Thiền Tông Việt Nam
Những Cánh Hoa Đàm (Tập 2)
Những Cánh Hoa Đàm (tt8)

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, trong cuốn Thiền sư Pháp Sơn con có đọc thấy ba định nghĩa về thiền học mà con không hiểu gì hết.

Thứ nhất: Thiền là gì? - Thiền là con khỉ leo trên cây quơ cái đuôi.

Thứ hai: Thiền là gì? - Thiền là lửa cháy đổ thêm dầu.

Thứ ba: Thiền là gì? - Thiền là cục gạch.

Con nghe quí Thầy dạy nghi là vọng niệm, tâm không an làm mình điên đảo. Nhưng trong cuốn Thiền sư Pháp Sơn lại nói tu thiền cần phải cho nghi tình phát khởi, điều này con chưa hiểu kính xin Thầy chỉ dạy.

ĐÁP: Quí Phật tử nên biết các vị Thiền sư này tu theo thoại đầu và các Ngài ngộ ở thoại đầu, mà thoại đầu thì cấm lý giải, lý giải là bệnh không thể làm cho nghi tình phát khởi được. Cho nên được hỏi các Ngài trả lời một cách phi lý để cho ý thức của thiền khách không có chỗ vin theo. Đã không cho vin theo mà tôi giải để quí vị hiểu, quí vị vin theo là có lỗi.

Câu hỏi kế nói rằng trong nhà thiền nói đại nghi đại ngộ, còn quí thầy giảng thì nói nghi là chướng đạo. Bởi vì thiền thoại đầu dùng câu thoại đầu để tạo cho hành giả điều kiện nghi, mà nghi thì tâm đuổi theo cái nghi đó không chạy theo vọng tưởng, lâu ngày cái nghi tu lại thành khối gọi là nghi tình, rồi đủ duyên nó tan vỡ ra gọi là ngộ.

Còn quí thầy giảng theo Kinh, trong Kinh nói phiền não căn bản có tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến... nghi là một trong những thứ phiền não làm chướng đạo. Thí dụ bây giờ chúng tôi khuyên Phật tử nên phát tâm làm điều thiện sau khi chết sẽ được sanh cõi lành. Nhưng Phật tử lại nghi không biết sau khi chết còn hay hết, nếu hết rồi thì làm thiện để chi? Vì nghi như vậy nên hết muốn làm thiện. Chính cái nghi đó làm chướng ngại điều thiện của mình, mà chướng ngại thì không tu được. Cho nên hai cái nghi này là hai lãnh vực khác nhau.


HỎI: Thưa Thầy, ở hội Linh Sơn, khi đức Phật đưa cành hoa sen, ngài Ca Diếp mỉm cười, sau đó Phật ấn chứng, còn trong kinh A-hàm Phật có dạy: Tỳ-kheo nào thấy lý duyên sinh là thấy pháp. Như vậy cái thấy của tổ Ca Diếp và cái thấy của Tỳ-kheo về lý duyên sinh, hai cái thấy có khác nhau không? Nếu khác, khác ở chỗ nào?

ĐÁP: Tổ Ca Diếp ngộ là ngộ được chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, tức là cái thể chân thật có sẵn nơi con người mình. Còn thấy lý duyên sinh là thấy được lẽ thật của muôn sự muôn vật ở bên ngoài, nên hai cái thấy khác nhau.


HỎI: Thưa Thầy, trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Phật dạy ngài A-nan cách mở gút như thế này: Sáu gút mở hết thì một cũng không còn. Tại sao tổ Bồ Đề Đạt Ma khi sang Trung Hoa với nhiệm vụ phá kiến chấp đối đãi hai bên của chúng sanh mà Ngài lại quảy một chiếc giày. Như vậy Ngài vẫn còn mang một cái, mà còn một thì còn đối lại với hai. Xin Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con hiểu.

