Thiền Tông Việt Nam
Tông Môn Cảnh Huấn 2
15. Giảm một tuổi đời, tăng một tuổi đạo

Xuân Nhâm Ngọ - 2002

Hôm nay là ngày đầu xuân năm Nhâm Ngọ, tôi về đây Tăng Ni làm lễ mừng tuổi chúc thọ. Tôi từng nói qua một năm là tuổi thọ rút ngắn lại một tuổi, cái chết đuổi gấp sau lưng, có gì mà mừng! Nhưng bây giờ tôi thấy ý nghĩa mừng tuổi vẫn có giá trị. Tại sao?

Chúc thọ tức là cầu chúc được sống lâu. Người đời có ai bảo đảm mình sống tới bao lâu, nhất là đọc lời Phật dạy: “Mạng sống trong hơi thở”. Sống ngày nay không bảo đảm ngày mai. Như vậy tuổi thọ hay sinh mạng của chúng ta mỏng manh, tạm bợ vô thường, không có gì bảo đảm. Cho nên qua một năm, đến ngày đầu xuân, mọi người đều mừng rằng cha mẹ mình, thầy mình đã sống thêm được một tuổi, không bị vô thường cướp mạng sống trong năm qua, còn kéo dài đến được năm mới. Đó là ý nghĩa mừng sống thêm được một tuổi.

Tăng Ni và Phật tử nên hiểu rằng, đời sống của chúng ta luôn luôn bị quỷ vô thường rình rập, chúng có thể chụp bắt mình bất cứ lúc nào, con người luôn đứng trước những hiểm họa. Vì vậy qua một năm là mừng mình được thêm một tuổi. Nhưng cái mừng ấy phải cộng chung với đức hạnh của chúng ta.

Một năm qua không phải chỉ để thêm tuổi thọ mà chúng ta phải làm được cái gì cho đạo, cho mình để đạo đức tăng trưởng, sự tu hành thêm phần tỉnh giác, sức tự chủ cao. Một năm như thế mới thật sự xứng đáng. Nếu chúng ta mừng thêm một tuổi mà sống vô ích, vô nghĩa thì cái mừng đó không có giá trị gì. Đó là điều Tăng Ni phải nhớ tự kiểm lại đừng để qua một năm mà công phu chưa tới đâu, đến ngày nhắm mắt đạo đức vẫn không thêm chút nào thì thật uổng phí một đời tu. 

Chúng ta là người tu, tự chọn cho mình một con đường thật cao quý tốt đẹp. Bỏ cả gia đình riêng tư, từ giã cha mẹ quyến thuộc để đi con đường tự giác giác tha. Tuy nhiên, không tự giác thì làm sao giác tha được. Cho nên qua một năm mà chúng ta vẫn giậm chân một chỗ, đạo đức không tăng tiến thì thật đáng buồn! Phải làm sao năm này, năm tới, chúng ta vươn lên cho xứng đáng hơn chứ không nên để trôi qua một cách vô ích. Đó là tôi nói ý nghĩa mừng tuổi, tức mừng sống thêm một năm, cũng mừng chúng ta đã làm điều tốt đẹp cho mình, cho mọi người trong một năm qua.

Hôm nay Tăng Ni, Phật tử đều hoan hỷ chúc cho tôi thêm tuổi thọ dài lâu, đó là lòng tốt của quý vị. Nhưng đối với tôi, ai cũng có duyên nghiệp riêng của mình. Làm tròn bổn phận rồi, hết duyên ra đi là một niềm vui. Nếu kéo dài tuổi thọ tới tám chín mươi hay một trăm, chỉ sống để mà sống, e rằng làm nặng thêm cho người xung quanh. Sống như vậy thêm một tuổi cũng vô nghĩa. Chúng ta phải làm sao thêm một tuổi là tăng trưởng đạo đức, thêm một tuổi là tăng trưởng trí tuệ, thêm một tuổi là đem hết sức mình giúp cho mọi người cùng được an vui, tỉnh giác. Thêm tuổi thọ như thế mới xứng đáng, mới không hổ thẹn. Nếu thêm tuổi thọ cho dài lâu mà chỉ làm mối nợ, bắt người khác phải hầu hạ, lo cơm áo cho mình, không làm được trò trống gì thì sống thêm cũng là vô nghĩa.

