Những Cánh Hoa Đàm (Tập 2)
Những Cánh Hoa Đàm (tt3)
HỎI: Kính bạch Thầy, bên Tịnh độ dạy người chết mới tắt hơi thân nhân không nên động tử thi hay lau rửa, phải đợi tám giờ sau. Vì khi tắt hơi thức A-lại-da chưa đi, nếu khóc hay lay động thây sớm thì họ còn cảm giác đau đớn, sân hận. Ở Tây phương đa số chết ở bệnh viện, vừa chết đưa vào nhà xác, thân nhân mướn nhà quàng đến tẩn liệm, quàng thây tại đây đến ngày chôn hoặc thiêu, như vậy không thể áp dụng những điều nói trên, kính bạch Hòa thượng vậy phải làm sao? Khi sắp chết và khi quàng thây nếu không có chư Tăng hộ niệm hay tụng kinh thì có thể sử dụng băng tụng hay không? ĐÁP: Phần này tôi chỉ nói đơn giản là khi tắt thở các thức: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý liền lặng mất, chỉ thức A-lại-da thì còn ngầm ở trong từ từ ra sau. Tuy nó ra sau nhưng thân này hoại rồi nó cũng đi chớ không ở lâu lắm. Có nhiều vị nói nó ở tám tiếng đồng hồ đó là một lối nói thôi. Trong kinh A-hàm hoặc Nikaya nói rằng sau khi nhắm mắt thần thức liền theo nghiệp mà đi chớ không nói ở lâu. Thôi thì tùy duyên người ta săn sóc sớm, bỏ vô quan tài sớm cũng không sao! Khi người nhắm mắt không có Tăng Ni tụng Kinh thì dùng băng điều này cũng tốt thôi. Tụng Kinh không phải tụng cho người chết mà tụng cho người sống, nói điều này quý vị nghe có lạ không? - Tại sao nói tụng Kinh cho người sống? - Có hai lý do: 1. Gia đình có đám ma thì buồn bã, nhờ Tăng Ni tụng Kinh nghe lời Phật dạy mà quên buồn đó là vì ai? - Vì người sống phải không? Người chết đâu ở đó mà buồn! 2. Khi tụng Kinh người sống nghe, thấm nhuần được giáo lý Phật dạy được lợi ích, còn người chết lợi ích không nhiều. Kinh Địa Tạng nói người sống hưởng hai phần ba, người chết chỉ hưởng một phần ba thôi. Thật ra ai cũng muốn cho người chết được hưởng chớ đâu có dành phần cho mình, nhưng thực tế lại khác vì người chết theo nghiệp mà đi, người sống thì được hưởng, lẽ thật nó là như vậy.
ĐÁP: Loài rồng có hoặc không, cái gì mình không thấy mà nói thì không đúng, tôi xin nói theo trong Kinh kể: có loài rồng ở Long cung, mà Long cung ở trong biển cả, đó là theo kinh nói vậy tôi nói theo chớ không dám nói thật có hoặc thật không. Còn hỏi tại sao Long nữ tu mau thành Phật quý Phật tử bây giờ tu lại lâu? - Điều này chẳng có gì lạ, dù cho Long nữ hay Lộc nữ (con nai) mà ngộ được tánh giác rồi thì tu mau, nếu là người mà chưa ngộ tánh giác thì tu lâu. Ngộ tánh giác theo kinh Pháp Hoa nói là ngộ tri kiến Phật. Long nữ nhờ Bồ-tát Văn Thù giáo hóa ngộ được tánh giác nên tu mau. Còn quý Phật tử bây giờ, rất tiếc là không gặp được ngài Văn Thù, gặp chúng tôi thì phàm tăng quá không ngộ được tánh giác nên tu lâu. Vậy cái sai sót lỗi lầm tại ai? - Chắc tại tôi phải không?
