Thiền Tông Việt Nam
Tông Môn Cảnh Huấn 2
20. Thị phi

Một năm qua chư Tăng chư Ni vừa tu vừa làm công tác trong tổ hợp tương, trong khi làm việc chắc chắn có những vui buồn phiền não, cũng như trên đường tu không tránh khỏi những vấp váp dở hay. Hôm nay là ngày cuối năm, chúng ta được nghỉ ngơi, chung vui sau một năm làm việc và tu hành. Nhân đêm Trừ Tịch, tức đêm Giao thừa, tôi mượn lời người xưa cùng chia sẻ việc tu hành với đại chúng.

Thị là phải, phi là quấy. Thiền sư Thạch Ốc Thanh Hồng dạy chúng:

Thuyết thị thuyết phi hà nhật liễu,

Vô minh hải khoát ngã sơn cao.

Tu thân như vị thanh tam hoặc,

Phàm sự tu đương diệt nhất hào.

Nhàn tịnh quang âm không quá liễu,

Hiện thành chúc phạn nhược vi tiêu.

Ân cần thuyết hướng chư thiền khách,

Mạc bả ca-sa hoán vũ mao.

Dịch:

Bàn nói thị phi ngày nào hết,

Biển vô minh rộng núi ngã cao.

Người tu nếu chưa sạch ba nghiệp,

Gặp việc diệt không còn mảy hào.

Thong thả tháng ngày trôi mất biệt,

Hiện thời cơm cháo dễ tiêu sao!

Ân cần nhắn với chư thiền khách,

Đừng đem lông cánh đổi Tăng bào.

Bàn nói thị phi ngày nào hết, biển vô minh rộng núi ngã cao. Người hay nói phải quấy là người vô minh rộng như biển, chấp ngã cao như núi.

Người tu nếu chưa sạch ba nghiệp, gặp việc diệt không còn mảy hào. Người biết tu tâm sửa tánh nhưng chưa sạch được ba nghiệp tham sân si, phàm có việc gì xảy đến phải diệt ngay. Tức là phải khéo bỏ hết không để cho một niệm xấu, niệm ác, niệm tham nào dấy lên. Đó là cốt yếu của sự tu hành.

Thong thả tháng ngày trôi mất biệt, hiện thời cơm cháo dễ tiêu sao! Nếu chỉ nhàn rỗi để ngày tháng trôi qua thì thật vô ích. Như thế hiện thời chúng ta chỉ là những người kém đạo đức, chỉ làm ông Tăng cơm cháo, làm sao tiêu được của thí chủ, làm sao trả nợ đàn-na.

Ân cần nhắn với chư thiền khách, đừng đem lông cánh đổi Tăng bào. Câu này quá nặng, ngài nhắc chúng ta có nhiều phước duyên mới được xuất gia, mặc áo ca sa. Khi đã mặc ca-sa rồi chớ để đời sau phải mang lông mọc cánh. Đời này đã được tu thì đời sau phải tiến cao hơn chứ không được lùi lại. Đừng buông lung lười trễ trong sự tu hành, để rồi phải nợ đàn-na tín thí. Đời này là người tu mà đời sau trở thành loài cầm thú thì thật đau lòng.

Như vậy thị phi chính là gốc tạo tội. Bớt thị phi, bớt nói phải quấy thì bớt vô minh. Chúng ta khen ai là vì người đó nói phải, chê là vì họ nói quấy. Từ phải quấy tới khen chê, rồi thương ghét. Hễ thương ghét thì phiền não, mà phiền não là gốc của vô minh. Chúng ta luôn luôn thấy mình hơn người nên chỉ nhìn thấy cái xấu của người. Thấy cái xấu của họ cũng có nghĩa là tự cho mình tốt, mình hơn người. Nếu biết tu, ta chỉ nên thấy thiên hạ tốt, đừng thấy họ xấu. Nhưng thói thường, khi ngồi lại với nhau thiên hạ hay nói xấu người chứ ít nói tốt. Đó là triệu chứng của bản ngã cao như núi.

Tất cả chúng ta biết đạo lý, biết tu hành thì phải nhắc nhở nhau, những gì làm tăng trưởng bản ngã, tăng trưởng vô minh thì phải tránh. Sở dĩ chúng sanh tạo nhiều nghiệp, luân hồi mãi cũng bởi thị phi. Vì thị phi nên thương ghét. Thương ghét nên tạo nghiệp. Thương thì theo đuổi, ghét thì ruồng bỏ. Bởi thị phi nên thấy người thấp ta cao, ai động tới cũng không dung được. Cho nên người biết tu phải khéo, đừng thị phi công phu mới tiến.