Tôi mong tất cả Tăng Ni cũng như quý Phật tử có mặt hôm nay phải thấy rõ giá trị cuộc đời của mình. Không phải chúng ta ở địa vị cao sang, ăn ngon mặc đẹp v.v… là có giá trị. Giá trị chính ở chỗ nội tâm mình luôn tỉnh sáng, đối với mọi người luôn chia sớt san sẻ. Với lòng từ bi, chúng ta đem lại cho mọi người sự giác ngộ an vui. Cuộc sống ấy mới có ý nghĩa, có giá trị. Đừng lẩn quẩn vì một hai lý do không ra gì, để rồi một cuộc đời trôi qua hoàn toàn vô ích vô nghĩa, đó là điều đáng buồn.

Với tôi, tuổi thọ dài ngắn không quan trọng mà quan trọng ở chỗ chúng ta biết dùng nó trong mọi hoàn cảnh, mọi trường hợp. Làm sao ta hằng tỉnh hằng giác và khuyên mọi người cùng được tỉnh giác. Người xuất gia tự vui với bổn phận của mình chứ không phải sống chỉ để mà sống. Người đời vì miếng ăn chỗ ở mà giành giật, chống đối nhau, oán hờn nhau, sự sống đó thật vô nghĩa, còn tệ hơn là chết nữa. Mong rằng chúng ta không rơi vào tình trạng bi thảm ấy.

Mọi người phải ý thức được giá trị sống của mình, sống bằng đạo đức, sống bằng giác ngộ từ bi, như vậy mới đáng sống. Sống một năm đáng một năm, sống hai năm đáng hai năm. Chúng ta không nên xem thường mà phí bỏ giá trị của mình. Nếu người tu cứ thả trôi cuộc đời mình theo danh lợi, không tự biết vươn lên, không biết tỉnh giác, thì mọi người sẽ gièm pha, chê trách Phật pháp có những con người sống vô nghĩa, vô giá trị.

Vì vậy, mong rằng sang năm mới này, tất cả Tăng Ni đều thấy rõ mỗi một ngày qua là một ngày quý báu, nên không dám thả trôi để năm tháng qua đi một cách lãng phí, sống xứng đáng là người cầu giải thoát, giác ngộ. Đó là điều thứ nhất tôi muốn nói.

Điều thứ hai, tôi xin nhắc lại cho tất cả Tăng Ni biết rõ trách nhiệm của mình. Như tôi đã nói, chỉ còn một năm nữa là tôi phải nghỉ, tính từ hôm nay thì chỉ còn 364 ngày. Một ngày qua là gần đến chỗ tôi nghỉ ngơi một ngày. Thế thì khi tôi nghỉ, quý vị sẽ làm gì để gánh vác Phật sự tôi trao lại, đó là một trọng trách tôi xin nhắc cho tất cả Tăng Ni nhớ. 

Từ buổi ban sơ tôi lên núi lớn Vũng Tàu cất một cái thất lá để tên Pháp Lạc Thất. Một mình tôi tự vạch ra lối tu, tự cố gắng nỗ lực công phu, không có bạn, không có người cùng chí hướng. Việc làm đơn độc của tôi cay đắng vô cùng, đã mấy lần khóc trước bàn Phật. Tôi nghĩ rằng mình tu sao cứ gặp trở ngại, đang muốn tiến lại phải dừng. 

Ban đầu tôi dùng pháp tu Tứ niệm xứ quán thân bất tịnh, thấy kết quả rõ ràng. Trong kinh có dạy, khi quán tới chỗ thấy thân này quá gớm ghê, chán ngán nó đến muốn tự tử, thì phải chuyển qua quán tịnh. Tôi quán tới lúc thấy chán ngán thân này quá, liền chuyển qua quán tịnh.