ĐÁP: Câu này nghe cũng lý thú. Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy mình mở sáu gút mà mở chỗ nào? - Thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm mà chấp đó là gút, còn nếu không chấp thì mở. Cho nên kinh Lăng Nghiêm nói sáu căn là gốc của sinh tử luân hồi, mà sáu căn cũng là nhân giải thoát luân hồi. Chính nó làm cho mình đi trong sanh tử, cũng chính nó là chỗ giải thoát sanh tử chớ không đâu xa hết, cho nên nói sáu gút mở thì một cũng không còn.

Hình ảnh Tổ Bồ Đề Đạt Ma quảy một chiếc dép là hình ảnh tượng trưng để nói lên cái ý chí vươn lên mạnh mẽ của người tu, đó chỉ là phương tiện chớ không phải chỗ cứu cánh như lời Phật dạy trong kinh. Tổ muốn dạy chúng ta còn chấp hai bên là khổ, không chấp hai bên là hết khổ.

Chỗ này tôi nói thêm để quí Phật tử hiểu thế nào là chấp hai bên. Quí Phật tử có để ý khi người ta khen mình hay thì mình vui, khi người ta chê dở thì mình buồn. Nhưng trên thế gian này có ai được khen hết đâu, nếu hợp nhau, giống nhau thì họ khen; không hợp, không giống thì họ chê. Như mấy chú uống rượu thì khen người uống rượu giỏi, mấy chú ăn trộm thì khen người ăn trộm hay lấy tiền của người ta được nhiều. Ngược lại, thấy người không uống rượu hoặc thầy tu thì chê bai, kiêu ngạo. Như vậy có cái khen nào là thật, cái chê nào là thật đâu? Nhưng thông thường ai khen thì mình chịu, dù cho lời khen giả dối mình cũng vui, mà còn vui là còn khổ, cho nên thế gian này không bao giờ hết khổ. Vì vậy, chúng ta phải sống với cái thật, tâm an nhiên bình thản trước những lời khen chê, buông được hai bên là hết khổ.

Chúng ta sở dĩ khổ là vì không an phận với cái hiện có của mình. Thí dụ mình nghèo thấy người ta giàu mình có khổ không? Mình muốn giàu mà lỡ nghèo nên mình khổ; nếu mình an phận chấp nhận cảnh nghèo, tiền nhiều xài nhiều tiền ít xài ít, có ngon ăn ngon, có dở ăn dở, chấp nhận nếp sống thanh bạch thì hết khổ. Một thí dụ khác, giả sử mình được chút phước báu, sinh ra có dáng dấp đẹp đẽ, mình hãnh diện với cái đẹp đó. Mai kia tuổi già suy yếu, da nhăn má hóp, thân hình mình xấu xí thì buồn. Vì trước mình chấp mình đẹp nên vui, bây giờ thấy mình xấu nên khổ. Còn nếu mình không được phước báu, sanh ra thân hình xấu ngay từ đầu thì khổ dài dài, khổ không có ngày ra! Cho nên càng chấp đẹp chấp xấu càng khổ, không chấp hai bên là hết khổ. Chư Tổ dạy chúng ta đừng dính hai bên là hết khổ. Đây là lẽ thực, mà lẽ thực này giúp chúng ta thoát khỏi vòng trần lụy khổ đau.


HỎI: Thưa Thầy:

1. Niệm khởi là sanh diệt, sao Thiền sư Huyền Giác lại nói "phân biệt không phải ý" hoặc "cũng biết vui buồn nhưng đừng để cái nọc độc vui buồn thấm vào chân tâm" như vậy có mâu thuẫn không?

