kém bao nhiêu. Một năm mình giúp được bao người bớt bệnh, bớt khổ, như vậy cũng đáng mừng rồi. Dù biết rằng có thân là có bệnh, việc cứu giúp đó chỉ là tạm thời, hiện tại thấy mạnh khỏe rồi nhưng mai kia cũng sẽ đau bệnh lại. Tuy nhiên chúng ta vẫn hết lòng điều trị, hầu xoa dịu phần nào nỗi đau cho những người bệnh. Luôn luôn tận tâm tận lực, đó là trách nhiệm của người làm thầy thuốc. 

Điều trị thân bệnh chỉ là cứu người tạm thời, muốn cứu được trọn vẹn thì sao? Là tự mình phải cố gắng tu giải thoát cho chính mình, rồi đem sự tu tập đó dạy lại cho mọi người. Tự cứu mình và cứu người thì việc làm mới trọn vẹn. Tụi con có hai trách nhiệm rất lớn: một là giúp cho người đời vơi bớt đau khổ; hai là tự cứu mình hết khổ muôn đời. Như vậy mới đúng ý nghĩa cứu khổ của đạo Phật.

Mục đích của đạo Phật là làm sao để mình và người không còn sanh tử nữa, chứ không phải ở chỗ chỉ cứu giúp tạm thời mà thôi. Giải thoát sanh tử mới là cứu cánh. Chúng ta thử nhìn lại thời đức Phật có dạy đệ tử đi châm cứu, hốt thuốc hay không? Không có. Phật chỉ dạy tu chứng A-la-hán, tự mình giải thoát rồi sau mới giải thoát cho người. Nhưng với hoàn cảnh bây giờ, chúng ta phải làm thế nào để vừa tu tập, vừa phù hợp với sinh hoạt của xã hội, để dân chúng thấy rằng người tu không phải là kẻ ăn không ngồi rồi. Bởi thế nên chúng ta phải làm việc lợi ích giúp cho người đời. 

Muốn người xung quanh không chê cười biếm nhẻ mình thì tụi con phải cố gắng phục vụ. Mỗi năm số lượng bệnh nhân đến khám cao hơn, chứng tỏ công tác mình làm được tốt cho nên quần chúng mới tín nhiệm tìm tới. Chúng ta thành lập Tuệ Tĩnh Đường không phải bày ra làm lấy có, hay để mình nổi danh. Vì vậy Sư Ông mong rằng mỗi năm Tuệ Tĩnh Đường điều trị được nhiều người lành bệnh hơn, công tác càng ngày càng tốt hơn. Có thế chúng ta mới thật sự giúp người bớt khổ, không hổ thẹn với đời. 

Vừa rồi, có phái đoàn của bệnh viện Định Quán đến Trúc Lâm. Ông giám đốc bệnh viện nói, lúc trước tháp tùng đoàn của Thứ trưởng Bộ Y tế đến thăm Tuệ Tĩnh Đường Linh Chiếu, thấy tổ chức ngăn nắp và chu đáo ông rất hoan hỷ, sau đó có hướng dẫn các vị trong bệnh viện Định Quán tới để học hỏi. Nghe nói tất cả sinh hoạt và điều hành công việc Tuệ Tĩnh Đường đều do Sư Ông sắp đặt, nên ông tìm lên tận thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt thăm. 

Ông trình bày: 

- Chúng tôi lên đây không phải để xin Thầy giúp đỡ về tài chính, cũng không phải nhờ Thầy quảng cáo, mà chỉ có một thỉnh nguyện. Đó là khi nào Thầy có việc đi ngang qua Định Quán, xin ghé qua tịnh xá Bửu Long. Vì ở đây đang mở Tuệ Tĩnh Đường nhưng tổ chức chưa tốt, nhờ Thầy hoan hỷ hướng dẫn sắp xếp giùm, để hoạt động nơi này được trật tự như ở Tuệ Tĩnh Đường Linh Chiếu. 

Qua sự quan tâm của các cấp lãnh đạo trong ngành Y, cho thấy Tuệ Tĩnh Đường của chúng ta tuy không lớn lắm, nhưng có đường lối tổ chức rõ ràng, cơ sở khang trang sạch sẽ, làm việc trật tự, ngăn nắp. Việc điều trị tốt, bệnh nhân đến đây chữa bệnh kết quả khả quan. Do đó tạo được tiếng vang trong xã hội, được nhiều người chú ý tìm đến với tâm hoan hỷ. Vì vậy Tuệ Tĩnh Đường Linh Chiếu không phải quan trọng mà trở thành quan trọng.