Ban đầu, tưởng xẻ xương trán, quán từ xương ngà ngà đến xương tráng, chừng nào cái xương đó sáng ngời có hào quang thì pháp quán tịnh thành công. Tôi theo cách ấy, nhưng quán cái xương trên trán một lúc, tôi nhức đầu bưng bưng chịu không nổi, thế là phải thôi. Trong kinh cũng dạy xẻ ngay sống mũi, khán xương ở sống mũi. Tôi cũng làm thế một thời gian rồi cũng bị nhức đầu chịu không nổi đành bỏ. Trong kinh lại dạy quán ngay ngực, tưởng xé da bày xương trắng ở ngực, quán chừng nào cái xương đó phát hào quang thì thành công. Tôi quán liên tục đến lúc ngực đau nhói không chịu nổi, lại bỏ.

Bấy giờ tôi không biết làm sao nữa, chỉ còn lạy Phật khóc thôi. Không có thầy bạn chỉ dẫn, tu một mình gặp trở ngại không biết làm sao. Tôi khóc mấy lần như vậy. Sau này được duyên tốt chuyển qua tu Thiền tông, thấy rõ con đường của chư Tổ dạy, tôi mới có niềm vui. Tuy nhiên điều đó không phải một sớm một chiều tôi làm được ngay, mà cũng phải cay đắng khó khăn lắm mới được.

Khi đã nắm được hướng đi của Thiền tông rồi năm 1970 tôi mở cửa thất lập tu viện Chơn Không, có 10 huynh đệ tới ở tu với chúng tôi. Tôi phải tự mò mẫm để tìm lối đi, rồi mới hướng dẫn một số ít huynh đệ cùng tu từ đó cho đến ngày nay. Bây giờ, chư Tăng Ni hiện đang tu thiền theo sự hướng dẫn của chúng tôi, trong cũng như ngoài nước tương đối đáng kể. Tôi nói điều này là để tỏ bày cùng tất cả Tăng Ni sự nỗ lực của tôi. Từ con số không, tôi gắng hết sức mình, mở mang hướng dẫn cho nhiều người biết đường lối tu hành là chuyện thật khó khăn vô cùng. Chưa kể gặp những duyên trắc trở bên ngoài, chúng tôi cũng phải cố gắng vượt qua để làm tròn sứ mệnh người đi đầu của mình.

Ngày nay Tăng Ni đông, thiền viện nhiều, trong và ngoài nước đều có. Thiết nghĩ làm việc này không phải tài sức của tôi, mà do tâm tôi tha thiết vì đạo nên được như thế. Nhờ bền chí quyết tâm nên ngày nay mọi việc tốt đẹp vượt cả sự mong cầu.

Thế thì còn 364 ngày nữa tôi nghỉ, việc này ai lo? Ai phải tiếp tục? Đó là vấn đề. Tôi nghĩ rằng tất cá Tăng Ni có mặt tại đây đều phải lãnh trọng trách. Chẳng lẽ gầy dựng, tạo lập được như vậy rồi, khi tôi nghỉ mọi việc theo đó bại hoại sao? Chắc rằng Phật pháp không cho phép điều đó. 

Vậy muốn mai này khi tôi nghỉ, Tăng Ni có thể đứng ra gánh vác Phật sự lớn lao thì bây giờ phải làm gì? Quý vị có thể sống ngày qua ngày tháng qua tháng như vậy gánh vác Phật sự được không, hay phải nỗ lực, quyết tâm trong thời gian một năm này? Làm sao sống cho xứng đáng, tu cho có kết quả, khiến mọi người tin mình, hiểu mình và thấy lược những cái hay của mình, quý vị mới có thể tiếp nối những gì tôi để lại.

