Thiền Sư Việt Nam
TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ TRẦN TUNG (1230 - 1291)
Thượng Sĩ là con đầu của Khâm Minh Từ Thiện Thái Vương Trần Liễu, là anh cả của Hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Khi Đại vương mất, Hoàng đế Trần Thái Tôn cảm nghĩa phong cho Thượng Sĩ tước Hưng Ninh Vương. Lúc nhỏ, Thượng Sĩ đã tỏ ra bẩm chất cao sáng, thuần hậu có tiếng. Được cử trấn giữ quân dân đất Hồng Lộ, Ngài đã hai lần ngăn giặc Bắc xâm lăng, có công với nước, lần hồi được thăng chuyển giữ chức Tiết độ sứ trấn cửa biển Thái Bình. Về con người, Thượng Sĩ vốn khí lượng thâm trầm, phong thần nhàn nhã. Lúc còn để chỏm, Ngài đã chuộng cửa Không. Đến tham vấn Thiền sư Tiêu Dao ở tinh xá Phước Đường, Ngài lãnh hội được yếu chỉ, bèn dốc lòng thờ làm thầy, lấy Thiền duyệt làm cái vui hằng ngày, không lấy công danh làm chỗ sở thích, Ngài lui về ấp Tịnh Bang do Vua phong cấp cho, đổi tên lại là làng Vạn Niên. Trộn lẫn thế tục, hòa cùng ánh sáng, trong việc đối xử Ngài chưa hề phụ lòng ai, nhân đó tiếp mạnh hạt giống pháp, dìu dắt được người sơ cơ. Người nào đến hỏi han cũng được Ngài chỉ cho chỗ cương yếu khiến tâm tánh họ ứng dụng được nhẹ nhàng, khi hành cũng như lúc tàng, không gì nhất định cả. Từ lâu, nhà vua nghe đồn đãi về Ngài bèn cho sứ thỉnh vào cửa khuyết. Ngài hầu chuyện lời lời đều tỏ ra siêu tục, nhân đó Vua tôn Ngài là Sư huynh, tặng cho hiệu Thượng Sĩ. * * * Một hôm, có vị Tăng đến hỏi: - Bạch Thượng Sĩ, tôi vì sanh tử là việc lớn, vô thường nhanh chóng, song chưa biết thân này từ đâu sanh ra? Chết sẽ đi về đâu? Ngài đáp: - Giữa trời dù có đôi vành chuyển, (Trường không túng sử song phi cốc, Lại hỏi: - Thế nào là đạo? Ngài đáp: - Đạo không có trong câu hỏi - Cổ nhân nói: “Không tâm tức là đạo.” Đúng chăng? - Không tâm chẳng phải đạo, Nếu họ nói “Không tâm là đạo” thì tất cả cây cỏ đều là đạo cả sao? Bằng ngược lại nói “Không tâm chẳng phải đạo” thì cần gì nói có không? Lắng nghe ta nói kệ đây: Vốn không tâm không đạo, (Bản vô tâm vô đạo Vị Tăng chợt nhận ra ý chỉ, xá lạy lui ra. * Có vị Tăng hỏi: - Bạch Thượng Sĩ, thế nào là đại ý Phật pháp? Ngài đáp: - Đầu trạnh vỗ sóng mắt sâu bọ (Ngao đầu đả lãng tiêu minh nhãn Lại hỏi: - Như vậy, người học nhân đâu vào được chỗ đầu? Ngài đáp: - Gãi ngứa phải đâu người khác ngứa - Thế nào là Thanh tịnh Pháp thân? - Ra vào trong vũng nước trâu - Thế ấy thì không thể chứng nhập? - Không có niệm nhơ bợn tức Pháp thân thanh tịnh. Hãy nghe ta kệ đây: Xưa nay không dơ sạch (Bản lai vô cấu tịnh * Lại hỏi: - Tổ Qui Sơn nói: “Trăm năm sau, Lão tăng sẽ xuống núi làm con trâu nước”, ý muốn nói gì? - Lúa nếp đỏ kêu thừa anh võ hột (Hồng đạo vịnh tàn anh võ lạp Xưa Thái tử Tất-đạt-đa vào miếu thần, tượng thần sụp xuống lạy dưới chân, việc ấy thế nào? - Nắm xòe vẫn một bàn tay - Ngài Nam Tuyền bán mình(2), ý ấy là sao? - Còn lúc Ngài chưa bán mạng thì ý ấy là sao? Vị Tăng không đáp được. Sư hét, đuổi ra. * Một vị Tăng hỏi: - Hòa thượng Thủy Lạo lần đầu tiên đến tham bái Mã Tổ hỏi về ý nghĩa việc Tổ sư Đạt-ma từ Ấn sang, Mã Tổ đạp cho một đạp té nhào. Thủy