Tuy được mọi người quý mến nhưng chúng ta không nên tự mãn, mà cần phải cố gắng nhiều hơn nữa. Mấy đứa con phải hiểu, thành công này là do sự tận tâm và lòng nhiệt tình trong công việc của mình, nên bước đầu có được kết quả đôi chút như thế. Song lâu dài về mặt trị liệu, chúng ta cần phải nghiên cứu sâu hơn, để việc điều trị càng ngày càng đạt kết quả tốt. Về phần tổ chức thì các vị có trách nhiệm trong ban Điều hành phải luôn quan tâm, sắp xếp, gìn giữ sao cho Tuệ Tĩnh Đường lúc nào cũng khang trang, sạch sẽ, ngăn nắp. 

Việc cung cấp nguồn thuốc để đáp ứng cho nhu cầu điều trị vô cùng quan trọng. Điểm đặc biệt ở đây là chúng ta có vườn thuốc ngay trước sân Tuệ Tĩnh Đường, còn các nơi khác thì phòng hốt thuốc và vườn thuốc cách nhau rất xa. Thế nên ban trồng thuốc phải lưu tâm, trồng theo từng chủng loại, cây thuộc loại cao thì trồng theo cao, thấp trồng theo thấp, làm sao nhìn vào vườn thuốc giống như một vườn hoa. Những cây thuốc hay, hoặc người ta cho loại nào mới thì mình cố gắng trồng cho có kết quả. Giả sử có những loại tuy phòng thuốc ít dùng, nhưng người dân cần xài thì cũng trồng để giúp cho dân. 

Tuệ Tĩnh Đường Linh Chiếu toàn là Ni, không có chư Tăng. Cho nên từ việc ngoài vườn thuốc cho đến phơi thuốc, chặt thuốc, sao thuốc v.v... mấy đứa con đều phải tập làm hết. Tự mình đảm đang tất cả mọi việc, việc nào quá sức mới nhờ người làm phụ, còn trong khả năng vừa sức thì gắng làm, như vậy mới đúng tinh thần làm việc thiện. Nếu báo cáo mọi việc do mình đảm trách, mà trên thực tế toàn mướn người vào làm, thì đó chỉ là nói suông mà thôi. Chúng ta phải nhớ, mình làm từ thiện là vì muốn giúp đỡ cho người, chứ không phải vì danh hoặc được người tán dương. 

Ngày xưa khi lập Tuệ Tĩnh Đường, Sư Ông có xin bác sĩ Thời đang làm giám đốc bệnh viện Long Thành, dùng vài thứ thuốc Tây để giải quyết cấp thời cho bệnh nhân. Nhưng ông thẳng thắn từ chốt, vì e rằng người ta thường hay treo đầu dê bán thịt chó, nên ông không dám cho. Điều này cho thấy lúc đó mình chưa đủ uy tín để người tin. Do vậy các vị làm việc phải hết sức cẩn thận. 

Ở đây chúng ta có những thứ thuốc do Phật tử gởi về ủng hộ, nếu bệnh nhân nào cần điều trị thuốc Tây thì cứ cho họ đem về uống chứ đừng bán. Các loại thuốc Đông y phải mua vào để điều trị, thì mình chia lại cho người bệnh với giá gốc. Làm việc nào ra việc ấy, đừng để người ta hiểu lầm, tưởng là của Phật tử gởi về cho mà mình đem bán, không hay. Mục đích của chúng ta làm là để giúp đỡ cho đồng bào, chứ không vì cầu danh, cầu lợi. Thế nên tùy theo khả năng của mình đến đâu làm đến đó, làm được bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu. 

Trên đường tu tuy chúng ta chưa giải thoát sanh tử, nhưng cũng làm được chút việc lợi ích cho xã hội, vậy là tốt. Thế nên tụi con mỗi đứa phải nhiệt tình, nghiên cứu chuyên môn kỹ càng, để công tác mình làm ngày một hoàn hảo hơn, kết quả hơn. Đó là sự mong mỏi của Sư Ông, tụi con nên cố gắng. 

***

Năm 2001 

Qua báo cáo cho thấy công tác Tuệ Tĩnh Đường ngày càng tiến bộ và hiệu quả nhiều hơn. Mỗi tháng Tuệ Tĩnh Đường Linh Chiếu điều trị trung bình khoảng 4.000 bệnh nhân, có tháng lên tới con số 4.800 người bệnh đến điều trị. Số lượng này rất lớn, chiếm gần một phần tư dân số của xã. Vậy là người dân xung quanh thiền viện đa phần khi bệnh có đến đây điều trị. 