2. Biết vọng không theo đã đầy đủ giới định huệ tự tánh, xin Thầy từ bi giảng cho con được rõ.

3. Sáu cửa vào động Thiếu Thất có nói: Đừng vác Phật đi tìm Phật, chúng con chưa được rõ xin Thầy từ bi chỉ dạy.

ĐÁP: 

1. Phật tử này hiểu lầm cái phân biệt của ý và phân biệt tốt xấu, hơn thua, phải quấy đó là phân biệt của ý. Còn phân biệt không phải ý, tôi thường lấy ví dụ có một tấm gương soi, như bây giờ quí Phật tử nhìn lên đây, bàn tay tôi là tấm gương, thì quí Phật tử sẽ thấy hình bóng của quí vị, mà hình bóng ấy là một khối hỗn độn hay là người nào ra người đó? Nếu bóng của người nào ra người nấy thì đó là phân biệt hay không phân biệt? Thấy rõ trắng ra trắng, đen ra đen mà không phân biệt cho nên Thiền sư Huyền Giác nói phân biệt mà không phải ý.

2. Nếu đầy đủ giới định huệ tự tánh như đức Lục Tổ thì khỏi cần biết vọng không theo. Còn nếu giới định huệ chỉ ở ngoài miệng thì đừng theo vọng tưởng.

3. Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất nói: Đừng vác Phật đi tìm Phật là thế này. Vì bấy lâu nay chúng ta thường nghĩ rằng Phật là những vị Phật ở thế giới Cực lạc hoặc ở những thế giới khác, cho nên khởi niệm mong mỏi tìm cho gặp Phật. Nhưng với tinh thần của "Sáu cửa vào động Thiếu Thất" của tổ Bồ Đề Đạt Ma thì "tức tâm tức Phật", ngay nơi tâm mình đã là Phật, mình phải xoay lại sống với tâm bất động của mình. Tâm mình đã là Phật rồi mà đi tìm Phật ở ngoài nữa là vác Phật đi tìm Phật. Vậy phải xoay lại, nhận rõ tự tâm mình tức Phật là đủ rồi chứ đừng đi tìm đâu khác. 


HỎI: 
Thưa Thầy, con đọc kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ dạy vô niệm, vô là không có hai tướng, không có các tâm trần lao, niệm là niệm chân như bản tánh. Còn từ vô niệm của pháp môn Tịnh độ theo con hiểu là không còn niệm. Vậy cùng là một danh từ nhà Phật mà khi dùng khác nhau thì làm sao giảng trạch cho đúng để người hành một cách phổ thông?

ĐÁP: Đức Lục Tổ nói vô niệm là không có hai tướng đối đãi, không có các tâm trần lao, vì hai tướng không thật nên người tu không nên kẹt trong hai tướng. Tâm trần lao là tâm phiền não, hơn thua, phải quấy v.v... Tất cả những cái đó không có thì gọi là vô. Còn niệm là niệm chân như bản tánh. Chữ niệm thường được hiểu là niệm khởi, phàm những ý nghĩ dấy lên nơi tâm gọi là niệm khởi, còn chân như Phật tánh có dấy lên không? - Không. Vậy niệm chân như Phật tánh là niệm làm sao? Chữ niệm có nghĩa là dấy lên mà cũng có nghĩa là nhớ. Bây giờ chúng ta hằng nhớ chân như Phật tánh của mình thì đó là niệm chân như Phật tánh, nghĩa là không chạy theo vọng tưởng mà nhớ mình đang tỉnh đang sáng, đó là niệm chân như Phật tánh. Như vậy, niệm chân như với vô niệm bên Tịnh độ hơi khác một chút, hai bên tùy chỗ ứng dụng chớ không phổ thông được. Học chỗ nào hiểu đúng chỗ ấy chớ không có cái chung cho tất cả.


HỎI: Kính xin Thầy hoan hỷ giảng giải cho chúng con được rõ:

1. Ngài A-nan tu thế nào mà chỉ một đêm ngộ đạo?

2. Thế nào là kinh vô tự, là pháp vô vi?

3. Thiền chuyển luân xa có phải là kinh vô tự, kinh bạch tự, là pháp vô vi không?

ĐÁP: 

1. Sau khi Phật nhập diệt, ngài Ca Diếp triệu tập chư Tỳ-kheo trùng tụng lại lời Phật dạy gọi là kiết tập lời Phật dạy, vị nào chứng A-la-hán mới được vào hội, vì người chưa chứng quả có thể lầm lộn làm mất giá trị của kinh. Lúc đó, ngài A-nan chưa chứng A-la-hán nên không được vào, Ngài buồn nên ra ngoài ngồi thiền suốt đêm, đến gần sáng Ngài chứng quả A-la-hán.