Thật ra thị phi không có lẽ thật, tùy theo cái nhìn của mỗi người mà phân định đúng sai. Người mang kiếng xanh thì thấy sự vật màu xanh, mang kiếng hồng thấy sự vật màu hồng. Mọi sự khen chê đều theo cái thấy cá nhân, phải đâu thật phải, quấy đâu thật quấy. Thí dụ người uống nửa lít rượu là say mèm, người khác uống đến một lít cũng chưa say. Dân uống rượu sẽ khen gã uống được nhiều rượu là giỏi. Dân không uống rượu sẽ chê kẻ ấy nát rượu. Cũng như có hai tên trộm, một tên đêm nào cũng trộm đồ trót lọt, còn một tên trộm hoài không được. Tên không trộm được sẽ khen tên kia trộm giỏi. Những cái khen đó có đạo lý gì đâu. Kẻ uống rượu nên khen người uống rượu, kẻ ăn trộm nên khen người ăn trộm, người đàng hoàng lại chê. Như vậy khen chê tùy thuộc cái nhìn của mỗi người. Không phải uống rượu giỏi là cả thiên hạ đều khen, ăn trộm dở thì cả thiên hạ đều chê.

Người tu chúng ta cũng vậy, Phật tử thấy thì khen quý thầy có duyên có phúc được xuất gia, tu hành thanh tịnh, nhưng cũng có kẻ chê tu hành là tiêu cực bi quan. Rõ ràng khen chê không cố định, vậy mà chúng ta cứ nghe khen chê rồi lệ thuộc vào nó. Được khen thì vui, bị chê thì buồn. Từ đó ta có xu hướng thích gần những người xảo trá nịnh hót, còn người ngay thẳng chân chánh, chỉ bảo những sai lầm cho mình thì lại ghét, tìm cách lẩn tránh.

Ở đây thiền viện có con chó bị ghẻ lở, một thầy thương nên mua thuốc về thoa cho nó. Bị xức thuốc đau nên hễ thấy mặt thầy là nó chạy. Con chó lấy ân làm oán vì nó ngu. Con người khôn ngoan, được chỉ bảo những thói hư tật xấu để sửa đổi thành tốt, lẽ ra phải biết ơn, sao lại bực bội ghét người giúp mình. Người chỉ lỗi thì mình ghét, người nịnh bợ nói không đúng sự thật thì lại thương. Vậy là chúng ta cũng lấy ân làm oán và lấy oán làm ân, rõ ràng mình còn quá dở, tưởng khôn mà không phải khôn.

Người thành tâm tu hành phải luôn cầu xin thầy bạn nhắc nhở những điều xấu dở cho mình sửa đổi để thành người tốt. Nếu cứ sợ, cứ tránh né người hay nhắc nhở, chỉ dạy mình là khờ khạo lắm. Đôi khi người ta khen chê cũng chỉ vui miệng nói thôi, không đúng sự thật. Thí dụ gặp kẻ quê mùa dốt nát nhưng người ta vẫn gọi là tiên sinh. Nói vậy là nói vui thôi, chứ đâu phải khen. Lời nói kia đâu thể làm cho mình trở thành tiên sinh hay biến thành quê dốt.

Chúng ta tu hành, nếu có ai nói mình đạo đức giả liền nổi sân, như vậy đúng là đạo đức giả rồi. Họ nói thì nói, chuyện của mình tự mình biết, sao cứ phải theo lời khen chê rồi vui buồn. Đó là khuyết điểm rất lớn của đa số người tu. Chúng ta phải khéo làm sao đừng để bị kẹt vào chuyện thị phi mới là người có trí tuệ.

Ngày xưa đức Phật còn tại thế, có một Tỳ-kheo ở trong rừng tu hành rất thanh tịnh. Nhiều thí chủ thương đem lương thực tới cúng, trong đó có một thiếu nữ. Cô tới lui thường xuyên nên bị tai tiếng. Vị Tỳ-kheo này buồn quá định tự tử. Khi thầy vừa đưa cổ vào thòng lọng thì bên tai nghe có tiếng nói:

- Tại sao ông muốn chết?