Chúng ta muốn làm việc lớn, không phải bỗng dưng nó đến với mình dễ dàng. Nó đòi hỏi mình phải có đủ khả năng, đủ tài đức, đủ ngôn ngữ hướng dẫn chỉ dạy mọi người. Được vậy việc lớn mới thành công. Nên tôi báo trước từ hôm nay, quý vị phải lo chuẩn bị. Không một Tăng Ni nào được nghĩ rằng mình không có trách nhiệm, đã có sư huynh này sư tỷ kia gánh vác. Đừng nghĩ như vậy. Ai cũng phải tự thấy mình có bổn phận, phải chung lo góp sức với các sư huynh, sư tỷ. Phải thấy con đường thầy tổ gầy dựng mở mang rất khó khổ, đến đây chúng ta có bổn phận tiếp nối gìn giữ, mở mang ngày càng rộng lớn hơn.

Muốn thế sự tu hành của quý vị ngày càng phải đắc lực. Nếu cứ thả trôi cầm chừng thì mai kia khi tôi buông tay, sự nghiệp này sẽ rã từ từ. Như vậy tội lỗi quý vị thật lớn vô cùng! Cho nên tôi ân cần nhắc nhở Tăng Ni phải chuẩn bị trước. Một năm qua rất mau, quý vị phải ráng làm sao hiểu cho thấu những gì Phật dạy Tổ dạy, làm sao đạo lực mình ngày càng tăng trưởng, gieo được lòng tin nơi Phật tử xung quanh. Đừng bao giờ coi thường việc gì, phải tự kiểm điểm mình sao cho thật xứng đáng. Như vậy mới kham gánh vác Phật sự. Đó là chỗ tôi mong mỏi.

Tại sao tôi bắt quý vị phải đi đúng hướng? Bởi vì nếu hướng đi tôi vạch ra sai thì tự nó đã tan rồi. Nhưng ngày nay, từ con số không đã có những thành tựu lớn, chứng tỏ đó là hướng đi hợp thời, nên chúng ta phải nuôi dưỡng, làm cho tăng trưởng. Tôi tin chắc rằng nếu tất cả quý vị trung thành, chân thật, đi đúng đường hướng tôi chỉ dạy thì Phật pháp của đất nước mình sẽ được mở rộng hơn. Chẳng những mở rộng trong nước mà còn có thể lan rộng ra xứ ngoài. 

Trước kia tôi là người nhiều mặc cảm. Sống trong thời đất nước bị lệ thuộc, tôi thấy dân mình khổ sở vô cùng, bị khinh miệt, bị sỉ nhục đủ điều. Tới khi vào đạo, tôi thắc mắc tại sao xứ sở mình đã có đạo Phật từ thế kỷ thứ 2 thứ 3, mà ngày nay Tăng Ni cứ phải qua nước này nước kia học, còn đạo Phật nơi xứ mình thì không biết gì?

Việt Nam có Thiền tông hơn ngàn năm, trong khi đó Tăng sĩ Việt Nam phải đi xứ ngoài học. Những người ngoại quốc muốn tìm học thiền đều sang các nước khác, đến Việt Nam không có gì để học. Đạo Phật Việt Nam đã có gốc, có chỗ tựa vững vàng từ thuở nào, chúng ta là con cháu lại phủ phàng bỏ quên, cứ tìm học nơi khác. Như vậy có tủi nhục không?

Cho nên tôi muốn Phật giáo Việt Nam có một chỗ đứng thật vững vàng. Làm sao cho người nước ngoài khi tìm hiểu đạo Phật, thấy Tăng sĩ Việt  Nam rất đáng quý kính, không thể coi thường. Ngày nay, tuy chưa làm được bao nhiêu, nhưng tôi thấy rõ sự cố gắng của mình cũng có kết quả đôi phần. Những người nước ngoài tìm tới các thiền viện chúng ta học thiền. Họ còn muốn giúp mình lập thiền viện ở nước ngoài. Đây là một vài tia sáng đáng mừng cho đạo Phật Việt Nam nói chung, cho Thiền tông Việt Nam nói riêng.