Lạo lồm cồm ngồi dậy, chợt tỏ ngộ ngay, vỗ tay cười hả hả. Ấy là nghĩa gì? Ngài đáp: - Cái đạp của rồng voi chẳng phải sức lừa chịu nổi. Lại hỏi: - Sau đó Thủy Lạo còn nói với học trò rằng từ lúc ăn cái đạp của Mã Tổ đến nay, ông ta cười mãi không thôi. Thế lại là nghĩa gì? Ngài đáp: - Thực là tiếng gầm hống của loài sư tử - Tôi không hiểu. Ngài bèn đọc bài kệ chỉ cho: Một đạp ngã nhào, (Nhất đạp đạp đáo Vị Tăng xá lui ra. * Vị Tăng khác hỏi: - Bạch Thượng Sĩ, lời xưa nói: “Xanh xanh trúc biếc thảy là Pháp thân”, có đúng chăng? Ngài đáp: - Sa-di ăn măng rừng bữa trước Lại hỏi: - Còn câu nói “Rậm rậm hoa vàng đều là Bát-nhã” là ý nói gì? - Hoa đào đâu phải cây bồ-đề Lại hỏi: - Có ba vị Tăng đi hành cước giữa đường gặp cọp, người nào cũng né qua một bên mà đi. Bấy giờ như thế nào? Ngài đáp: - Gió thổi ngại gì đám hoa rậm (Phong xuy bất ngại hoa gian mật Lại hỏi: - Lúc ấy Qui Tông nói “Giống tợ con mèo”. Đó là ý gì? - Miệng nói không phải tự mình gặp. - Còn ngài Trí Kiên nói “Giống tợ con chó”. Đó là ý gì? - Lão ấy nắm được thời cơ gom quét sạch hết, nhưng có điều đáng tiếc. - Còn Ngài ý thế nào? - Con chó. - Đến Sư Nam Tuyền nói “Đó là một con cọp”. Ý chỉ thế nào? - Gót chân chẳng chấm đất. * Tăng hỏi: - Thế nào là Pháp thân? Ngài đáp: - Bên ao thấy hai cái, - Pháp thân với Sắc thân giống nhau? Khác nhau? - Gươm mang hiệu long tuyền * Tăng hỏi: - Phật Thế Tôn nói: “Suốt bốn mươi chín năm, ta chưa từng nói một chữ.” Vậy mười hai phần giáo từ đâu mà được? Ngài đáp: - Hơi xông khỏi hộp mong khôi phục, - Thế nào là Phật của chính mình? - Chẳng đến rượu bồ đào, - Phải hiểu thế nào? - Nhà lớn một đêm ngủ, - Thế nào là tâm của cổ Phật? - Trọn nói khắp thành không quốc sắc, - Cổ nhân nói “Tức tâm tức Phật”, mà sao không hiện trước mắt? - Phanh trai tìm ngọc dù khó gặp, * Dám hỏi: - Thế nào là gia phong của Thượng Sĩ? Ngài đáp: - Rảnh, ném trái rừng kêu vượn tiếp, (Nhàn phao nham quả hô viên tiếp, Lại hỏi: - Tổ ý và giáo ý là đồng hay khác? Ngài đáp: - Sóng, nước tên tuy khác, - Bồ-đề với phiền não, khác nhau, giống nhau thế nào? - Trong nước có vị muối, - Thế nào là nghiệp sanh tử? - Sương thu lác đác bờ lau (Sương thu trích trích lô hoa ngạn Lại hỏi: - Ngài Dật-đa (Di-lặc) không tu định tuệ thì làm sao thành Phật được? Ngài đáp: - Đào đỏ trên cây thời tiết đúng (Hồng đào thọ thượng chân thời tiết - Khi ngồi thiền tập định thì thế nào? - Vua chúa xuống xe chọi ếch nhái. - Khi không ngồi thiền tập định thì thế nào? - Thuyền Phạm Lãi sông hồ vui thú. * Có vị Tăng hỏi: - Kinh nói: “Muốn đạt đến con đường vô sanh, cần biết rõ cội nguồn.” Thế nào là cội nguồn? Ngài đáp: - Tìm nguồn chẳng có cội, Lại hỏi: - Trong kinh nói: “Không tức là sắc, sắc tức là không”, ý ấy thế nào? Ngài im lặng giây lâu, rồi hỏi lại: - Ông hiểu chưa? - Chưa hiểu. - Ông có sắc thân chứ? - Có. - Sao nói sắc tức là không? Ông thấy “cái không” có tướng mạo gì không? - Không. - Sao nói không tức là sắc? - Rốt cuộc là thế nào? - Sắc vốn không không, không vốn không sắc. Vị Tăng lễ tạ. Ngài nói: - Nghe kệ ta đây: Sắc tức không không tức sắc, (Sắc