Thiền Sư Việt Nam
Phụ bản Tham Đồ Hiển Quyết
Nhất nhật, đường tiền tọa thứ, hốt hữu Tăng vấn: - Phật chi dữ Thánh, kỳ nghĩa vân hà? Sư vân: Ly hạ trùng dương cúc, Tiến vân: Tạ! Học nhân bất hội, thỉnh tái chỉ thị. Sư vân: Trú tắc kim ô chiếu, Tăng hựu vấn: Dĩ hoạch sư chân chỉ Sư vân: Bất thận thủy bàn kình mãn khứ. Tiến vân: Tạ! Sư chỉ vân: Mạc trạc giang ba nịch, Tăng hựu vấn: Thiếu thất, Ma-kiệt tối huyền, tự cổ vu kim thùy kế tương vi chủ? Sư vân: U minh càn tượng nhân ô thố, Hựu vấn: Như hà thị đại đạo, Sư vân: Cao ngạn tật phong tri kính thảo, Hựu vấn: Nhất thiết chúng sanh tòng hà nhi lai, Sư vân: Manh qui xuyên thạch bích, Hựu vấn: “Thanh thanh thúy trúc tận chân như.” Như hà thị chân như dụng? Sư vân: Tặng quân thiên lý viễn, Tiến vân: Nhậm ma tức “không lai hà ích”? Sư vân: Thùy thức Đông A khứ, Hựu vấn: Dã hiên nhất thâm hộ, Sư vân: Kim cốc tiêu sơ hoa thảo loạn, Tiến vân: Vi thập ma như thử? Sư vân: Phú quí kiêm kiêu thái, Hựu vấn: Long nữ hiến châu thành Phật quả, Sư vân: Vạn cổ nguyệt trung quế, Tiến vân: Nhậm ma tức lao nhi vô công? Sư vân: Thiên thượng như huyền kính, Hựu vấn: “Độ hà tu dụng phiệt, Bất độ thời như hà? Sư vân: Hạc trì ngư tại lục, Tiến vân: Nhậm ma tức “tùy lưu thủy hoạch diệu lý”? Sư vân: Kiến thuyết Kinh Kha lữ, Hựu vấn: Kim khoáng hỗn giao nguyên nhất khí, Sư vân: Bất thị Tề quân khách, Tiến vân: Quách quân nhược bất nạp Sư vân: Nhược dục tiên đề ẩm, Hựu vấn: Xà tử ư lộ thỉnh Sư cứu hoạt. Sư vân: Nhữ thị hà phương nhân? Tăng viết: Bản lai sơn nhân. Sư vân: Tốc hồi cựu nham ẩn, Hựu vấn: Hải tạng thao thao ưng bất vấn, Sư vân: Phong tiền tùng hạ thê lương vận, Tiến vân: Nhậm ma tức bất dị kim thời dã? Sư vân: Ly hạ trùng dương cúc, Hựu vấn: Chiêu chiêu tâm mục chi gian, Nhi lý bất khả phân, tướng bất khả đổ, vi thập ma bất đổ? Sư vân: Uyển trung hoa lạn mạn, Tiến vân: Tuế hàn quần miêu lạc, Sư vân: Hỉ quân lai tự đạt, Tiến vân: Hạnh văn kim nhật quyết Sư vân: Thiển nịch tài đề xuất, Hựu vấn: “Niết-bàn thành nội thượng do nguy.” Như hà thị bất nguy chi xứ? Sư vân: Doanh sào liêm mạc thượng, Tiến vân: Nhược tao thời bách cận, Sư vân: Trượng phu tùy phóng đãng, Hựu vấn: “Nhất thiết chúng sanh Thử lý vị minh, Sư vân: Khuyến quân thả vụ nông tang khứ, Tiến vân: Hạnh mông Sư hiển quyết, Sư vân: Khả lân tao nhất yết, Hựu vấn: Kỷ niên đa tích nang trung bảo, Sư vân: Chỉ đãi trung thu nguyệt, Tiến vân: Tuy văn Sư ngữ thuyết, Sư vân: Tiếu tha đồ bảo trụ, Hựu vấn: Như hà thị nhất pháp? Sư vân: Bất kiến xuân sanh kiêm hạ trưởng, Tiến vân: Nhậm ma tức thành Phật đa dã? Sư vân: Tổ Long khu tự chỉ, Hựu vấn: “Kiến tánh thành Phật”, kỳ nghĩa như hà? Sư vân: Khô mộc phùng xuân hoa cạnh phát, Tiến