Những Cánh Hoa Đàm (Tập 2)
Những Cánh Hoa Đàm (tt6)
HỎI: Quả hiện tại là do mình gieo nhân ở quá khứ, nhưng tại sao người ta thường nói con gái nhờ đức cha, con trai nhờ đức mẹ. Vậy hành động của cha mẹ có ảnh hưởng đến con cái hay không. Có trường hợp người cha hoặc người mẹ làm việc bất thiện, sau đó sanh con ra không được bình thường thì mọi người nói tại cha nó làm ác nên mới thế. Vậy đó là do trùng hợp hay sự thật có ảnh hưởng? ĐÁP: Câu hỏi này rất gần với quý Phật tử. Thường ở thế gian người ta nói con gái nhờ đức cha, con trai nhờ đức mẹ. Vậy việc tu của mình với cha với mẹ ảnh hưởng nhiều ít? - Tôi xin giải thích cho quý Phật tử hiểu. Việc tu của mình là gốc, nhưng trong nhà Phật nói: Chúng ta sanh ra đời còn có cái đồng nghiệp với cha mẹ, tức là cha mẹ thiện thì con cái thiện tới với cha mẹ, cha mẹ ác thì con cái ác tới với cha mẹ đó gọi là đồng nghiệp cảm. Nhưng có trường hợp ngoại lệ, có khi cha mẹ thiện mà con lại ác, đó cũng là nghiệp cảm, thì nghiệp cảm có hai nghĩa: Nghiệp cảm do lòng thương quý, nghiệp cảm do lòng thù hận. Tôi thường khuyên quý Phật tử lúc sắp lâm chung đừng giận ai, cũng đừng thương ai để tránh nghiệp cảm. Vì thương hay ghét đều chứa trong lòng, mà chứa trong lòng là có cảm. Thương ai hay ghét ai đều nằm trong ký ức, khi sắp chết, những cái hiện tại mình bỏ qua hết rồi, chỉ còn trong ký ức. Người mình thương nhớ nhiều hay oán ghét nhiều khi tái sanh thì gặp lại. Nếu oán ghét nhiều thì gặp lại để trả nợ, cho nên có những gia đình cha con không thuận, rầy rà khổ sở. Họ đổ thừa tại tuổi không hợp, nhưng không ngờ rằng cái tâm thù hằn nó cảm với nhau tới để mà trả nợ. Bởi vậy biết tu rồi thì phải giữ tâm đừng khởi niệm oán thù ai. Tóm lại nghiệp thiện ác mà chúng ta huân tập trong ký ức đủ duyên chiêu cảm thành nghiệp hiện hành, chớ nói theo thế gian con gái nhờ đức cha, con trai nhờ đức mẹ là không đúng, đó không phải là chân lý.
ĐÁP: Câu hỏi này là lầm. Ngài đã xuất gia ở Ấn Độ mà vì chư tổ đã mang y bát về Trung Quốc, nên Ngài tìm qua Trung Quốc, đến núi Tư Không gặp tổ Tăng Xán, được tổ khai thị Ngài liền ngộ, tổ mới dạy qua phương Nam, chứ không phải chưa xuất gia.
ĐÁP: Tất cả cái oan ức mà người ta gieo cho mình có hai trường hợp. Nếu cái oan ức đó họ bảo mình giải thích cho phân minh thì mình giải thích, còn không ai bảo thì thôi mình làm thinh bỏ qua. Nhưng mà chúng ta đâu chịu bỏ qua, cứ nói với người này, người khác để giải cái oan ức của mình, mà khi giải oan ức của mình thì người gieo oan ức cho mình là xấu hay tốt? - Khi biện bạch rằng tôi không có mà người đó làm như vậy... là như kết tội người ta rồi, khiến người ta thêm giận mình nữa.
ĐÁP: Cái nghi này rất có lý, tôi ngày xưa cũng không bằng lòng chỗ này. Nhưng tôi nói phân hai cho quý vị hiểu, câu chuyện thì như vậy nhưng chúng ta phải xác định là bà không có chồng mà có con phải không? Chuyện hơi khó tin nhưng gần đây các nhà khoa học lại có cái nhìn khác, người ta nói năm nào tôi không nhớ ở Pháp có phát minh ra con ếch không có bố, tức là không có ếch cha mà có ếch con. Gần đây có thông tin về một nước toàn là phụ nữ không có nam nhân mà dòng giống không mất. Thông tin nói rằng có một cái giếng, ai muốn sanh con tới đó múc nước lên uống sau đó có thai sinh con. Như vậy có những trường hợp ngoại lệ, cô gái họ Châu sinh con cũng là một ngoại lệ. Bây giờ chúng ta thấy vậy hay vậy lạm bàn chưa chắc đã đúng. Thôi thì Phật tử chỉ nên biết Ngài ngộ đạo giảng kinh chúng ta nghe được rồi, chuyện đúng sai không cần thiết.