tức thị không không thị sắc, * Ngày kia, Thái hậu mở tiệc thịnh soạn. Ngài dự tiệc gặp cá thịt cứ ăn. Thái hậu thấy lạ hỏi: - Anh tu thiền mà ăn cá thịt thì thành Phật sao được? Thượng Sĩ cười đáp: - Phật là Phật, anh là anh. Anh chả cần làm Phật, Phật chả cần làm anh. Thái hậu chẳng nghe Cổ đức nói: “Văn-thù là Văn-thù, Giải Thoát là Giải Thoát” đó sao? Khi Thái hậu qua đời, nhà vua cúng chay ở cung cấm. Nhân lễ khai đường, Vua thỉnh các vị Tôn túc bốn phương mỗi vị làm một bài kệ ngắn trình bày chỗ kiến giải của mình. Kết quả bài nào cũng quến sình ủng nước, chưa tỏ ngộ. Nhà vua bèn trao giấy mực cho Thượng Sĩ. Thượng Sĩ viết một hơi bài tụng tự thuật: Kiến giải trình kiến giải, (Kiến giải trình kiến giải, Nhà vua vừa đọc xong bèn phê tiếp theo sau: Rõ ràng thường tự tại, (Minh minh thường tự tại, Thượng Sĩ đọc, thầm nhận đó. * Sau Vua kém vui, Thượng Sĩ viết thơ hỏi thăm bệnh tình. Vua đọc thơ, trả lời bằng bài kệ như sau: Hừng hực hơi nóng mồ hôi toát, (Viêm viêm thử khí hãn thông thân Thượng Sĩ đọc kệ than thở giây lâu. Đến khi nhà vua nhuốm bệnh nặng, Thượng Sĩ khấp khểnh về kinh trước để chịu tang, nhưng Vua đã qui tiên mất rồi. * Thượng Sĩ với tư cách một cư sĩ thọ Bồ-tát giới, sống đúng theo tinh thần Thiền nên tâm tư rất phiêu dật phóng khoáng. Những điều luận bàn huyền diệu của Ngài, cũng như câu chuyện gió mát trăng thanh, hàng thạc đức đương thời đều kính trọng. Sau, bệnh sơ sài, Ngài không nằm ở phòng riêng, mà nằm ở Dưỡng Chân Trang. Tại đây, giữa nhà trống, Ngài kê một giường gỗ, nằm theo phép kiết tường, mắt nhắm xuôi. Các người hầu hạ và thê thiếp khóc rống lên. Thượng Sĩ mở mắt ngồi dậy, sai lấy nước rửa tay súc miệng, đoạn quở nhẹ rằng: - Sống chết là lẽ thường, sao buồn thảm luyến tiếc chi mà làm não Chân tánh ta. Dứt lời, Ngài êm thấm mà tịch. Bấy giờ nhằm niên hiệu Trùng Hưng thứ bảy (1291) đời Trần Nhân Tông, năm Tân Mão, ngày mùng một tháng tư, Ngài thọ sáu mươi hai tuổi. Vua Nhân Tông nhớ ơn Ngài dạy dỗ, sai thợ vẽ chân dung để thờ và lấy đạo của Ngài truyền cho mà tuyên dương, lập nên phái Trúc Lâm. * Những tác phẩm của Ngài còn lưu lại khá nhiều, ở đây lược chép một ít tác phẩm quan trọng. (1) Hai câu thơ trong khúc Thu hứng của thi hào Đỗ Phủ, dùng theo phép đảo ngữ. (2) Nam Tuyền ngày kia bảo Tăng chúng: “Vương lão sư bán mình, có ai mua chăng?” Một vị Tăng đáp: “Con mua.” Sư nói: “Giá bán ông ta không quí cũng không mạt, Thầy làm sao mua được?” Vị Tăng không đáp được. (3) Thiền sư Linh Vân ở chỗ Tổ Qui Sơn lâu năm không ngộ, một hôm nhân nhìn xem hoa đào nở chợt ngộ làm bài kệ: Tam thập niên lai tầm kiếm khách (4) Bản lai diện mục. Mục Lục
|
Thiền Sư Việt Nam
|
Thiền sư Pháp Hiền (? - 626) (Đời thứ 1, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Thanh Biện (? - 686) (Đời thứ 4, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Định Không (730 - 808) (Đời thứ 8, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Vô Ngôn Thông (? - 826) (Tổ khai sáng dòng Thiền Vô Ngôn Thông ở Việt Nam)
Thiền sư Cảm Thành (? - 860) (Đời thứ 1, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Thiện Hội (? - 900) (Đời thứ 2, dòng Vô Ngôn Thông)