vân: Học nhân bất hội, nguyện Sư tái chỉ. Sư vân: Vạn niên gia tử thụ, Hựu vấn: Ma-ni dữ chúng sắc, Sư vân: Xuân hoa dữ hồ điệp, Tiến vân: Nhậm ma tức thùy tha hỗn tạp? Sư vân: Bất thị Hồ tăng nhãn, Hựu vấn: Như hà thị xúc mục bồ-đề? Sư vân: Kỷ kinh khúc mộc điểu, Tiến vân: Học nhân bất hội, cánh thỉnh biệt dụ. Sư vân: Tủng nhân thính cầm hưởng, Hựu vấn: Bản tự hữu hình kiêm hữu ảnh, Sư vân: Chúng thủy triều Đông hề vạn phái tranh lưu, Hựu vấn: Như hà thị “nhất cú liễu nhiên siêu bách ức”? Sư vân: Viễn hiệp Thái sơn siêu Bắc hải, Hựu vấn: “Duy thử nhất sự thật, Như hà thị chân? Sư vân: Trượng đầu phong dị động, Hựu vấn: “Bất hướng Như Lai thi diệu tạng, Ý chỉ như hà? Sư vân: Thu thiên đoàn thử lệ, Hựu vấn: Như hà thị tối diệu chi cú? Sư vân: Nhất nhân hướng ngung lập, Hựu vấn: Cổ kim đại sự ưng vô vấn, Sư vân: Xảo ngôn lệnh sắc giả, Hựu vấn: “Tâm pháp song vong tính tức chân.” Như hà thị “chân”? Sư vân: Vũ trích nham hoa thần nữ lệ, Hựu vấn: Như hà thị tối diệu chi cú? Sư vân: Hầu lý do tồn ngạnh, Hựu vấn: Hữu tu hữu chứng khai tứ bệnh, Sư vân: Sơn cao cánh đại dung trần trữ, Hựu vấn: “Duy Phật dữ Phật nãi tri tư sự.” Như hà thị “tư sự”? Sư vân: Giáp kính sâm sâm trúc, Hựu vấn: Bất dụng bình thường, bất dụng thiên nhiên, bất dụng tác dụng nhi kim tác thập ma? Sư vân: Bồng thảo thê đê yến, Hựu vấn: Tứ đại đới lai do khoáng kiếp, Sư vân: Cử thế súc đồ tê thị bảo, Hựu vấn: “Chủng chủng thủ xả, giai thị luân hồi.” Bất thủ bất xả thời như hà? Sư vân: Tòng lai hồng hiện thù thường sắc, Hựu vấn: “Ngôn ngữ đạo đoạn” kỳ ý như hà? Sư vân: Giốc hưởng tùy phong xuyên trúc đáo, Hựu vấn: “Chư Phật thuyết pháp giai thị hóa vật. Như hà thị “bản ý”. Sư vân: Xuân chức hoa như cẩm, Hựu vấn: Như hà thị “trực tiệt nhất lộ”? Sư vân: Đông tây xa mã tẩu, Hựu vấn: Hữu pháp hữu tâm khai vọng thức, Sư vân: Khả đoạt tùng sao trường uất uất, Hựu vấn: Tổ ý dữ giáo ý như hà? Sư vân: Hứng lai huề trượng du vân kính, Hựu vấn: Tổ tổ tương truyền, hợp truyền hà sự? Sư vân: Cơ lai tu tầm thực, Hựu vấn: Thế nhân giai nhẫm ốc, Sư vân: Kim ô kiêm ngọc thố, Hựu vấn: Như hà thị Tào Khê nhất lộ? Sư vân: Khả lân khắc chu khách, Dịch nghĩa: BÀY RÕ BÍ QUYẾT CHO NGƯỜI THAM VẤN Một hôm ngồi trước Tăng đường, có vị Tăng hỏi: - Phật và Thánh khác nhau thế nào? Sư đáp: Trùng dương cúc nở dưới rào, Tăng thưa: Cảm tạ Thầy chỉ dạy, học nhân chẳng hội, xin lại nêu bày ra. Sư đáp: Ngày thì vầng nhật chiếu, Tăng lại hỏi: Đã được chân chỉ của Thầy, còn huyền cơ thì dạy thế nào? Sư đáp: Bưng thau nước đầy không chú ý Tăng thưa: Đa tạ! Sư bảo: Chớ rửa sông to sóng, Tăng hỏi: Thiếu Thất, Ma-kiệt rất huyền diệu, từ xưa đến nay ai kế thừa làm chủ? Sư đáp: Trời tối, sáng soi