Chỗ này tôi cho một ví dụ để quý vị hiểu. Có một trái xoài chín đang lơ lửng trên cây, một ngọn gió thổi qua trái xoài rụng xuống. Vậy trái xoài mới chín rụng hay đã chín từ trước rồi? Từ khi thành hình trái xoài nhỏ xíu, rồi lần lần lớn đến già đến chín và chỉ cần luồng gió thổi qua là trái xoài rụng. Cũng vậy, ngài A-nan theo Phật hai mươi lăm năm làm thị giả, Ngài tu đã thuần thục nên đêm sau cùng Ngài dốc toàn lực tu liền chứng A-la-hán, đây là đêm sau cùng của một giai đoạn chớ không phải mới bắt đầu.

2. Nói kinh vô tự là pháp vô vi là một lối nói. Cũng như nói Bát-nhã tâm kinh. Vậy tâm kinh là kinh nào? Tâm kinh là chỉ cho tất cả lời Phật dạy đều hướng về tâm của mình mà tu, cho nên tu là tu ở tự tâm, ngộ cũng ngộ ở tự tâm, mà tâm mình có chữ có lời không? - Không chữ không lời, nên nói kinh vô tự tức là tâm.

3. Còn pháp vô vi, ở đây quí vị đừng hiểu lầm chữ vô vi trong nhà Phật. Phật nói: Phàm cái gì có tướng sanh, trụ, dị, diệt gọi là pháp hữu vi, tức là có sinh ra, tồn tại một thời gian hoại đi. Cái nào không sanh, ko trụ, không diệt gọi là vô vi. Như thân chúng ta có sinh, có già, có bệnh, có chết là hữu vi. Tánh giác chúng ta không già, không chết là vô vi. Vô vi là chỉ cho tánh giác, chớ không phải chuyển luân xa là vô vi.


HỎI: Thưa Thầy, trong kinh Kim Cang có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" con chưa hiểu rõ ràng, kính xin Thầy chỉ dạy.

ĐÁP: Kinh Kim Cang ngài Tu-bồ-đề hỏi Phật: "Làm sao an trụ tâm, làm sao hàng phục tâm để đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?". Đức Phật dạy: Muốn hàng phục tâm, muốn an trụ tâm thì không nên có chỗ trụ. Kinh nói rõ: "Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm". Nghĩa là muốn hàng phục tâm để được đạo Bồ-đề thì đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không nên dính mắc. Sáu căn không dính mắc với sáu trần thì tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh thì giác ngộ giải thoát. 


HỎI: Thưa Thầy, trong kinh Kim Cang có câu: "Tu-bồ-đề, Bồ-tát ư pháp, ưng vô sở trụ hành ư bố thí, sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp bố thí". Vậy "bất ưng trụ pháp bố thí" nghĩa là gì? Kính xin Thầy giảng giải cho con được rõ.

ĐÁP: Chữ pháp đây thuộc về pháp trần, tức là bóng dáng khởi nghĩ ở tâm mình, nghĩ về người thì bóng người hiện ra, nghĩ về vật thì bóng vật hiện ra, nghĩ thành phố thì thành phố hiện ra. Pháp trần đó có tên hoặc người, hoặc vật, hoặc thành phố v.v... thuộc về sự.

Trong kinh Phật dạy: Bồ-tát không trụ pháp nghĩa là không dính với tất cả những cái có danh tự hình tướng bên ngoài, tức không dính với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì tâm không loạn động, mà không động tức là không trụ, không trụ mà trụ. Cho nên hỏi làm sao an trụ tâm thì trả lời không dính với sáu trần là an trụ.