Tuy nhiên, việc làm của tôi chỉ là một chặng đường ngắn, chuyện dài lâu về sau là trách nhiệm của Tăng Ni hiện giờ. Quý vị phải thấy cái hay đẹp của chư Tổ Việt Nam. Các ngài đã tu, đã chứng ngộ, ngày nay chúng ta cũng phải ứng dụng tu cho có kết quả như thế, rồi đem cái hay đẹp đó chỉ dạy lại cho con cháu, cho những ai ở ngoài muốn hiểu, muốn biết Phật giáo nước mình. Như vậy mới làm rạng rỡ tông môn, mới xứng đáng là người tu sĩ của Phật giáo Việt Nam. Nếu chúng ta tu mà không biết mình tu tới đâu, tu ra sao thì đâu đủ tư cách hướng dẫn ai. Là Tăng Ni Việt Nam mà hỏi đạo Phật Việt Nam dạy gì, tu như thế nào cũng không biết, đó là một tủi nhục lớn!

Con đường tôi chuẩn bị cho quý vị đi là con đường rất xa rất dài. Tăng Ni phải cố gắng sao cho đủ nghị lực, đủ khả năng để tiến lên. Không được để cho sự nghiệp của thầy tổ gầy dựng mai một, không được để cho cỏ mọc rêu phủ, khiến con đường thiền tông bị mọi người lãng quên. Tôi mong tất cả Tăng Ni hiểu rõ trách nhiệm mình, nắm vững và thực hiện cho bằng được, đừng lơ là như trước kia.

Hôm nay, trước khi trao trách nhiệm lớn cho Tăng Ni, tôi đã chuẩn bị tinh thần cho quý vị trước. Quý vị không còn ỷ lại, không trông chờ ai, mà mỗi người phải tự thấy bổn phận của mình, cùng đứng ra chung vai gánh vác việc lớn, đó là điều thứ hai tôi muốn nói. 

Điều thứ ba, tôi nhắc lại những cái hay của đạo Phật cho Tăng Ni hiểu rõ để đừng lầm lẫn. Đây là điểm lâu nay chúng ta còn phân vân, chưa phân định rõ ràng. Người đời thường gọi những nhà trí thức là học giả, bác học. Hàng trí thức, học giả, bác học được người đời quý trọng. Chúng ta ở trong đạo, có phải là người trí thức không? Nếu không là người trí thức thì là người gì, có danh từ nào dành cho chúng ta không? Đây là vấn đề cần phải nắm vững. 

Trong đạo Phật, không chú trọng trí thức mà chú trọng trí tuệ, không nói học giả mà nói hành giả, không nói nhà bác học mà nói người được trí tuệ vô lậu. Trí thức là do ý thức nhanh nhẹn, khéo léo so sánh phân biệt, đối chiếu rành rõ, khiến người nghe dễ nhận dễ hiểu. Học giả thì góp nhặt, tích lũy những hiểu biết hay lạ của người khác cho đó là kiến thức của mình. Những nhà bác học nghiền ngẫm, tìm kiếm rộng rãi trong các ngành triết học, khoa học... nghiên cứu phát minh thêm những sáng tạo mới.

Như vậy, những nhà trí thức, học giả và bác học nhắm thẳng vào ý thức sanh diệt, tìm tòi lượm lặt từ bên ngoài, chứa nhóm thành kiến thức của mình, rồi sử dụng trở lại những kiến thức ấy. Tất cả những hiệu dụng đó đều nhắm vào điều kiện vật chất, lo cho thân này cảnh này đời sống này mỗi ngày mỗi sung túc, tốt đẹp, giàu có hơn. Đó là lo trên phương diện sanh diệt, được rồi sẽ mất. 

Ngược lại người học Phật lấy trí tuệ làm gốc. Trí tuệ trong đạo Phật có chia ra hai phần: một là trí tuệ hữu lậu, hai là trí tuệ vô lậu. 