Trong số những người đến điều trị bệnh, giả sử tính bình quân mỗi tháng có 30 người hết bệnh, tức là 30 người được hết khổ, vậy là cứ mỗi ngày thì có một người bớt khổ. Bệnh nhân đến để trị bệnh, tức là có kết duyên với chùa. Người ta sớm lành bệnh thì đó cũng là duyên tốt của mình, mình đã gieo duyên tốt thì quả tốt nhất định sẽ đến. 

Sư Ông nhận thấy ban thuốc Nam vì thiếu phương tiện đi lấy thuốc nên thuốc bị thiếu, vậy thì chúng ta phải mua thêm cho đủ thuốc, để việc điều trị không bị trở ngại. Đồng thời Sư Ông cũng có vài lời nhắc nhở thêm. Chúng ta làm thầy thuốc, lại là thầy thuốc của người nghèo, nên dễ có nhiều điều nản chí. Người dân nghèo ăn mặc không được tươm tất, không thơm tho. Vì vậy khi tiếp xúc để trị bệnh tụi con phải khéo léo, không nên tỏ vẻ khó chịu khiến người ta mặc cảm. Gặp trường hợp bệnh nhân không sạch sẽ, mình đeo khẩu trang để giữ vệ sinh, chứ không có tâm khinh thường ai.

Dù bất cứ hoàn cảnh nào, tụi con cũng phải giữ thái độ bình thường, không được đối với bệnh nhân này khác, bệnh nhân kia khác. Người thì mình thong thả hỏi han vui vẻ, kẻ thì mình tỏ ra khó chịu. Như vậy không tốt. Chúng ta là người tu, là người chan rải tình thương của lòng từ bi thì phải có sự hy sinh. Miễn sao người bệnh được phần lợi ích, còn bản thân thiệt thòi một chút cũng không sao. Tụi con đừng nản chí cũng không tỏ vẻ bất bình, như vậy phước báu ngày càng tăng trưởng, bằng không ắt sẽ bị tổn giảm công đức. 

Người có thân bệnh thường khó tính và không được vui vẻ. Nhất là những bệnh nhân nghèo, hoàn cảnh của họ thiếu thốn đủ thứ. Vừa thiếu ăn, thiếu mặc lại thêm bệnh hoạn, quá nhiều cái khổ đến với nọ. Nghèo đã khổ, lại thêm bệnh tật, khổ chồng chất khổ. Nếu mình không giúp được họ, thật là điều đáng buồn. Cho nên chúng ta cần hiểu mà thông cảm, giúp họ qua cơn bệnh khổ. 

Nếu có tiền đem cho vài chục ngàn hay vài trăm ngàn, tiêu xài ít bữa cũng hết. Còn chúng ta giúp họ được khỏe mạnh thì họ có thể làm ra cơm ra gạo, có tiền chi tiêu cho cả gia đình được sống vui vẻ. Tuy chúng ta không trực tiếp giúp đỡ về mặt vật chất trong đời sống, nhưng chính khi giúp họ lành bệnh là đã làm người ta bớt khổ nhiều rồi. 

Mặc dù chúng ta không trực tiếp cho ai tiền bạc, nhưng việc làm này lại có giá trị thiết thực vô cùng. Ở thế gian có gia đình, nhiều lắm cũng chỉ lo được năm mười người mà thôi, đã thế còn chưa chắc chắn con cháu có hiếu cả đời. Nếu thiếu phước, con cháu lớn lên lêu lổng, bỏ nhà đi hoang rồi rầu khổ với nó.

Chúng ta chỉ biết làm tròn bổn phận, điều trị cho người được lành bệnh là đã đạt được mục tiêu rồi, đừng đòi hỏi người khác phải cảm ơn mình. Người ta cảm ơn cũng tốt, không cảm ơn cũng tốt. Không nên nghĩ rằng, người này mất lịch sự quá, mình lo săn sóc cho họ mà họ không một lời cảm ơn, không tỏ lòng biết ơn. Nếu khởi nghĩ như thế thì sẽ sanh tâm chán ngán, không vui.