Trong kinh Địa Tạng phẩm sáu Phật nói: Người gây ác nghiệp đau nằm liệt trên giường, quyến thuộc của người ấy lấy đồ vật của người ấy cúng dường Tam bảo và đọc kinh Địa Tạng cho người ấy hay biết thì dù từ trước tội có nặng đến năm tội vô gián cũng thường nhớ biết công việc đời trước. Kính bạch Hòa thượng có nhiều tha lực của Bồ-tát Địa Tạng cứu vớt chúng sanh khỏi địa ngục. Như vậy kinh Phật nói có mâu thuẫn không? Theo thiển ý của con thì cầu tha lực của Phật và Bồ-tát Địa Tạng dễ dàng hơn tu thiền để đạt được minh tâm kiến tánh. ĐÁP: Phải rồi, tha lực lúc nào cũng dễ còn tự lực thì khó, nhưng quý Phật tử nhiều khi nghe mà không chú ý rồi tự hiểu lầm. Kinh Địa Tạng nói thân nhân của người bệnh lấy đồ đạc của người ấy đem ra bố thí cúng dường Tam bảo và đọc kinh Địa Tạng để cho người ấy hay biết. Nghĩa là cái việc làm đó người bệnh biết, biết tức là họ vui, họ chịu thì họ mới được hưởng cái phước đó, còn họ không biết không hay thì không được hưởng. Như vậy họ có biết tức là họ có phát tâm trong đó, mà có phát tâm tức là tự lực. Cho nên tự lực không rời tha lực, hay ngược lại tha lực không rời tự lực. Như kinh Di Đà dạy niệm Phật đến nhất tâm bất loạn sẽ được Phật rước về Cực Lạc, đó là tự lực hay tha lực? - Nếu tha lực thì Phật không nói niệm Phật đến nhất tâm bất loạn làm chi. Mà niệm tới nhất tâm bất loạn rồi thì là tự lực, và sau đó được Phật rước là tha lực. Như vậy tự lực là gốc, nếu trông vào tha lực thì khó mà được.
ĐÁP: Câu "Đạo truyền đạo" thì tôi không thấy, nhưng "tâm ấn" thì có, quý Phật tử thường nghe nói "truyền tâm ấn". Chữ ấn là con dấu, con dấu của cơ qian chẳng hạn. Chúng ta xin giấy tờ của cơ quan nào đó, nếu không đóng dấu thì không có giá trị, con dấu để xác minh đúng sự thật cho người tin. Dùng tâm ấn tâm hay truyền tâm ấn là thầy và trò thấy hiểu tương ưng nhau. Cái thấy của người trò như cái thấy của người thầy, ngược lại cái thấy của người thầy như cái thấy của người trò gọi là "ấn". Tức là con dấu đó ấn vào, in vào cho người ta tin điều đó thật đúng. Như vậy thầy thấy thế nào trò thấy thế đó, gọi là truyền tâm ấn, cho nên nói truyền mà không có truyền gì hết, chỉ là một cái gật đầu, một tiếng hét, hoặc lạy ba lạy vậy thôi. Đó là truyền tâm ấn.
ĐÁP: Phật tử này lương thiện quá, nghĩ lo cho cha mẹ anh em con cháu thành danh thành tài thì phải kiếm tiền thật nhiều, phải vọng tưởng suy nghĩ. Hỏi như vậy có lỗi gì không? - Thật ra thì không có lỗi gì nếu vì gia đình mà lo, nhưng lo nhiều thì tâm không an nhiên thanh tịnh, ngồi lại nó lăng xăng, như vậy được phần đời thì hơi kém phần đạo.
ĐÁP: Đa số quý Phật tử hay lo lắng chuyện này. Kinh Phật thường dạy, tôi chỉ tóm lược lại một vài điểm: Lúc cha mẹ hấp hối người sắp chết khổ trăm bề, cơ thể rã rời đau đớn lại thêm lo sợ không biết đi về đâu, tâm hốt hoảng không làm chủ được. Vì vậy mà Kinh thường khuyên lúc đó gia đình nên họp lại tụng Kinh hoặc niệm Phật giúp sức mạnh cho người hấp hối nhớ tỉnh, bớt khổ. Có nhiều nơi quý thầy ở gần rước đến trợ niệm điều đó rất cần. Khi mất rồi lo ma chay thì tùy khả năng có ít cúng ít, có nhiều cúng nhiều không quan trọng. Trong vòng bốn mươi chín ngày nếu Phật tử nghèo thì mỗi đêm tụng Kinh cầu nguyện cho cha mẹ, còn khá giả hơn thì tu phước cúng dường để tăng trưởng phước cho cha mẹ nhờ, đó là thực hành theo Kinh dạy.