nhờ nhật nguyệt, Tăng hỏi: Thế nào là đại đạo, Sư đáp: Gió mạnh bờ cao biết cỏ cứng, Hỏi: Tất cả chúng sanh từ đâu tới, Đáp: Rùa mù dùi vách đá, Hỏi: “Trúc biếc xanh xanh trọn là chân như”, thế nào là “dụng” của chân như? Đáp: Tặng anh đi ngàn dặm, Lại thưa: Thế là uổng công đến mà vô ích? Đáp: Ai biết được người chủ (Đông A), Hỏi: Dã Hiên một nhà kín, Đáp: Kim Cốc tiêu điều hoa cỏ loạn, Hỏi: Tại sao như thế? Đáp: Giàu sang vẫn kiêu sa, Hỏi: Long nữ dâng châu thành Phật quả, Đáp: Quế trong trăng muôn thuở, Lại thưa: Thế là nhọc mà không công? Đáp: Trên trời như treo gương, Hỏi: Qua sông cần dùng bè, Khi không qua thì thế nào? Đáp: Hồ khô cá mắc cạn, Lại thưa: Thế là theo dòng mới được diệu lý? Đáp: Thấy nói bạn Kinh Kha, Hỏi: Quặng, vàng lẫn lộn nguyên một loại, Đáp: Chẳng phải khách nước Tề, Lại thưa: Ông Quách chẳng chịu nhận, Đáp: Nếu muốn trước uống rượu, Hỏi: Rắn chết trên đường xin Thầy cứu sống? Sư bảo: Ông là người phương nào? Tăng thưa: Vốn là người ở núi. Sư bảo: Núi xưa về ẩn gấp, Hỏi: Biển cả mênh mông trọn chẳng hỏi, Đáp: Trước gió thông reo tiếng buồn bã, Lại thưa: Thế là chẳng khác thời nay? Đáp: Dưới giậu trùng dương cúc, Hỏi: Rõ ràng trong khoảng tâm mắt, Mà lý không thể phân, tướng không thể thấy, tại sao không thấy? Đáp: Trong vườn hoa khoe sắc, Hỏi: Năm lạnh các mầm thối, Đáp: Mừng ông đã thấu suốt, Tăng nói: Hân hạnh nghe Thầy giải, Sư đáp: Chìm cạn vừa ra khỏi, Hỏi: “Trong thành Niết-bàn vẫn còn nguy”, thế nào là chỗ chẳng nguy? Đáp: Xây tổ trên rèm cháy, Hỏi: Nếu gặp khi bức bách, Đáp: Trượng phu tùy thong thả, Hỏi: “Tất cả chúng sanh đều nói là Phật”, lý này chưa rõ xin Thầy chỉ dạy? Đáp: Khuyên ông hãy gắng việc nông tang, Tăng nói: Được nhờ Thầy chỉ rõ, Sư nói: Đáng thương người mắc nghẹn, Tăng nói: Nhiều năm cất giấu báu trong đãy, Sư nói: Chỉ đợi trăng thu sáng, Tăng nói: Tuy nghe Thầy thuyết giảng, Sư đáp: Cười kẻ luống ôm cột, Hỏi: Thế nào là một pháp? Đáp: Chẳng thấy xuân sanh cùng hạ trưởng, Lại thưa: Thế là nhiều người thành Phật? Đáp: Tổ Long chợt tự dừng, Hỏi: “Kiến tánh thành Phật”, nghĩa này thế nào? Đáp: Cây khô gặp xuân hoa đua nở, Tăng nói: Đệ tử chưa hiểu, xin Thầy chỉ lại. Sư đáp: Muôn năm cây cà ấy, Hỏi: Ma-ni cùng các sắc, Đáp: Hoa xuân cùng bươm bướm, Hỏi: Thế là theo kia hỗn tạp? Đáp: Chẳng phải mắt tăng Ấn, Hỏi: Thế nào là chạm mắt bồ-đề? Đáp: Chim từng sợ cây cong, Hỏi: Đệ tử chẳng hiểu, xin Thầy cho dụ khác. Đáp: Kẻ điếc nghe đàn sáo, Hỏi: Vốn tự có hình cùng có bóng, Đáp: Các sông về Đông chừ muôn dòng tranh chảy. Hỏi: Thế nào là một câu sáng tỏ siêu trăm ức? Đáp: Xa ném Thái Sơn qua biển Bắc, Hỏi: “Chỉ một việc này là thật, còn hai ắt chẳng chân”, thế nào là