Làm sao chúng ta vừa tu được, mà cũng vừa làm lợi ích cho mọi người. Trên thực tế chúng ta có thể làm lợi ích chung cho mọi người, mà việc tu của mình cũng không bị ảnh hưởng. Đối với người bệnh, chúng ta không cần tìm ở họ sự nhã nhặn, lễ phép. Vì chính bản thân mình cũng vậy, lúc có bệnh thì bực bội, cau có đủ thứ. Bệnh nhân ở vùng sâu, quê mùa ít học nên không biết phép lịch sự là việc bình thường. Chúng ta cần thông cảm và giúp đỡ họ nhiều hơn. Thầy thuốc phải có tâm bao dung và nhẫn nại, nếu thiếu những đức tính này thì không thể phục vụ lâu bền, việc điều trị cũng không hiệu quả. Tất cả những vị làm Tuệ Tĩnh Đường Linh Chiếu luôn luôn ghi nhớ, chúng ta là thầy thuốc miền quê cho nên phải gần gũi, nghĩ đến người bệnh khổ mà chan rải tình thương, đối xử chu đáo và bình đẳng. Như vậy mới đủ tư cách thầy thuốc, mới xứng đáng là một tu sĩ Phật giáo ra làm việc xã hội, khiến cho đạo Phật càng được quý trọng. 

Sự Ông mong tất cả tận tâm tận lực, vừa làm vừa nghiên cứu thêm. Mỗi đứa lãnh trách nhiệm theo khả năng của mình, phải cố gắng làm tròn bổn phận. Người châm cứu cần nắm vững chuyên môn huyệt đạo, người điều trị thuốc thang phải hiểu rành rẽ dược tính của thuốc, người lãnh phần trồng thuốc thì ráng nghiên cứu tìm thêm các chủng loại thuốc... Vườn thuốc vừa đầy đủ vừa tươi đẹp như một vườn hoa, đừng để chỗ này cây khô, chỗ kia cây chết, chỗ nọ không có thẩm mỹ.

Người ta có bệnh khổ nên tìm đến mình, chúng ta trị bệnh giúp họ vơi bớt đau khổ, bằng cử chỉ thân thiện, nói năng hiền hòa để an ủi họ. Nếu người bệnh tới mà mình lộ vẻ không vui, cư xử không tốt, huynh đệ không hòa thuận... làm người bệnh bực bội thêm thì việc điều trị không lợi ích gì. Dù cho mấy đứa con điều trị hay, nhưng có thái độ không tốt cũng làm giảm uy tín của mình. Vì vậy tất cả các ban cần gắng nhớ tu tập trong lúc làm việc, nhiệt tình lo cho công tác được chu đáo vuông tròn. 

Mỗi ngày làm việc ở Tuệ Tĩnh Đường, tiếp xúc không biết bao nhiêu bệnh nhân, mấy đứa con mới thấm thía lời dạy chí lý của đức Phật, cuộc đời là đau khổ. Khi chứng kiến nỗi khổ của nhiều người, chúng ta không còn tham luyến thân mình, không còn bị mê hoặc bởi ngũ dục nữa. Cho nên làm thầy thuốc chính là cơ hội tốt để ứng dụng tu. Nhận thức rõ ràng hiện trạng của thân, thấy bệnh khổ trước mắt mà quán chiếu thân mình cũng vậy. Lấy đó làm kinh nghiệm để ráng tu.

Điều trị cho lành bệnh là giúp người bớt khổ, nhưng chỉ là bớt khổ tạm thời. Bởi hết bệnh về nhà, nếu lại tiếp tục tạo nghiệp thì cũng gây ra tội khổ nữa. Cho nên, bên cạnh việc giúp giảm đau khổ về thân bệnh ngay hiện tại, chúng ta cũng khéo khuyên bảo bệnh nhân đạo lý. Nhờ nghe hiểu mà họ thức tỉnh, biết hướng tâm tu tập hạnh lành, đó là chúng ta cứu khổ tương lai. 

Nếu chỉ lo điều trị thân bệnh, tức là giúp người bớt quả khổ hiện tại, mà không giúp họ tạo nhân tốt cho mai kia, là mình cứu họ chỉ một thời gian ngắn thôi, tới lúc họ bỏ xác thân này ra đi trong mờ mịt, chúng ta cũng không sao cứu giúp được. Vì vậy muốn cứu giúp người được lâu dài thì phải làm sao cho tương lai của họ tươi sáng hơn. Nghĩa là chúng ta cần đem đạo đến với người bệnh, giúp họ hiểu đạo thì mới gọi là cứu giúp hoàn toàn. 