Nói sáu trần hơi nhiều, chỉ không dính với sắc và thanh thôi; thấy sắc đẹp không đắm mê, thấy sắc xấu không chán ghét, nghe tiếng khen không mừng, nghe tiếng chê không giận, không dính mắc thì tâm không rối. Tu như vậy rất thực tế, rất dễ không có gì huyền bí, mà hết khổ ngay trong hiện tại.


HỎI: Cùng cây gậy, phàm phu cho các cây gậy là thật, khởi tâm phân biệt tốt xấu, to nhỏ; Nhị thừa cho cây gậy là không, vô thường sẽ mục nát hư hoại; Duyên giác cho đó là huyễn có do nhân duyên sanh; Bồ-tát cho nó đương thể nên nói không; Thiền gia thấy cây gậy là cây gậy, đi chỉ đi, ngồi chỉ ngồi, không được động đến, không để khái niệm chen vào tức là trực diện đối cảnh không tâm, không khởi niệm. Kính xin Hòa thượng khai thị thêm giữa cái nhìn của Thiền sư và Bồ-tát.

ĐÁP: Trong cuốn "Thiền Tông Việt Nam cuối thế kỷ 20" tôi có dẫn câu chuyện này, cái nhìn của Thiền sư và cái nhìn của Bồ-tát khác nhau chỗ nào? Bồ-tát thì thấy đương thể tức không, còn Thiền gia thấy cây gậy là cây gậy. Đây là căn cứ trên giáo lý. Trong giáo lý Phật có chia làm ngũ thừa mà thừa cuối là Bồ-tát thừa. Phật chia từng bậc tu và từng pháp riêng của mỗi bậc, như ngũ giới cho người tại gia, Sa-di giới cho người xuất gia, rồi đến hàng Thanh văn quán tứ đế, Duyên giác quán nhân duyên. Có pháp tu, có pháp quán là còn mượn phương tiện. Thiền Tông thì không mượn phương tiện, mà trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật. Không mượn phương tiện thì không dùng pháp quán. Bồ-tát quán sâu lý Bát-nhã nên vừa thấy sự vật là biết đương thể tức không, nó không có thật, thấy rõ khỏi cần quán xét, thấy người biết không thật, thấy vật biết không thật, nghe tiếng biết không thật thì đâu có nhiễm cái gì, không nhiễm thì tâm không động. Như vậy, thấy các pháp đương thể tức không thì tâm bình an, tâm bất động phải không? Bây giờ Thiền gia thấy cây gậy là cây gậy, không khởi một niệm thì tâm cũng an, cũng bất động. Nhưng một bên dùng giáo lý Phật để quán, khi quán thuần thục thì mới tới chỗ bất động, còn nhà Thiền đi thẳng, các niệm khởi đều là bệnh, đều là mê, cho nên không chạy theo niệm khởi, không niệm khởi thì tâm như như, tâm như như thì thấy cây gậy là cây gậy, khỏi cần quán gì hết.

Vậy, đứng về mặt phương tiện thì có khác, khác ở chỗ: Bên dùng pháp quán và bên không theo vọng tưởng, không khởi niệm. Bên dùng pháp quán thì tâm không dính trần cảnh, bên không theo vọng tưởng, không khởi niệm cũng không dính với cảnh. Như vậy, đứng về mặt tâm như như thì không khác nhau.


HỎI: Kính bạch Thầy, xin Thầy từ bi giải cho con những nghi vấn sau đây:

1. Phật tánh, giác tánh, linh hồn, tâm hồn, tâm thức khác nhau như thế nào? 

2. Phật giáo có phủ nhận linh hồn không?

3. Nếu Phật giáo phủ nhận linh hồn thì cái gì tái sanh luân hồi khi thân tứ đại này tan rã?

4. Nếu không có linh hồn thì có giác linh không?

ĐÁP:

1. Phật tánh và giác tánh không khác nhau. Tại sao? Vì Phật và giác gốc từ chữ Buddha của Ấn Độ, đọc âm là Phật đà, Trung Hoa dịch nghĩa là giác giả. Nói giác tánh hay Phật tánh cũng cùng một nghĩa, một bên đọc theo âm Ấn Độ, một bên đọc theo nghĩa Trung Hoa. 