ĐÁP: Phật tử này hỏi rất thực tế, tại sao không thấy Kinh nào dạy mà làm. Điều này tôi có giải nhiều lần, nay tôi nói rõ thêm cho quý Phật tử biết: Cúng sao cúng hạn, kinh Phật không bao giờ dạy điều đó. Quý vị chịu khó đọc kinh Di giáo thì thấy Phật quở những vị Tỳ-kheo coi tướng coi tuổi, coi sao hạn. Phật không cho làm mà bây giờ chùa lại cúng là sao? - Bởi vì ngày xưa đất nước mình ảnh hưởng Nho giáo rất nhiều. Các vị Nho xem lịch rồi cúng cho dân, rất tiếc sau này không ai học Nho nữa, lịch cũng không ai coi, chỉ có mấy thầy đọc Kinh chữ Hán cho nên cuốn lịch được đem vô chùa nhờ quý thầy coi giùm. Khi coi nói tuổi đó bị sao hạn đó, sợ quá nên nhờ thầy cúng giùm. Quý thầy thì từ bi nếu từ chối tội nghiệp, cho nên cúng giùm thành quen. Và nếu cúng từng người thì mất thời giờ của thầy, cho nên mỗi năm họp lại cúng một lần vào ngày mồng tám tháng giêng. Việc này quý thầy làm thế cho mấy ông đồ Nho, không phải chân lý cũng không đúng nghĩa đạo. Ngày nay khoa học tiến bộ thấy mỗi ngôi sao là một hành tinh. Hành tinh thì đâu có hộ cho ai, có hành ai đâu mà cúng. Nhà Phật dạy nhân quả là đúng lẽ thật, không ai đem cái khổ cái vui đến cho mình mà do tạo nhân đưa đến quả thôi. Tin điều đó là chánh tín, còn tin sao hạn không đúng lẽ thật gọi là mê tín.
ĐÁP: Trong nhà Phật thì quả nào theo nhân nấy, ăn cắp của người nào thì phải đền cho người đó, còn làm phước bố thí thì được phước với người mình giúp, phần nào ra phần nấy chớ cái này không bù qua cái kia được. Nhà Phật cũng thường nói thân này là thân tổng báo, tổng báo là quả báo chung. Trong cuộc sống chúng ta gặp tai nạn dồn dập đó là tổng báo. Nợ thì phải trả, phước thì được hưởng, chớ không có cái này bù qua cái kia. Bố thí cho người nghèo và cúng dường cho một vị Tăng, hai cái đó cũng một việc làm, tại sao quả báo khác nhau? Điều này tôi có nói một lần, nay giải thích lần nữa cho quí vị hiểu rõ. Bố thí cho người nghèo thì được phước là cái chắc chắn rồi, còn cúng dường cho một vị Tăng cũng có phước, nhưng cúng dường gieo duyên để sau mình được Tăng đó độ. Ví dụ thấy người tật nguyền giúp cho họ bớt khổ nên được phước vui, nhưng không có duyên với Phật pháp. Còn cúng cho một vị Tăng tức là tạo cái duyên để sau này nhờ phước cúng dường mà được Tăng độ. Đó là chỗ sai biệt của việc bố thí cho người nghèo và cúng dường cho các vị Tăng.
ĐÁP: Đứa bé này có chủng duyên phi thường. Cha mẹ dạy bé niệm Phật, niệm nhiều rồi nó hỏi: Ba má dạy con niệm Phật, vậy Phật niệm ai? Cha mẹ bé không có gan trả lời. Nếu hỏi tôi thì tôi trả lời rằng: Phật niệm chúng sanh. Bởi vì niệm là nhớ nghĩ, mình nhớ Phật để được thành Phật, còn Phật thì nhớ chúng sanh để cứu độ. Nếu Ngài không niệm chúng sanh thì Ngài đâu có độ phải không?