Ngài trả lời:

- Tôi tu hành thanh tịnh mà người ta đồn bậy, tôi nhục nhã quá nên muốn chết cho rồi.

Vị thần hỏi:

- Nếu ông chưa chứng A-la-hán mà người ta nói ông chứng A-la-hán thì ông có chứng được không?

Ngài trả lời:

- Không.

- Nếu ông không phải là kẻ cướp mà người ta nói ông là kẻ cướp, ông có phải kẻ cướp không?

- Không.

- Vậy tại sao ông thanh tịnh mà người ta nói ông không thanh tịnh, ông liền muốn chết?

Nghe xong thầy giật mình, từ bỏ ý định tự tử.

Câu chuyện trên cho chúng ta thấy mình không nên lệ thuộc vào khen chê. Nói thế không có nghĩa là xem thường lời khen tiếng chê rồi mặc tình buông lung, làm những điều sai quấy, người ta nhắc cứ mặc kệ, đổ lỳ ra không ngán sợ ai.

Chúng ta phải biết nhận định trước những lời khen chê. Nếu khen đúng lẽ thật thì nghĩ người đó khuyến khích mình tiến lên. Nếu chê đúng lẽ thật thì biết người đó răn dạy để mình sửa đổi. Với những lời khen chê có giá trị thì ta phải lưu tâm. Với những lời vô nghĩa thì bỏ qua. Cần phải hiểu thấu đáo, không nên hiểu một chiều, nghe bên đây chấp bên kia rồi sanh bệnh.

Ngài Vô Môn Huệ Khai cũng dạy:

Thị phi trường đoản nhĩ biên phong

Thiết mạc ư trung mích dị đồng

Yếu đắc bát phong xuy bất động

Phóng giao tâm địa đẳng hư không.

Dịch:

Thị phi tốt xấu gió bên tai

Trong ấy không nên kiếm dở hay

Muốn cho tám gió đùa chẳng động

Thõng buông tâm niệm đồng Không dài.

Thị phi trường đoản nhĩ biên phong. Nghĩa là nghe phải quấy, hay dở cũng như gió thổi bên tai vậy thôi.

Thiết mạc ư trung mích dị đồng. Thiết là thiết yếu, chớ ở trong đó mà tìm dị tìm đồng. Dị là khác, đồng là giống nhau. Tức là dừng ở trong đó tìm hay dở, phải quấy làm gì.

Yếu đắc bát phong xuy bất động. Cốt là làm sao tám gió thổi không lung lay. Phóng giao tâm địa đẳng hư không. Buông xả tâm mình đồng với hư không, đừng bận bịu tới việc khen chê.

Chúng ta lệ thuộc vào khen chê thì tâm bất an. Khi tâm bất an tám gió thổi tới sẽ bị động, nghe khen nghe chê đều động, cho nên cả ngày không an. Muốn cho tám gió thổi không động thì đối sự khen chê coi như gió thoảng bên tai. Không mắc kẹt vào thị phi thì không phiền não. Phiền não không dấy thì tâm lặng lẽ thênh thang như bầu hư không vậy. Đó là chỗ chủ yếu của người tu.

Chẳng những ngài Huệ Khai nhắc mà Lục Tổ cũng nhắc chúng ta điều này trong kinh Pháp Bảo Đàn:

Nhược kiến tha nhân phi

Tự phi khước thị tả

Tha phi ngã bất phi

Ngã phi tự hữu quá.

Dịch:

Nếu thấy lỗi của người

Lỗi mình đã đến bên

Người quấy ta chẳng quấy

Ta quấy tự có lỗi.

Tổ dạy chúng ta đừng nhìn lỗi của người. Nếu thấy lỗi của người thì lỗi mình đã ở bên cạnh rồi. Tổ dạy phải xoay lại nhìn mình để thấy lỗi mà sửa. Đó chính là công việc của người tu. Cứ lo nhìn lỗi của người thì đâu thấy được lỗi mình, không thấy được lỗi mình thì làm sao sửa. Thấy người làm sai biết rồi thì đừng làm sai như họ. Nếu người nặng nhẹ với mình là họ có lỗi, mình nổi nóng cự lại thì mình lỗi thêm, lại còn chứng minh những điều họ nói là đúng nữa.