Linh hồn, tâm hồn, tâm thức có khác nhau không? - Tâm hồn chỉ là một lối nói thôi, còn linh hồn và tâm thức thì có khác nhau. Linh hồn là từ ngữ mà xưa nay các nhà Nho và tổ tiên chúng ta thường dùng. Linh là sáng, hồn là thực thể của tinh thần, linh hồn là ý nói cái hồn sáng suốt không mất, không đổi thay. A là A mãi mãi chớ không thể đổi cái linh hồn đó thành cái gì khác.

Còn tâm thức là tâm phân biệt, hiểu biết. Linh hồn và tâm thức khác nhau ở chỗ linh hồn sáng suốt mà không thay đổi, còn thức thì phân biệt đổi thay, do vậy mà Phật không chấp nhận chữ linh hồn. Bây giờ quí vị tự kiểm nghiệm lại tâm mình xem, những cái mình hiểu biết đổi thay hay là thủy chung như nhứt? - Hồi nhỏ cái hiểu của mình khác, lớn lên hiểu khác, có đi học hiểu khác, không học hiểu khác, tâm thức mình trăm ngàn thứ đổi thay, có tâm thức ác, có tâm thức thiện, có tâm thức mê muội, có tâm thức sáng suốt. Nếu gặp duyên tốt khéo sửa đổi thì dần dần nó tốt, gặp duyên xấu lôi kéo theo chiều hướng xấu dần thì dần dần xấu. Như vậy nó là cái dòng chuyển biến nên mình muốn cho nó chuyển biến theo chiều tốt mình mới tu. Còn linh hồn là cái nguyên vẹn thì không tu được. Cho nên chấp linh hồn là một điều sai lầm, do cái chấp đó mà người không có ý niệm tu hành để chuyển biến. Quí vị đã thấy cái khác biệt nguy hiểm đó chưa?

2. Nhà Phật không thừa nhận linh hồn bởi những lý do nêu trên.

3. Sự tái sanh luân hồi khi thân tứ đại tan rã là sự việc mà lâu nay ai cũng thắc mắc, thường người ta nghĩ rằng linh hồn đi đầu thai, mà nếu linh hồn đầu thai thì con người khi ra đời sẽ hoàn toàn sung sướng hết, bởi vì người có cái linh là sáng suốt thì phải lựa chỗ tốt để đến, nhưng thực tế có người sướng người khổ thì không có linh. Đạo Phật không thừa nhận linh hồn thì cái gì đi tái sanh? - Nhà Phật nói nghiệp thức dẫn đi tái sanh, chớ không nói linh hồn. Tại sao vậy? - Nghiệp là thói quen, thức là cái biết phân biệt; cái biết phân biệt theo thói quen nó dẫn mình đi tái sanh. Nếu huân tập thói quen tốt thì nó dẫn mình đến chỗ tốt, huân tập thói quen xấu thì nó dẫn mình đến chỗ xấu. Ví dụ người có thói quen uống rượu thì tìm tới quán rượu, người có thói quen đánh bạc thì tìm sòng bạc. Như vậy, sự huân tập nó thành một sức mạnh, cho nên Phật dạy muốn dứt sanh tử thì phải sạch vọng niệm. Vì còn khởi niệm thì còn theo nghiệp để tái sanh. Chính cái nghiệp thức này dẫn đi tái sanh chớ không phải linh hồn, nếu sạch vọng niệm (hết nghiệp) thì hết sanh tử.