ĐÁP: Người lạy và người bị lạy, hai người đó có lợi ích gì? Tôi nói bị lạy chớ không nói được lạy nghe! Thật ra đúng là người biết tu thì sợ bị lạy lắm, nhưng vì bất khả kháng đó thôi. Trong kinh Phật dạy Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) là phước điền của người Phật tư, nếu Phật tử không có tâm kính lễ Tam bảo thì phước không tăng trưởng. Vì chúng ta kính trọng ai, tâm chúng ta mới hướng về người đó mong cầu học hỏi và người đó dạy chúng ta mới chịu nghe. Trong kinh Phật dạy người Phật tử cũng như chư Tăng, tu còn thấp thì phải lễ kính vị cao hơn để có phước, tăng trưởng đạo đức. Phật tử có nhiều vị hiểu lầm nói lạy để thầy ban ơn ban phước cho. Không phải vậy! Chúng ta kính trọng là do tâm khát ngưỡng mong mỏi mình giống như người đó. Cung kính lễ lạy để học hỏi noi theo. Khi kính lạy có lợi ích gì đâu! Chẳng qua là thấy người ta quý kính mình. xét thấy mình chưa có đức hạnh thì hổ thẹn, cố gắng tiến tu cho xứng đáng với lòng quý kính của Phật tử, cái lợi của người bị lạy là chỗ đó chớ không có lợi nào khác hết.
ĐÁP: Phật tử hiểu chưa rõ việc này, nghĩ mình nguyện thôi chớ khỏi cầu siêu cầu an. Bây giờ tôi giải thích sơ lược cho Phật tử hiểu. Quý Phật tử thường có cái mâu thuẫn là nguyện cho người thân mình về cõi Phật, mà rước thì rước về nhà. Nghĩa là khi tụng Kinh thì nguyện siêu thăng Tịnh độ, nhưng lại nhờ thầy ra mộ rước vong về thờ. Nếu rước về thờ thì cha mẹ có về Tịnh độ được không? Không. Như vậy là mâu thuẫn. Các Phật tử nên biết cầu nguyện cho cha mẹ siêu thăng Tịnh độ hoặc sanh về cõi lành, đó là tâm nguyện của người con, của những vị hộ niệm. Được hay không là chuyện khác. Nếu nguyện được hết chắc khỏi tu, cho nên phải hiểu nguyện đó chẳng qua là khởi tâm lành đối với người chết. Vì vậy mà nguyện cho cha mẹ sanh về cõi lành; nếu chưa được sanh về cõi Phật thì được sanh về cõi người gặp Phật pháp sớm để tiếp tục tu. Đó là cái nguyện của người con đối với cha mẹ khi trăm tuổi.
ĐÁP: Ngày giỗ, ông bà cha mẹ có về với con cháu không? - Không. Nếu không thì cúng làm chi, cúng ai ăn? Đó là một việc hơi khó xử. Chúng ta tự hiểu ngầm là ông bà cha mẹ không có về, nhưng cúng thì vẫn cúng. Tôi thấy đó chỉ là một phong tục, tập quán tốt của xứ sở mà đạo Phật tùy thuận. Về việc này Phật tử nên làm hai điều: Một là nên làm công đức bố thí hoặc phóng sanh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ được phước lành để sanh vào cõi lành. Hai là tụng Kinh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ được phước lành sanh về cõi lành. Hai điều đó là cụ thể hơn hết. Có trường hợp ngược lại, ngày giỗ người ta làm heo, gà, bò, vịt để cúng, nhưng cha mẹ đâu có ăn. Chúng ta cứ kết tội thêm, nói là làm cúng ba má đó, nghe tưởng như con có hiếu, không ngờ con làm khổ chúng sanh để cầu cho cha mẹ được an lạc. Việc làm này có hợp lý không? Cha mẹ được an lạc không? Tôi đề nghị quý vị cúng chay đơn giản được rồi, nếu có phương tiện thì mua vật phóng sanh, hoặc đến những chỗ người ta đang khổ như bệnh viện, trại phong v.v... giúp cho người bớt khổ, lấy công đức hồi hướng cho cha mẹ, đó là điều rất tốt.