chân? Đáp: Đầu gậy gió dễ động, Hỏi: “Chẳng hướng Như Lai cầu diệu tạng, Ý chỉ câu này thế nào? Đáp: Trời thu hoàng oanh hót, Hỏi: Thế nào là câu tuyệt diệu? Đáp: Một người xây vách đứng, Hỏi: Cổ kim việc lớn thôi không hỏi, Đáp: Người nói khéo mặt lành, Hỏi: “Tâm pháp đều quên, tánh tức chân”, thế nào là chân? Đáp: Hoa núi mưa sa, Thần nữ khóc, Hỏi: Thế nào là câu tuyệt diệu? Đáp: Trong cổ vẫn còn nghẹn, Hỏi: Còn tu còn chứng sanh bốn bệnh, Đáp: Núi cao lại lớn dung chứa bụi, Hỏi: “Chỉ Phật với Phật mới biết việc này”, thế nào là việc này? Đáp: Đường hẹp trúc um tùm, Hỏi: Chẳng dùng bình thường, chẳng dùng thiên nhiên, chẳng dùng tác dụng, thì nay phải làm sao? Đáp: Cỏ bồng chim én đậu, Hỏi: Tứ đại đeo mang đã nhiều kiếp, Đáp: Tất cả súc sanh tê giác quí, Hỏi: “Các thứ thủ xả đều là luân hồi”, khi không thủ không xả thì sao? Đáp: Xưa nay sam tía sắc thường khác, Hỏi: “Đường ngôn ngữ dứt” là ý thế nào? Đáp: Gió thổi tiếng còi xuyên trúc đến, Hỏi: “Chư Phật thuyết pháp đều nhằm giáo hóa mọi người, nếu ngộ bản ý gọi là xuất thế”, sao gọi là bản ý? Đáp: Xuân dệt hoa như gấm, Hỏi: Thế nào là một đường thẳng đứt? Đáp: Đông Tây xe ngựa chạy, Hỏi: Có pháp, có tâm mở vọng thức, Đáp: Vượt được tùng cao che rợp rợp, Hỏi: Ý Tổ cùng ý kinh thế nào? Đáp: Hứng lên xách gậy chơi đường núi, Hỏi: Tổ Tổ truyền nhau là truyền việc gì? Đáp: Đói đến cần tìm ăn, Hỏi: Người đời đều thuê nhà, Đáp: Quạ vàng cùng thỏ bạc, Hỏi: Thế nào là một con đường Tào Khê? Đáp: Đáng thương kẻ khắc thuyền. Mục Lục
|
Thiền Sư Việt Nam
|
Thiền sư Pháp Hiền (? - 626) (Đời thứ 1, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Thanh Biện (? - 686) (Đời thứ 4, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Định Không (730 - 808) (Đời thứ 8, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Vô Ngôn Thông (? - 826) (Tổ khai sáng dòng Thiền Vô Ngôn Thông ở Việt Nam)
Thiền sư Cảm Thành (? - 860) (Đời thứ 1, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Thiện Hội (? - 900) (Đời thứ 2, dòng Vô Ngôn Thông)
Trưởng lão La Quí (852 - 936) (Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Pháp Thuận (914 - 990) (Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Vân Phong (? - 956) (Đời thứ 3, dòng Vô Ngôn Thông)
Đại sư Khuông Việt (933 - 1011) (Đời thứ 4, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Ma-ha (Ma-ha Ma-da) (Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền Ông Đạo Giả (902 - 979) (Đời thứ 11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Sùng Phạm (1004 - 1087) (Đời thứ 11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Vạn Hạnh (? - 1018) (Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Trưởng lão Định Hương (? - 1051 ) (Đời thứ 6, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Thảo Đường (Tổ khai sáng dòng thiền Thảo Đường ở Việt Nam)