4. Nếu không có linh hồn thì có giác linh không? - Trước tôi đã nói hết nghiệp thức thì hết tái sanh, hết tái sanh thì còn cái gì? - Còn hòn ngọc ma ni mà tôi đã nói, bởi vì hết mê thì giác, tất cả cái mê đều hết sạch thì lúc đó toàn giác.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, Niết-bàn và vô sanh là đồng nghĩa hay khác? Xin Hòa thượng chỉ dạy cho con.

Tất cả kinh luật từ kim khẩu của Phật nói ra do ngài A-nan trùng tuyên lại, mà sao trong kinh Pháp Hoa nói Phật nhờ Đề-bà-đạt-đa Ngài mới được ngộ kinh Pháp Hoa?

ĐÁP: - Niết-bàn và vô sanh không hai, bởi vì vô sanh là không còn tái sanh nữa. Niết-bàn nguyên tiếng Phạn là Nirvana đọc âm là Niết-bàn, có nghĩa là không còn sanh tử nữa, Trung Hoa dịch là vô sanh, cho nên hai từ này đồng nghĩa.

- Tất cả kinh luật từ kim khẩu Phật nói ra, tại sao kinh Pháp Hoa nói Phật nhờ Đề-bà-đạt-đa mà ngộ được kinh Pháp Hoa?

Phật tử này hỏi thì phải hỏi thêm câu: Trong kinh Kim Cang nói: Kinh này là mẹ ba đời của chư Phật, vậy Phật nói hay ai nói? Trong kinh A-hàm thì Đề-bà-đạt-đa là người phá hòa hợp tăng, làm thân Phật ra máu, phạm tội ngũ nghịch phải đọa không thể cứu. Nhưng kinh Pháp Hoa nói Đề-bà-đạt-đa là người ân của Phật, là thiện hữu tri thức cỡ lớn. Nhờ "thiện hữu tri thức" này mà Ngài được kết quả là ngộ kinh Pháp Hoa. Chính chỗ này tôi nói kinh Đại thừa là một sức mạnh phi thường.

Thường chúng ta tu hay sợ bị phá, nên phải học một câu chú hay thỉnh một lá bùa để ếm quỉ trừ ma. Người tu như vậy quá nhát, không hiểu đạo lý. Quí vị nhớ, lúc Phật ngồi Thiền dưới cội bồ đề, khi bị ma vương phá Ngài có dùng câu chú, là bùa nào không? - Trong kinh thường nói Ngài dùng kiếm trí tuệ, cung Thiền định để trị ma quân. Ngày nay chúng ta tu, không chịu dùng trí tuệ, cứ kiếm bùa chú để trị là trái với Phật rồi. Ở đây đức Phật thành đạo, ngoài những ân nhân thí chủ giúp đỡ Ngài, mà còn nhờ Đề-bà-đạt-đa gây đau khổ cho Ngài, ngai đây Ngài vươn lên nên sớm thành đạo. Nhờ Đề-bà-đạt-đa mà Ngài sớm thành đạo mới ngộ được Pháp Hoa. Nói Đề-bà-đạt-đa dạy kinh thì không phải, mà do tạo điều kiện cho Phật vươn lên để vượt qua thử thách mà thành đạo. Hiểu như vậy quí Phật tử mới thấy an ổn. Giả sử có ai tìm cách này cách kia phá, quí Phật tử đừng buồn đừng giận mà phải thấy người đó là ân nhân số một của mình. Nghĩ được như vậy thì trên đời này người giúp đỡ mình là ân nhân, người phá mình cũng là ân nhân, thì cả thế gian này ai cũng là ân nhân. Mọi người chung quanh đều là Bồ-tát, Bồ-tát cỡ nhỏ thì giúp đỡ mình, Bồ-tát cỡ lớn thì làm khổ mình. Hiểu vậy thì không bao giờ buồn phiền ai cả. Quí vị thấy chỗ đạo đức rất là thâm sâu, rất là tế nhị. Cho nên thấu được lý kinh Pháp Hoa, chúng ta thấy quá hay, quá cao siêu, tinh thần của kinh Đại thừa là một sức mạnh để mình vươn lên chớ không phải để trốn tránh cầu xin.