ĐÁP: Phật tử này thắc mắc, người thì có tánh linh, tánh linh sanh lại làm người mà bây giờ dân số cứ tăng lên hoài vậy ở đâu mà có? Trước đây tôi đã có trả lời câu này, nay chỉ nhắc lại một chút thôi. Kinh Phật nói trong vũ trụ này không phải chỉ có một thế giới chúng ta đang ở, mà có rất nhiều thế giới. Khi một thế giới sắp hoại thì chúng sanh ở thế giới đó qua thế giới khác, đó là lý do thứ nhất có chúng sanh tăng. Thứ hai Phật dạy lục đạo luân hồi là sáu cõi: Trời, người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh lẫn lộn lên xuống. Như vậy ở cõi súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ khi hết nghiệp chúng sanh cõi đó lại được sanh làm người và ở cõi người tạo nghiệp lại bị sanh vào các loài ấy. Cho nên số tăng ở cõi người là do hai lý do trên.
ĐÁP: Câu hỏi này hợp lý, vì là Phật tử thích có hiếu thảo muốn con cái sau này cũng hiếu thảo, mà ngài Mục Kiền Liên là gương hiếu thảo sao ít đề cập tới? Giải thích câu hỏi này phải có nhiều thời giờ. Ở đây, tôi chỉ nói đơn giản cho quý Phật tử hiểu. Thường các chùa thờ Đức Phật Thích Ca còn thờ hai vị Bồ-tát phụ tá là ngài Văn Thù và ngài Phổ Hiền. Còn nếu thờ Phật Di Đà thì thờ hai vị phụ tá là Bồ-tát Quán Âm và Bồ-tát Đại Thế Chí mà không thờ đức Mục Kiền Liên. Khi lạy danh hiệu đức Phật Thích Ca xong thì chung ta lạy danh hiệu Bồ-tát Văn Thù, Bồ-tát Phổ Hiền. Còn khi lạy đức Phật A Di Đà xong chúng ta lạy Bồ-tát Quán Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí. Tại sao lại như vậy? Đây là một vấn đề hết sức cần thiết, lẽ ra phải nói thành một bài giảng, nhưng ở đây thì giờ ít tôi nói đại khái thôi. Đức Phật Thích Ca là một vị Phật thành đạo ở cõi Ta bà, mà cõi Ta bà là cõi nhiều uế trược. Khi Phật đến cội Bồ-đề, Ngài dùng cỏ (trong sử ghi là cỏ cát tường) làm tòa ngồi. Nhưng bây giờ chúng ta là đệ tử thờ Ngài sao không để Ngài ngồi tòa cỏ cho đúng sự thật mà lại để Ngài ngồi trên tòa sen? - Vì sen mọc dưới đầm, mà đầm thì sình lầy uế trược, từ chỗ uế trược sen vượt lên nở hoa thơm. Cũng vậy Phật từ cõi uế trược khổ đau mà giác ngộ, chứng quả Phật. Thế nên thỉnh Ngài ngồi tòa sen là hình ảnh tượng trưng ở trong cảnh nhớp nhúa mà Ngài thanh tịnh sáng suốt như đóa sen vươn lên trong chốn bùn nhơ. Hai vị Bồ-tát Văn Thù và Phổ Hiền cũng là hai vị Bồ-tát tượng trưng. Chúng sanh ở cõi Ta bà cang cường nan điều nan phục, dạy nói không hiểu mà hiểu rồi lại quên thành ra dạy hoài mệt mỏi thôi. Cho nên ở trong cõi khổ này muốn tu hành cho sáng được thì phải mở sáng trí tuệ, vì ở trong cảnh khổ mà không mở sáng con mắt tuệ, thì mãi chìm trong đó không bao giờ ra nổi. Ngài Văn Thù cỡi con sư tử, sư tử tượng trưng cho sự dũng mãnh nhất trong các loài thú. Thờ ngài Văn Thù ngồi bên phải đức Phật Thích Ca ý nói trí tuệ đứng hàng đầu, có trí tuệ mới thoát khỏi cảnh khổ luân hồi sanh tử. Ngài Phổ Hiền cỡi con voi ngồi bên trái đức Phật, voi tượng trưng cho sức mạnh kéo chở nặng nề. Ý nói có