Thiền sư Viên Chiếu (999 - 1090) (Đời thứ 7, dòng Vô Ngôn Thông)
Phụ bản Tham Đồ Hiển Quyết
Thiền sư Đạo Hạnh (? - 1115 ) (Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Bảo Tánh và Thiền sư Minh Tâm (? - 1034) (Đời thứ 7, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Thuần Chân (? - 1101) (Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Trì Bát (1049 - 1117) (Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Huệ Sinh (? - 1063) (Đời thứ 13, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Ngộ Ấn (1019 - 1088) (Đời thứ 8, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Mãn Giác (1052 - 1096) (Đời thứ 8, dòng Vô Ngôn Thông)
Quốc sư Thông Biện (? - 1134) (Đời thứ 8, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Bổn Tịch (? - 1140) (Đời thứ 13, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Thiền Nham (1093 - 1163) (Đời thứ 13, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Minh Không (1076 - 1141) (Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Khánh Hỷ (1066 - 1142) (Đời thứ 14, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Pháp Dung (? - 1174) (Đời thứ 15, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Không Lộ (? - 1119) (Đời thứ 9, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Bảo Giám (? - 1173) (Đời thứ 9, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Bổn Tịnh (1100 - 1176) (Đời thứ 9, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Chân Không (1045 - 1100) (Đời thứ 16, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Đạo Lâm (? - 1203) (Đời thứ 16, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Ni sư Diệu Nhân (1041 - 1113) (Đời thứ 17, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Viên Học (1073 - 1136) (Đời thứ 17, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Tịnh Thiền (1121 - 1193) (Đời thứ 17, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Quốc sư Viên Thông (1080 - 1151) (Đời thứ 18, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Giác Hải (Khoảng thế kỷ 11-12) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Tịnh Không (? - 1170) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Đại Xả (1120 - 1180) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Tín Học (? - 1190) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Trường Nguyên (1110 - 1165) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Tịnh Lực (1112 - 1175) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Trí Bảo (? - 1190) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Nguyện Học (? - 