Trí tuệ hữu lậu là gì? Là văn, tư, tu. Văn tức là học. Học cái gì? Học những lời chân thật Phật chỉ dạy về lẽ thật của con người, lẽ thật của cuộc đời. Chúng ta học để thấy được chân lý của con người và của muôn vật. Khi học rồi, chúng ta nghiền ngẫm cho tới nơi tới chốn, hiểu rõ tường tận vấn đề, đó là tư. Sau đó ứng dụng tu hành bằng cách thấy đúng như thật chân lý Phật đã dạy, tâm không nhiễm, không dính mắc các pháp sanh diệt bên ngoài, đó là tu. Việc tu học này còn ở trong vòng sanh diệt nên gọi là trí tuệ hữu lậu, tức còn rơi rớt trong luân hồi sanh tử.

Trí tuệ vô lậu là gì? Là giới, định, tuệ. Giới là phương tiện ban đầu để câu thúc, không cho tâm phóng túng. Từ giới sanh định, từ định sanh tuệ, trí tuệ này không do học mà có, do chúng ta ứng dụng tu. Đức Phật đã thấy nơi mọi chúng sanh sẵn có tánh giác. Chúng ta không cần tìm kiếm bên ngoài mà phải xoay nhìn lại mình, dẹp bỏ những lăng xăng của ý thức cho tâm được an định. Tâm an định, ý thức lăng xăng lắng xuống thì trí tuệ chân thật của chính mình, cũng là tánh giác của chúng ta sẽ hiện bày tròn đủ.

Người tu học bỏ ra, còn người đời học thu vào. Hai bên khác nhau chỗ đó. Người thế gian góp nhặt những kiến thức của kẻ khác để làm phong phú thêm hiểu biết của mình. Ngược lại, người tu đạo loại bỏ hết những lăng xăng của tâm thức, tâm được an định thì tánh giác hiện bày. Được trí tuệ vô lậu, chúng ta sẽ không còn rớt lại, không còn chìm trong luân hồi sanh tử nữa.

Hằng ngày chúng ta ngồi thiền là để làm gì? Đó là một phương pháp để nhận lại trí tuệ sẵn có nơi mình. Thật ra, trí tuệ vốn sẵn tự sáng, đạo Phật gọi đó là ông Phật chính mình. Giác ngộ là Phật tức từ tánh giác đó sáng ra chứ không từ đâu khác.

Người thế gian đi chỗ này chỗ kia học bao nhiêu năm, lấy bằng cấp này bằng cấp nọ, lượm lặt của người làm của mình, nhưng không có gì thật là của mình hết. Người tu gạt bỏ tất cả những thứ bên ngoài, để cho tâm trong sáng, rồi tự nó thấu suốt tất cả, đó là cái thật của mình. Cái thật này ai cũng có, mà lâu nay chúng ta bỏ quên, vì bỏ quên nên trở thành kẻ khờ dại ngu si đi trong luân hồi muôn kiếp. Ngày nay nếu biết trở lại sống với cái chân thật nơi mình thì dòng luân hồi ngang đây chấm dứt.

Như vậy, sự tu học của chúng ta là việc làm phi thường, thế gian không bì kịp. Song nhiều khi chúng ta lại xem thường, ham học cái sanh diệt của người, mà quên nhận lại cái không sanh không diệt của chính mình. Đức Phật Bổn Sư Thích Ca ngồi dưới cội bồ-đề đến đêm 49 thì giác ngộ. Khi giác ngộ viên mãn, Ngài tuyên bố thành Phật và nói: “Ta học đạo không có thầy”. Ai dạy cho Ngài được giác ngộ? Chính vì tâm an định nên Ngài tự sáng ra, không do ai dạy.

Tăng Ni có ai vô phần về việc này không? Mọi người đều có phần. Có phần tức có đủ điều kiện để giác ngộ. Thế nhưng chúng ta cứ thả trôi, để bao nhiêu thứ phiền não che phủ, khỏa lấp, rồi cứ thế mà đi mãi trong luân hồi. Ngày nay đủ phước đủ duyên, chúng ta biết được phương pháp ứng dụng tu thì phải ráng nỗ lực tu hành, mới xứng đáng là bậc xuất trần thượng sĩ. Đó là điều tôi muốn nhắc cho Tăng Ni nhớ, đừng xem thường những giờ tu của mình.