Chúng ta còn khờ dại quá. Kẻ khác xấu cứ để cho họ xấu, việc gì ta phải chen vào cho xấu lây. Họ nói mình xấu mà cải chính, biện minh mình tốt thì sai rồi. Nhưng chúng ta cũng đừng hiểu lầm ý Tổ rồi sống tiêu cực, ai lỗi cũng mặc không thèm nói tới. Thiền sinh phải hiểu cho đúng lời dạy của Tổ để ứng dụng tu hành.

Chẳng hạn học trò vì muốn lợi ích cho xã hội, cho dân tộc, nên khi học nó chỉ cắm đầu học, không quan tâm đến ai, không để ý chuyện hay dở xung quanh. Việc học thành tựu rồi mới lo đến chuyện làm lợi ích cho xã hội. Cũng vậy Lục Tổ vì không muốn chúng ta phí thời giờ trong thị phi nên khuyên chúng ta chỉ chuyên tâm lo việc tu hành. Nhìn phải quấy của người khác là tự làm mình động tâm, mà tâm động thì sự tu không tiến.

Chúng ta đọc lại cuộc đối đáp khi ngài Thần Hội yết kiến Lục tổ Huệ Năng.

Tổ hỏi:

- Tri thức từ phương xa nhọc nhằn đến đây, có đem được gốc theo chăng? Nếu có gốc phải biết chủ, thử nói xem?

Sư thưa:

- Lấy không trụ làm gốc, thấy tức là chủ.

Tổ bảo:

- Sa-di đâu nên dùng lời đó.

Sư thưa:

- Hòa thượng ngồi thiền là thấy hay chẳng thấy?

Tổ cầm gậy đánh Sư ba gậy, hỏi:

- Ta đánh ngươi đau hay chẳng đau?

- Cũng đau cũng chẳng đau.

- Ta cũng thấy cũng chẳng thấy.

- Thế nào là cũng thấy cũng chẳng thấy?

- Chỗ ta thấy là thường thấy lỗi lầm nơi tâm mình, không thấy việc phải quấy của người khác. Ấy là cũng thấy cũng chẳng thấy. Người nói cũng đau cũng chẳng đau là sao? Nếu ngươi chẳng đau thì đồng cây cỏ, nếu ngươi đau thì đồng với phàm phu, ắt khởi tâm giận hờn. Trước ngươi nói thấy chẳng thấy là hai bên, đau chẳng đau là sanh diệt. Ngươi không thấy tự tánh mà dám cợt với người.

Sư lễ bái sám hối. Tổ bảo:

- Nếu người tâm mê không thấy nên hỏi thiện tri thức chỉ đường. Nếu người tâm ngộ liền tự thấy tánh, y pháp tu hành. Người đã mê không thấy tâm mình, trở lại hỏi ta thấy cùng chẳng thấy. Ta thấy thì ta tự biết, đâu thế cái mê cho ngươi được. Nếu ngươi tự thấy cũng không thế được cái mê cho ta. Tại sao không tự biết tư thấy, lại hỏi ta thấy cùng chẳng thấy?

Sư lễ bái hơn trăm lạy cầu xin sám hối.

Lục tổ dạy việc chính của người tu là phản quan, tức nhìn lại mình, thấy được mình mới là điều thiết yếu. Thấy người mà quên mình thì không thể tiến tu được. Đây cũng là chủ trương của nhà thiền. Thấy được mình mới biết mình có cái dở để bỏ và sống với tâm chân thật của chính mình.

Như vậy trên đường tu, làm sao đừng mắc kẹt những thứ bên ngoài, mất thời giờ vô ích. Phải nỗ lực xoay lại mình, biết mình từng phút từng giây. Đa số người tu chúng ta hay quên mình mà chỉ lo việc người khác, nên sự tu không tiến. Cổ đức nói: “Thiên niên thiết thọ khai hoa dị, khuyến nhân từ khước thị phi nan”, nghĩa là ngàn năm cây sắt trổ hoa dễ, khuyên người từ bỏ thị phi khó.

Thói thường chúng ta rất hay thị phi do vô minh và chấp ngã quá nặng nề. Phàm kẻ xuất gia phải cố gắng ngăn trừ thị phi để giữ gìn công đức tu hành và tránh ác báo về sau. Người tu hành chân chánh luôn có lập trường vững chắc, không quan tâm đến sự khen chê thương ghét bên ngoài, như lời Lục Tổ dạy: Thương ghét chẳng bận lòng, duỗi thẳng hai chân ngủ. Đó mới thật là người sống đạo.

Mục Lục