Trưởng lão La Quí (852 - 936) (Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Pháp Thuận (914 - 990) (Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Vân Phong (? - 956) (Đời thứ 3, dòng Vô Ngôn Thông)
Đại sư Khuông Việt (933 - 1011) (Đời thứ 4, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Ma-ha (Ma-ha Ma-da) (Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền Ông Đạo Giả (902 - 979) (Đời thứ 11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Sùng Phạm (1004 - 1087) (Đời thứ 11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Vạn Hạnh (? - 1018) (Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Trưởng lão Định Hương (? - 1051 ) (Đời thứ 6, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Thảo Đường (Tổ khai sáng dòng thiền Thảo Đường ở Việt Nam)
Thiền sư Viên Chiếu (999 - 1090) (Đời thứ 7, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Đạo Hạnh (? - 1115 ) (Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Bảo Tánh và Thiền sư Minh Tâm (? - 1034) (Đời thứ 7, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Thuần Chân (? - 1101) (Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Trì Bát (1049 - 1117) (Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Huệ Sinh (? - 1063) (Đời thứ 13, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Ngộ Ấn (1019 - 1088) (Đời thứ 8, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Mãn Giác (1052 - 1096) (Đời thứ 8, dòng Vô Ngôn Thông)
Quốc sư Thông Biện (? - 1134) (Đời thứ 8, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Bổn Tịch (? - 1140) (Đời thứ 13, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Thiền Nham (1093 - 1163) (Đời thứ 13, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Minh Không (1076 - 1141) (Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Khánh Hỷ (1066 - 1142) (Đời thứ 14, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Pháp Dung (? - 1174) (Đời thứ 15, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Không Lộ (? - 1119) (Đời thứ 9, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Bảo Giám (? - 1173) (Đời thứ 9, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Bổn Tịnh (1100 - 1176) (Đời thứ 9, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Chân Không (1045 - 1100) (Đời thứ 16, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Đạo Lâm (? - 1203) (Đời thứ 16, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Ni sư Diệu Nhân (1041 - 1113) (Đời thứ 17, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Viên Học (1073 - 1136) (Đời thứ 17, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Tịnh Thiền (1121 - 1193) (Đời thứ 17, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Quốc sư Viên Thông (1080 - 1151) (Đời thứ 18, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Giác Hải (Khoảng thế kỷ 11-12) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Tịnh Không (? - 1170) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Đại Xả (1120 - 1180) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Tín