1174) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Minh Trí (? - 1196) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Tịnh Giới (? - 1207) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Quảng Nghiêm (1121 - 1190) (Đời thứ 11, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Thường Chiếu (? - 1203) (Đời thứ 12, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Y Sơn (? - 1213) (Đời thứ 19, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Thiền sư Thần Nghi (? - 1216) (Đời thứ 13, dòng Vô Ngôn Thông)
Đại sĩ Thông Thiền (? - 1228) (Đời thứ 13, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Hiện Quang (? - 1221) (Đời thứ 14, dòng Vô Ngôn Thông)
Thiền sư Huyền Quang (1254 - 1334) (Tổ thứ ba phái Trúc Lâm)
Thiền sư Thủy Nguyệt hiệu Thông Giác (1637 - 1704) (Đời pháp thứ 36, tông Tào Động)
Thiền sư Tông Diễn hiệu Chân Dung (1640 - 1711) (Đời pháp thứ 37, tông Tào Động)
Thiền sư Thanh Đàm hiệu Minh Chánh (Đời pháp thứ 42, tông Tào Động)
Hòa thượng Chuyết Công (1590 - 1644) (Đời pháp thứ 34, tông Lâm Tế)
Thiền sư Minh Hành (1596 - 1659) (Đời pháp thứ 35, tông Lâm Tế)
Thiền sư Chân Nguyên pháp danh Tuệ Đăng (1647 - 1726) (Đời pháp thứ 36, tông Lâm Tế)
Thiền sư Như Hiện hiệu Nguyệt Quang (? - 1765) (Đời pháp thứ 37, tông Lâm Tế)
Thiền sư Như Trừng Lân Giác (1696 - 1733) (Đời pháp thứ 37, tông Lâm Tế)
Thiền sư Tính Tĩnh (1692 - 1773) (Đời pháp thứ 38, tông Lâm Tế)
Thiền sư Tính Tuyền (1674 - 1744) (Đời pháp thứ 39, tông Lâm Tế)
Thiền sư Hải Quýnh hiệu Từ Phong (1728 - 1811) (Đời pháp thứ 40, tông Lâm Tế)
Đại sư Kim Liên Tịch Truyền (1745 - 1816) (Đời pháp thứ 41, tông Lâm Tế)
Đại sư Tường Quang Chiếu Khoan (1741 - 1830) (Đời pháp thứ 42, tông Lâm Tế)
Thiền sư Liễu Quán (? - 1743) (Đời pháp thứ 35, tông Lâm Tế)
Hòa thượng Minh Vật Nhất Tri (? - 1786) (Đời pháp thứ 34, tông Lâm Tế)
Hòa thượng Thành Nhạc Ẩn Sơn (? - 1776) (Đời pháp thứ 34, tông Lâm Tế)
Thiền sư Phật Ý Linh Nhạc (1725 - 1821) với chùa Sắc Tứ Từ Ân và chùa Quốc Ân Khải Tường
Thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành (? - 1823) (Đời pháp thứ 35, tông Lâm Tế)
Thiền sư Tổ Ấn Mật Hoằng (1735 - 1835) (Đời pháp thứ 36, tông Lâm Tế)
Thiền sư Tổ Tông Viên Quang (1758 - 1827) (Đời pháp thứ 36, tông Lâm Tế)
Tăng cang Tiên Giác Hải Tịnh (1788 - 1875) (Đời pháp thứ 37, tông Lâm Tế)
Thiền sư Minh Vi Mật Hạnh (1828 - 1898) (Đời pháp thứ 38, tông Lâm Tế)
Thiền sư Minh Khiêm Hoằng Ân hiệu Diệu Nghĩa (1850 - 1914) (Đời thứ 38, tông Lâm Tế)
Thiền sư Đạo Trung Thiện Hiếu (Tổ Đỉa) (Đời thứ 38, tông Lâm Tế)
Thiền sư Như Nhãn Từ Phong (1864 - 1938) (Đời thứ 39, tông Lâm Tế)
Thiền sư Hải Bình Bảo Tạng (1818 - 1862) (Đời thứ 40, tông Lâm Tế)