Do đó, làm thầy thuốc tụi con cũng phải ráng tu, chịu khó nghiên cứu sâu Phật pháp. Làm sao để chính mình thấm nhuần đạo lý, có niềm vui trong đạo rồi đem ra nhắc nhở mọi người, biến lời nói của mình thành thực tế sống động. Mỗi khi tiếp xúc với bệnh nhân, gặp trường hợp nào có thể nói chuyện được thì tụi con đem lời Phật dạy nhắc nhở, để họ chừa bỏ những nghiệp ác, tránh xa điều tội lỗi. 

Nhân việc xem mạch cho thuốc mà chúng ta có thể làm được hai phần: một là cứu khổ hiện tại, hai là cứu khổ tương lai. Những người nhiều đau khổ, chúng ta nói đạo lý họ dễ nghe hơn, còn người đang vui mà khuyên tu thì họ khó nghe. Tụi con làm được như lời Sư Ông dạy, kết quả còn hơn người đi giảng pháp nữa. Bởi giảng pháp nếu vui thì họ nghe, không vui thì bỏ đi. Với kẻ đang khổ, mình giải khổ bằng cách giải thích nguyên nhân gây khổ, khiến cho họ thấm nhuần đạo lý thì họ hết khổ, đó là cái hay. Được như vậy là tụi con làm tròn bổn phận của người tu, vừa là lương y vừa là pháp sư, sống đúng theo tinh thần đạo lý của đạo Phật.

Mục đích của Sư Ông muốn tụi con làm là để gieo duyên với chúng sanh, đem chánh pháp truyền bá đến tận những người đau khổ, giúp họ dần dần hiểu đạo lý mà được an vui. Mỗi người tu chúng ta, đều mong muốn thực hiện bản nguyện lợi sanh, vừa tu vừa làm lợi ích cho mọi người. Điều này mang ý nghĩa rất hay, nhưng không phải dễ thực hiện. Bởi có nhiều người muốn mà không làm được, trong khi ở đây chúng ta thực hiện được, thật là một phước duyên lớn của chúng ta. 

Ban đầu, Tuệ Tĩnh Đường Linh Chiếu mỗi tháng tiếp đón khoảng 1.000 bệnh nhân, hiện nay đã lên đến 4.000 - 5.000 người. Bệnh nhân đến đây mỗi ngày một đông, chứng tỏ việc điều trị tại Tuệ Tĩnh Đường này có kết quả, nên người bệnh mới tin tưởng tìm đến trị liệu. Bệnh nhân đến điều trị càng nhiều thì phí tổn càng lớn, tụi con làm việc nhọc nhằn nên phải hao phí sức lực hơn. 

Mặt khác, bệnh nhiều thì thuốc phải dồi dào để đủ cung cấp, có những thứ thuốc chúng ta không có nên phải mua. Chi phí cao thì tài chính hụt, nhưng đây là phần Sư Ông lo, hụt bao nhiêu thì ráng bù bấy nhiêu, bởi đó là cơ hội tốt để làm Phật sự. Phật tử giúp đỡ để Sư Ông lo cho Tăng Ni, lo cho mọi người, nên Sư Ông tự thấy mình có bổn phận phải làm cho tròn. Như vậy, Sư Ông cùng quý thầy và tụi con đồng công tác làm việc, giúp đỡ những người thiếu phương tiện điều trị ở những nơi khác. Bệnh nhân tin tưởng nơi đây, chúng ta không phụ lòng họ. Vừa ra công, vừa ra của giúp người bệnh được lành. Đây chính là trách nhiệm của Sư Ông và tất cả mấy đứa con. 

Điều quan trọng là dù bệnh nhân đông bao nhiêu thì tất cả tụi con cũng phải làm việc trong tinh thần vui vẻ, không nên lộ nét mệt mỏi. Vì đây là cơ hội tốt cho chúng ta, có người bệnh thì mình mới hốt thuốc điều trị cho họ, cũng như có người xin thì mình mới cho được, chứ không ai xin lấy đâu mà cho. Bệnh nhân được lành bệnh thì đây là công quả của tất cả chúng ta. 

Phật sự của Tuệ Tĩnh Đường này càng tăng thì chúng ta có hai cái vui. Thứ nhất là chúng ta đã gieo được niềm tin với người bệnh, từ một con số rất nhỏ, rất ít mà bây giờ tiến lên rất lớn, rất nhiều. Thứ hai, chúng ta có cơ hội làm những điều phước đức, mỗi ngày bòn thêm một ít phước. Nhờ trị bệnh cho người mà phước đức của mình mỗi ngày mỗi tăng. Như vậy, bệnh nhân càng đông, sở phí càng nặng thì chúng ta càng thấy vui vì đã làm được nhiều điều tốt cho mọi người. 