trí tuệ rồi phải có hạnh nguyện độ sanh đầy đủ mới thành Phật được. Đó là ý nghĩa hai vị Bồ-tát tượng trưng, chúng ta lạy Ngài để nhắc nhở chúng ta tu không thể thiếu hai đức tối yếu là trí tuệ và hạnh nguyện. Còn Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc an vui, muốn độ chúng sanh ở cõi Ta bà uế trược thì trước hết phải khởi tâm từ bi tượng trưng Bồ-tát Quán Thế Âm. Nhưng khi hành hạnh từ bi giúp người đôi lúc cũng gặp nghịch cảnh cho nên bên cạnh phải có Bồ-tát Đại Thế Chí tượng trưng cho ý chí mãnh liệt. Vì thiếu ý chí thì không thể đến cảnh khổ giúp người được. Đó là hình ảnh hai vị Bồ-tát dạy cho người tu khởi tâm từ bi hành hạnh lợi tha độ đời, phải có ý chí mãnh liệt mới không thối chuyển. Còn ngài Mục Kiền Liên là con người hiếu thảo, không phải là hạnh tu cho nên không lạy, chỉ đến ngày lễ Vu Lan mới có lễ, lạy Ngài để học tấm gương hiếu thảo thôi.
ĐÁP: Phật tử này kỹ quá, thật ra đây là lời văn, văn thì lúc nào cũng có cái đối cho người ta dễ hiểu. Bây giờ nói trăng thật làm sao mà nói cho rõ được, nếu không ngắm thì làm sao thấy để nhận ra nên phải dùng chữ ngắm cho dễ hiểu, đó là một cách cụ thể hóa cho sự nhận ra. Đã thật là mình rồi còn ngắm cái gì nữa! Nhưng trên ngôn ngữ nói như vậy cho người ta dễ hiểu để tu. Đừng bắt chẹt tội nghiệp người xưa.
ĐÁP: Chỗ này là chỗ hiểu lầm của Phật tử. Phật tử hiểu giữ giới không sát sanh là tất cả con gì cũng không được động đến đó là hiểu lầm. Giới sát sanh của Phật tử là không được giết người mà tôi thường nhắc có ba trường hợp: Tự tay giết, dùng miệng xúi người khác giết, thấy kẻ khác giết nhau mình vui mừng tùy hỷ. Giới sát của Phật tử căn cứ trên con người chớ không căn cứ trên loài vật. Người xuất gia như quý thầy mới nói tới không giết những loài vật nhỏ, vì quý thầy ăn chay trường thì giết làm gì? Quý Phật tử đối với những con vật lớn nhỏ, con nào mình tránh được thì nên tránh. Hiểu như vậy thì đâu có lỗi.
ĐÁP: Phật tử này bênh vực mấy con vật đáo để. Chư thần bất lực việc này, vì chư thần đâu có hóa người thành con này con kia được. Nếu như chư thần có hiện ra đây cũng lắc đầu thôi, còn với tôi thì điều đó tôi làm không nổi! Thôi thì chúng sanh tạo nghiệp thì chúng sanh chịu. Quý Phật tử nên hiểu rằng cái nghiệp của chúng sanh sinh ra làm con vật nào thì theo nghiệp mà chịu quả. Nếu người sử dụng con vật đó vừa phải thì ít tội, nếu sử dụng quá đáng thì họ có tội. Phật tử này lại nghĩ họ tạo ác qua đời khác trả quả họ không biết hoặc có biết cũng đã muộn. Sự thật thì chúng ta có cái mê lầm cứ thấy những cái hiện tại mà không xét lui về quá khứ. Phật thường dạy: "Muốn biết nhân đời trước hãy nhìn ngay quả đời này, muốn biết cái quả đời sau phải nhìn cái nhân mình đang tạo đời này". Vì vậy ngay trong đời này ráng làm sao cho có phước đức, để cái khổ cũ hết, không còn tiếp tục khổ nữa, sau được vui, đó là tỉnh. Còn nếu nghĩ tới hiện tại mà trách trời trách đất thì đó là không tỉnh. Mục Lục
|