HỎI: Kính xin Hòa thượng giải thích câu: "Nhị đế dung thông tam muội ấn. Nhị đế là gì? Tam muội ấn là gì? Sử dụng tam muội ấn để làm gì?

ĐÁP: Trong kinh chúng ta thường ngày có câu: Nhị đế dung thông tam muội ấn. Nhị đế trong nhà Phật là chân đế và tục đế, hay nói đủ là thế tục đế và chân đế.

Thế tục đế là chỉ cho những lẽ thực mà người thế gian chấp nhận. Chân đế là lẽ thực đúng chân lý chỉ có người giác ngộ mới thấy. Chúng ta tu thường hay bị kẹt đây là thế tục đế, kia là chân đế. Chân và tục có hai lãnh vực riêng. Thí dụ tôi xuất gia, quý đạo hữu tại gia, thì tại gia là thế tục, xuất gia là tu hạnh giải thoát. Nhưng nói như vậy chỉ trúng một phần nào thôi chớ không phải chân lý. Nếu quý đạo hữu ở thế tục mà tâm quí vị hằng ngày sống thanh tịnh, còn xuất gia như chúng tôi mà nghĩ chuyện lợi, chuyện danh v.v... thì sao? Ai là giải thoát?

Vậy thế tục có hẳn là thế tục suốt kiếp không? Xuất gia có hẳn là xuất thế thật không? - Chỉ là ngôn từ thôi chớ chưa đúng lẽ thật. Cho nên người hiểu đạo không dính hai bên, không kẹt thế tục cũng không kẹt chân đế, hai bên đều dùng hợp nhau thì đó là "nhị đế dung thông tam muội ấn". Cái ấn chánh định là hai đế hợp nhau chớ không có tách rời.

Tam muội ấn là thế nào? - Ấn là con dấu như dấu ấn, dấu tam muội. Trong nhà Thiền thường hay nói truyền tâm ấn, tức là tâm của thầy và tâm của đệ tử khế hợp nhau gọi là truyền tâm ấn, tức là tâm người thầy tâm người trò in nhau, không sai biệt. Tam muội ấn tức là ấn chánh định, mà muốn chánh định viên mãn thì phải dung thông hai đế.

Câu chót hỏi sử dụng tam muội ấn để làm gì? Xin trả lời: Sử dụng tam muội ấn để thành Phật.


HỎI: Ngài Huệ Năng nghe giảng kinh Kim Cang, Ngài thốt lên: Đâu ngờ! Đâu ngờ!v.v... Đệ tử chẳng dám nghi ý Tổ, nhưng vẫn còn mờ mịt, xin Thầy cho vài ví dụ để con được sáng thêm.

ĐÁP: Cái chuyện: Đâu ngờ v.v... của Lục Tổ, đọc tới đó Phật tử này thấy mờ mịt là vì Ngài ngộ mới thốt lên "Đâu ngờ v.v...", Phật tử này đâu có ngộ nên mờ mịt là lẽ đương nhiên. Ví dụ, trong nhà có một món đồ quý, chủ nhà cất mà không nhớ chỗ, bây giờ muốn lấy ra xài, nhưng không biết ở đâu để lấy, cứ loay hoay tìm hoài, bất thần tìm được, họ la lên: A! Đây rồi. Khi họ la lên, người ngoài cuộc lúc đó có biết họ mừng cái gì không? - Đâu biết, vì đó là chuyện họ tìm, gặp được họ mừng, còn mình không tìm không gặp làm sao mình mừng như họ. Tôi tạm thí dụ cho Phật tử này hiểu. Chúng ta tu mà không nghĩ phải tìm cho ra cái chân thật của mình, cứ tu cho có phước, tụng kinh cho có phước v.v... cứ làm mấy việc đó thôi, đâu có thắc mắc thì đâu có tìm, đâu có tìm thì đâu có "Đâu ngờ!".

Mục Lục