Tóm lại, từ Sư Ông cho đến quý thầy của tụi con và Ni chúng ở thiền viện Linh Chiếu này, tất cả cùng nhau hợp tác làm việc đạo đức. Đây là việc làm hết sức cụ thể. Cứ hằng tháng có bao nhiêu người hết bệnh là chúng ta đã đem lại sự an ổn cho bao gia đình. Cho nên tất cả phải cùng chung lo, người việc này, người việc nọ để hoàn thành tốt công tác mà mình được phân công.

Sư Ông nhắc lại cho tất cả nhớ, mỗi người khi làm được việc gì thì phải giữ thái độ khiêm nhường, không nên có tâm tự cao. Đừng thấy mình là người ban ân, bệnh nhân là kẻ nhận ân, rồi coi thường mọi người. Trong kinh Phật dạy, người bố thí thấy người nhận thí như là ân nhân của mình, nhờ có người nhận mà người cho mới bố thí được, nếu không có người xin thì làm sao hành hạnh bố thí?

Lúc Sư Ông đi Mỹ thuyết giảng, Phật tử ai cũng vui mừng quý mến. Sư Ông đặt câu hỏi với Phật tử. “Tại sao Thầy sang Mỹ?”. Phật tử ở bên đó trả lời không được, Sư Ông nói: “Vì Thầy thiếu nợ. Bởi lúc Phật tử ở trong nước, cúng dường giúp đỡ cho Thầy lo cho Tăng Ni. Bây giờ Phật tử ra nước ngoài, nợ đó làm sao Thầy trả hết được? Vì vậy Thầy sang nước ngoài giảng dạy là để trả nợ cũ, chứ không có gì hay hết”.

Sư Ông tay không, chẳng có gì cả. Vậy mà trải qua thời gian ngắn Sư Ông làm được bao nhiêu việc, chính là nhờ có tâm khiêm nhường, biết quý trọng mọi người. Thế nên khi muốn thực hiện điều gì, Phật tử xa gần đều thương và hết lòng giúp đỡ. Những người mang tâm ngạo mạn, dù rất có tài cũng không làm được gì ra trò. Tất cả tụi con phải tập đức tính hạ thấp mình và quý trọng người xung quanh. Được như lời Sư Ông nhắc thì công tác Tuệ Tĩnh Đường này sẽ bền bỉ lâu dài, đồng thời phước đức của tụi con mỗi ngày mỗi tăng thêm. 

Chúng ta từ thiện giúp đỡ đồng bào là làm tròn bổn phận đối với xã hội, nhưng việc tu hành vẫn là việc chánh, không thể lơ là. Người tu phải làm việc, bên ngoài thì tạo phước như bắc cầu, bồi lọ, cho người thuốc men v.v... gọi là làm thiện. Bên trong thì ráng tu cho trí tuệ sáng suốt, lòng từ bi ngày càng rộng mở. Đó là phước huệ lưỡng toàn, còn lệch một bên thì sự tu thuộc về tiêu cực, phiến diện, chưa đủ.

Nếu chỉ tu cho tiến về mặt nội tâm mà không giúp ai, không làm lợi người, tức là có huệ mà thiếu phước. Còn một bề làm thiện tích phước mà không lo tu, tức là có phước mà thiếu huệ. Sư Ông thành lập Tuệ Tĩnh Đường, chính là nhằm tạo điều kiện lo cho mọi người. Tuy chúng ta không bắc cầu, bồi lộ... nhưng cho thuốc giúp người được giảm bệnh, đây cũng là một việc từ thiện lớn.

Muốn được đầy đủ đức hạnh thì khi gặp những bệnh nhân khó tính, ưa nhăn nhó nói này nói nọ, tụi con cần tu tập nhẫn nhục. Từ bi phải đi đôi với nhẫn nhục, không thể tách rời riêng được. Những đứa làm công tác Tuệ Tĩnh Đường thấy như thiệt thòi hơn các huynh đệ, vì không có thời giờ để học hành nhiều, lại phải nhẫn nhục với người bệnh, nhưng đó chính là duyên lành khiến cho tụi con tu hành mau tiến, giúp cho sự tu thực tế hơn. Bình thường không ai đụng chạm tới mình, không ai làm mình bực bội thì chúng ta cũng đâu biết được sức tu của mình.