Học (? - 1190) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Trường Nguyên (1110 - 1165) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Tịnh Lực (1112 - 1175) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Trí Bảo (? - 1190) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Nguyện Học (? - 1174) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Minh Trí (? - 1196) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Tịnh Giới (? - 1207) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Quảng Nghiêm (1121 - 1190) (Đời thứ 11, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Thường Chiếu (? - 1203) (Đời thứ 12, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Y Sơn (? - 1213) (Đời thứ 19, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Thần Nghi (? - 1216) (Đời thứ 13, dòng Vô Ngôn Thông)
Đại sĩ Thông Thiền (? - 1228) (Đời thứ 13, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Hiện Quang (? - 1221) (Đời thứ 14, dòng Vô Ngôn Thông)
TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ TRẦN TUNG (1230 - 1291)
Thiền sư Huyền Quang (1254 - 1334) (Tổ thứ ba phái Trúc Lâm)
Thiền sư Thủy Nguyệt hiệu Thông Giác (1637 - 1704) (Đời pháp thứ 36, tông Tào Động)
Thiền sư Tông Diễn hiệu Chân Dung (1640 - 1711) (Đời pháp thứ 37, tông Tào Động)
Thiền sư Thanh Đàm hiệu Minh Chánh (Đời pháp thứ 42, tông Tào Động)
Hòa thượng Chuyết Công (1590 - 1644) (Đời pháp thứ 34, tông Lâm Tế)
Thiền sư Minh Hành (1596 - 1659) (Đời pháp thứ 35, tông Lâm Tế)
Thiền sư Chân Nguyên pháp danh Tuệ Đăng (1647 - 1726) (Đời pháp thứ 36, tông Lâm Tế)
Thiền sư Như Hiện hiệu Nguyệt Quang (? - 1765) (Đời pháp thứ 37, tông Lâm Tế)
Thiền sư Như Trừng Lân Giác (1696 - 1733) (Đời pháp thứ 37, tông Lâm Tế)
Thiền sư Tính Tĩnh (1692 - 1773) (Đời pháp thứ 38, tông Lâm Tế)
Thiền sư Tính Tuyền (1674 - 1744) (Đời pháp thứ 39, tông Lâm Tế)
Thiền sư Hải Quýnh hiệu Từ Phong (1728 - 1811) (Đời pháp thứ 40, tông Lâm Tế)
Đại sư Kim Liên Tịch Truyền (1745 - 1816) (Đời pháp thứ 41, tông Lâm Tế)
Đại sư Tường Quang Chiếu Khoan (1741 - 1830) (Đời pháp thứ 42, tông Lâm Tế)
Thiền sư Liễu Quán (? - 1743) (Đời pháp thứ 35, tông Lâm Tế)
Hòa thượng Minh Vật Nhất Tri (? - 1786) (Đời pháp thứ 34, tông Lâm Tế)
Hòa thượng Thành Nhạc Ẩn Sơn (? - 1776) (Đời pháp thứ 34, tông Lâm Tế)
Thiền sư Phật Ý Linh Nhạc (1725 - 1821) với chùa Sắc Tứ Từ Ân và chùa Quốc Ân Khải Tường
Thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành (? - 1823) (Đời pháp thứ 35, tông Lâm Tế)
Thiền sư Tổ Ấn Mật Hoằng (1735 - 1835) (Đời pháp thứ 36, tông Lâm Tế)
Thiền sư Tổ Tông Viên Quang (1758 - 1827) (Đời pháp thứ 36, tông Lâm Tế)
Tăng cang Tiên Giác Hải Tịnh (1788 - 1875) (Đời pháp thứ 37, tông Lâm Tế)
Thiền sư Minh Vi Mật Hạnh (1828 - 1898) (Đời pháp thứ 38, tông Lâm Tế)
Thiền sư Minh Khiêm Hoằng Ân hiệu Diệu Nghĩa (1850 - 1914) (Đời thứ 38, tông Lâm Tế)
Thiền sư Đạo Trung Thiện Hiếu (Tổ Đỉa) (Đời thứ 38, tông Lâm Tế)
Thiền sư Như Nhãn Từ Phong (1864 - 1938) (Đời thứ 39, tông Lâm Tế)
Thiền sư Hải Bình Bảo Tạng (1818 - 1862) (Đời thứ 40, tông Lâm Tế)