Khi ngồi yên lặng không phải là tiêu cực, vô ích mà là để buông bỏ những mê mờ đang che phủ tánh giác. Khi mê mờ lặng dứt thì tánh giác sáng ngời, chừng đó chúng ta mới thấy chỗ cứu cánh của Phật dạy vượt hơn mọi giá trị thế gian. Những vị giảng hay chưa hẳn là giải thoát vì mới có trí tuệ hữu lậu, chưa phải là trí tuệ do định sanh.

Vì vậy trên đường tu, phải đi từng bước thứ tự rõ ràng mới tới kết quả viên mãn. Nếu chỉ tu lơ là cho có hình tướng, rồi cũng ăn cũng mặc, cũng vui chơi bình thường như người đời thì đời tu không có giá trị gì. Nên biết tâm chí tu hành của chúng ta hết sức siêu việt, chứ không phải tầm thường, vậy mà có nhiều người vì sự ăn, sự mặc mà phiền não suốt đời, tạo bao nhiêu thứ phiền lụy cho mọi người xung quanh. Thật là đáng tiếc, thật là đáng thương!

Có nhiều Phật tử được chư Tăng giáo hóa, hiểu được ý nghĩa cao siêu của người tu, họ quá quý nên gặp chư Tăng liền đảnh lễ. Nhiều người địa vị xã hội rất cao hoặc tuổi tác trưởng thượng đáng ông bà cha mẹ, mà lạy chư Tăng còn nhỏ tuổi không hề thấy khó chịu, vì họ quá quý lý tưởng của Phật tổ dạy, quá quý sự tu hành siêu việt. Vậy mà chúng ta không chịu tu, khi họ lạy mình có xấu hổ không?

Nếu người ta đảnh lễ mà tâm mình đang chạy ngược chạy xuôi xóm này xóm kia, lúc đó có tội không? Quý vị phải nhớ, đừng tưởng người ta lễ là mình mừng. Chính đó là điều khiến chúng ta càng xấu hổ khi thấy sự tu của mình chưa ra gì. Nhận người đảnh lễ thì phải trả xứng đáng, chứ không thể nào nhận mà không trả. Nếu ta nhận sự cung kính cúng dường của người mà không trả lại được bằng đạo đức, bằng sự tu hành chân chánh thì đời sau phải làm tôi đòi để trả nợ cũ. Họ sai bảo hoặc leo lên lưng cỡi chứ không phải chuyện chơi.

Tôi nhắc nhở để cho Tăng Ni đừng tự xem thường mình. Phải làm sao khai thác cho được cái cao siêu quý báu của mình, để khỏi tủi hổ làm người xuất gia mà không có chút gì cao thượng, không chút gì xứng đáng. Thực tế Tăng Ni đâu phải vì thiếu cơm ăn áo mặc mà vào chùa, đâu phải vì khổ đau quá chịu không nổi mà vào chùa. Chúng ta vô chùa là có lý tưởng, bỏ hết những gì phàm tục, tìm cái cao siêu trong đạo, nếu không tu thì một đời trôi qua uổng biết chừng nào!

Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở, tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu, ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình. Chúng ta bỏ cha mẹ, bỏ thân bằng quyến thuộc đi tu, thì phải làm sao cho xứng đáng là người tu, chứ đừng mượn hình thức tu mà tâm vẫn phàm tục. Người tu phải làm sao đền đáp được công ơn cha mẹ, thầy tổ, đàn-na thí chủ, không thể tu cầm chừng qua ngày qua tháng, rốt cuộc chỉ là một thầy tu rỗng, lại mang nợ thiên hạ, điều đó thật đau xót!

Mong tất cả quý vị nghe rồi cố gắng tu cho được trí tuệ vô sư viên mãn.

Mục Lục