Nội bộ huynh đệ cùng làm việc chung với nhau, trong tinh thần hòa hợp. Phải biết kính thương nhường nhịn, không nên chống đối, cùng hợp tác để làm việc đạo đức, lẽ nào lại không thương nhau. Mỗi khi gặp việc không vui, phải nghĩ rằng mình đã là người tu, tại sao lại còn hờn giận nhau. Đối với người ngoài mình còn thương, huống nữa là huynh đệ trong thiền viện mà lại không thương sao!

Do đó khi làm việc, đối với huynh đệ phải hòa thuận hoan hỷ, đối với người bệnh phải nhẫn nhịn, đừng buồn giận. Nói gì, làm gì cũng nhỏ nhẹ, đừng bao giờ có lời qua tiếng lại, hoặc tỏ thái độ bực bội, cau có quát tháo trước bệnh nhân, khiến họ cười chê: sao mấy cô tu mà không hiền lành. Là những người đại diện cho thiền viện ra để giao tiếp với dân, phải nhớ giữ uy tín cho thiền viện, tránh đừng để người ngoài phê bình, làm giá trị của người tu bị giảm đi, khiến cho bệnh nhân mất lòng tin vào đạo Phật.

Sư Ông mong rằng, càng làm việc từ thiện thì tâm tu hành của tụi con càng mạnh, càng trong sạch. Không vì lý do giúp đỡ người rồi sanh cao mạn. Làm việc thiện, phục vụ cho người bệnh mà tu cũng như đang tụng kinh. Khi tụng kinh, nếu có phiền não dấy lên thì tụi con phải bỏ liền, không để phiền não kéo lôi. Cũng vậy, khi làm việc thiện bất chợt có niệm bực bội dấy lên thì buông liền, không nuôi dưỡng nó. 

Tuệ Tĩnh Đường của chúng ta, mỗi năm chỉ báo cáo cho biết sự hoạt động ra sao, chứ không có khen thưởng tiền bạc gì hết. Người đời cuối năm phải thưởng cái này, cái kia... nhưng ở đây Sư Ông thưởng ba ngày sám hối, cho có phước. Bởi khi làm việc, huynh đệ có lúc vui buồn với nhau, có lúc cũng bực bội với người bệnh. Vậy thì bây giờ rảnh rang, phải lạy Phật sám hối cho tiêu nghiệp, để huynh đệ cùng cảm thông, hoan hỷ thì phước đức mới được trọn vẹn. Như vậy thì hiện tại sự tu hành của tụi con sẽ có kết quả tốt đẹp, mai kia đủ duyên phước sẽ làm được nhiều Phật sự lớn lao hơn.

Sư Ông cố gắng tạo điều kiện tốt rồi, bổn phận của mấy đứa con là phải làm sao cho mọi người tin tưởng, quý kính chùa chiền, quý kính Phật pháp. Sư Ông còn có mặt thì tùy khả năng tới đâu, Sư Ông làm tới đó. Sư Ông đã cố gắng tạo lập cơ sở nhà cửa nghiêm trang, phần còn lại là của tụi con, mấy đứa phải làm cho tròn bổn phận. Đây là điều hết sức cần thiết, mà Sư Ông mong mỏi ở tất cả tụi con. 

***

Năm 2002

Sư Ông có đôi lời tha thiết nhắc nhở tụi con, hàng con và hàng cháu cùng gắng ghi nhớ. Chúng ta luôn nỗ lực tu hành nhưng đối với việc từ thiện cũng phải tận tâm, làm hết khả năng của mình, không mệt mỏi, không chán nản… Sư Ông nói những điều thiết thực cho tụi con thấy, nếu chúng ta quên thân lo làm việc Tam bảo, giúp đỡ người với tâm hoan hỷ thì phước đức của mình không thể lường được, còn kẻ chỉ lo riêng cho bản thân mình thì làm sao có phước. 

Tại sao người tu chúng ta không tự túc tự lo cho bản thân mình, mà phải sống nương vào thí chủ? Bởi vì có hai điều bất lợi: một là lo theo việc làm quá nên quên tu hoặc không có thời giờ để tu; hai là mình ỷ làm ra tiền nên mặc tình muốn làm gì thì làm.

Tại sao Phật dạy người xuất gia phải thọ nhận của thí chủ để nuôi sống thân mạng của mình? Là để chúng ta thấy có bổn phận mà cố gắng nỗ lực tu. Tụi con nghĩ coi, Sư Ông không làm kinh tế tự túc, nhưng mấy đứa con ở thiền viện có đói bữa nào không hay ngày càng sung túc hơn. Sư Ông kinh nghiệm từ bản thân mình, nên dù ở bất cứ trường hợp nào cũng đặt việc tu lên trên. Chúng ta tu hành nghiêm túc, Phật tử mới tin tưởng ủng hộ, còn không thì đâu ai tìm tới.

Như hiện nay chúng ta đã có nhiều thiền viện, mỗi thiền viện đều có số chúng ở tu học không phải ít, nhưng không có nơi nào thiếu gạo ăn, cũng không chỗ nào nhà cửa bị mưa dột khổ sở. Đó chính là nhờ vào sức gia trì của Tam bảo, nhờ chư vị hộ pháp ủng hộ. Ngày xưa Sư Ông còn dạy học ở trường, mỗi tháng được mấy trăm tiền lương, còn bây giờ không đi dạy nữa, không có đồng xu con nào hết, vậy mà vẫn đủ để lo cho Tăng Ni tu học. 

Cho nên tụi con phải tin tưởng, nếu chúng ta tu hành đúng chánh pháp thì Tam bảo luôn luôn gia hộ, hộ pháp cũng không bỏ chúng ta. Tụi con còn nhỏ cứ lo ở yên một chỗ cho thật bền, mai kia tu hành vững vàng rồi thì phước báu cũng đầy đủ theo. Sau này quý thầy của tụi con già yếu, mấy vị lớn rồi cũng ra làm Phật sự, chừng đó mấy đứa nhỏ phải tấn lên để gánh vác Tam bảo. 

Chúng ta làm Phật sự theo nhu cầu cần thiết, chứ tụi con đừng muốn lãnh thêm cơ sở mới. Lãnh thêm một cơ sở mới, tức là phải đưa một số người đi. Cử người trung bình thì làm Phật sự không có kết quả tốt, còn đưa người giỏi đi hết thì thiền viện làm sao đủ người để giữ gìn giềng mối! Chỗ này mình làm chưa xong, mà còn muốn thêm chỗ khác làm gì! Nhận lãnh nơi vắng vẻ tức nhiên phải có người lớn, còn chúng nhỏ mà ở chỗ vắng vẻ thì không thể an tâm được. Hiện giờ tụi con học chưa xong, tu chưa đủ cần phải để tâm cố gắng tu học. 

Người tu có đức hạnh, tự nhiên có người mời thỉnh. Điều đáng lo là mình tu không ra gì, không có đức hạnh. Đừng lo lắng, cứ lo tu và làm việc phước thiện cho đồng bào. Làm tròn hai điều này thì không sợ thiếu gạo ăn. Làm sao ngày nay người ta tốt với mình, ngày mai họ vẫn tốt không thay đổi, như thế mới được. Tụi con thấy, Sư Ông làm được những việc ngoài sự mong mỏi của mình. Chỉ tính nội khu Thường Chiếu này thôi đã bao nhiêu người, rồi Linh Chiếu, Viên Chiếu, Huệ Chiếu, Phổ Chiếu, Chơn Không, Trúc Lâm v.v... cho đến các thiền viện khác trong nước và ngoài nước. Như vậy, làm sao Sư Ông có tiền để làm Phật sự và lo cho Tăng Ni, nhưng Sư Ông vẫn lo được, nên người ta đồn Sư Ông giàu.

Nếu chúng ta không lo tu hành đàng hoàng, không có đức hạnh tốt, mà cứ ngồi toan tính làm ăn mãi thì có được như bây giờ không? Càng lo tính chạy ngược chạy xuôi thì đầu óc càng rối không tu được. Không tu được tất nhiên đạo đức bị tổn giảm, đi xuống hồi nào không hay. Rốt cuộc làm gì cũng không kết quả, như người trồng cây mà không có trái. Việc chính của tụi con hiện tại là làm sao cho Tuệ Tĩnh Đường Linh Chiếu ngày càng phát triển, điều trị bệnh nhân đạt kết quả tốt. 

Tụi con phải nhớ, đây là việc làm chung cho cả thiền viện, chứ không phải việc riêng cá nhân. Bởi đồng bào đến đây điều trị được lành bệnh thì họ mang ơn thiền viện Linh Chiếu, mà mang ơn Linh Chiếu thì tự nhiên người ta có thiện cảm với tất cả các thiền viện. Không những thế, điều này còn đem lại tiếng tốt chung cho cả Phật giáo chúng ta. Cho nên việc làm của tụi con là sợi dây gắn kết từ cá nhân, gia đình, chùa chiền và xã hội. Vì vậy tụi con phải luôn nhiệt tình và tận tâm trong công tác của mình.

Mục Lục