ĐÁP: Điều này cần nói cho Phật tử hiểu. Đức Phật Thích Ca có ba mươi hai tướng tốt, trong đó có tướng tóc xoáy ốc vòng phải, là một trong những tướng tốt. Khi Ngài vượt thành tầm đạo, ra khỏi thành thì Ngài đã cắt tóc và sau khi chứng đạo dưới cội Bồ Đề thành Phật, Ngài dạy tất cả Tỳ-kheo phải cạo bỏ râu tóc. Dạy đệ tử cạo bỏ râu tóc thì Ngài đâu có để. Nhưng bây giờ đắp tượng người ta muốn là đủ các tướng tốt thì phải để tóc xoáy ốc trên đầu cho đủ ba mươi hai tướng tốt. Còn nói ngài Quán Thế Âm không phải Phật mà là Bồ tát. Vì tu hạnh bồ tát không nhất thiết cạo đầu, có thể là cư sĩ là quan tước đủ hạn... Kinh Phổ Môn nói: Ưng hiện Tỳ-kheo thân đắc độ giả tức hiện Tỳ-kheo, ưng hiện đồng nam đồng nữ v.v... tùy hạng chúng sanh nào muốn cứu khổ Ngài liền hiện tướng đó để giáo hóa. Ngài tùy sở nguyện của chúng sanh mà hiện thân không cố định, song phần nhiều hiện tướng cư sĩ để hành hạnh Bồ Tát theo sở nguyện của chúng sanh. Còn Tăng Ni phải cạo bỏ râu tóc theo luật Phật dạy để dễ tu. HỎI: Kính bạch Hòa thượng, trong chúng của ngài Bàn-Khuê (Bankei) có một đệ tử hay lấy cắp đồ của huynh đệ, chúng đề nghị ngài Bàn-Khuê đuổi người ấy đi, nếu không mọi người sẽ bỏ đi hết. Ngài Bàn-Khuê nói: Dù mọi người có bỏ ta đi hết nhưng ta không thể đuổi đệ tử này. Xin Hòa thượng giải thích cho con hiểu vì sao một người phạm giới trộm cắp mà ngài Bàn-Khuê không đuổi? ĐÁP: Trong câu chuyện này ngài Bàn-Khuê còn nói thêm một câu nữa, Ngài nói rằng: Các ông khôn ngoan đi đâu ở đâu cũng được, còn chú này ngu xuẩn nếu ta đuổi thì chú đi đâu? - Cho nên Ngài không đuổi là vì lòng từ bi thương người đệ tử ngu dại, đi ra bơ vơ không nơi nương náu, không dạy dỗ, chớ không phải là Ngài dung dưỡng thói hư trộm cắp.
ĐÁP: Vì còn sinh trong lục đạo thì còn có chỗ trụ, hết sinh trong lục đạo thì toàn thân đều mát không còn nóng chỗ nào cả.
ĐÁP: Đây là Phật tử hiểu lầm, bên nữ tu hay lắm chứ đâu có dở. Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề là người nữ xuất gia đầu tiên lãnh đạo năm trăm ni chúng. Khi Phật sắp nhập Niết-bàn Ngài dẫn ni chúng đến đảnh lễ xin Phật cho bà và ni chúng nhập diệt trước vì không đành lòng thấy Thế Tôn nhập diệt. Thế tôn hứa khả, bà về trú xứ cùng năm trăm ni chúng ngồi yên nhắm mắt tịch diệt. Như vậy chứng tỏ bà cùng ni chúng đã chứng A-la-hán mới tự tại như vậy, chưa chắc các ông tịch được một lúc như vậy. Phật tử này chưa hiểu điều đó nên thắc mắc.
ĐÁP: Tổ sư Đạt Ma vác gậy tre trên vai và cuối đầu gậy có một chiếc dép. Hình ảnh này tôi thường giảng. Công dụng cái vai là gánh vác, mục đích của Tổ từ Ấn Độ sang Trung Hoa là gánh vác một sự nghiệp thoát ngoài cái đối đãi. Đi dép thì đi một đôi, một đôi là hai bên, nếu bỏ một chiếc thì chiếc kia vô dụng, nhưng Ngài lại quảy một chiếc để nói lên ý nghĩa mục tiêu của Ngài đến Trung Hoa truyền đạo thoát ngoài đối đãi. Cho nên có nhiều người hỏi rằng tu đạo giải thoát hết đối đãi rồi thì còn cái gì? - Hình ảnh Ngài bẻ cành lau quăng xuống biển và cỡi cành lau đi qua biển để nói lên ý nghĩa khi qua hết đối đãi thì có diệu dụng không thể nghĩ bàn.
ĐÁP: Các vị hộ pháp tượng trưng cho các vị Bồ Tát thường ủng hộ ngôi già lam, mà cô hồn là quỷ đói mỗi lần cho ăn nó giành giựt mất trật tự, cho nên nhờ các vị hộ pháp giữ trật tự cho cô hồn khỏi ồn ào chớ không phải hộ pháp là cô hồn.
ĐÁP: Ông Tiêu Diện là vị hộ pháp mặt mày dữ dằn, trong miệng có lửa đỏ để trừng trị mấy đứa quỷ hung dữ, ngỗ nghịch. Trong đạo Phật có nhiều ý nghĩa rất là thâm trầm. Từ bi của đạo Phật có từ bi thuận hạnh và từ bi nghịch hạnh. Từ bi thuận hạnh là thấy người ta khổ mình an ủi, giúp đỡ, còn từ bi nghịch hạnh gặp mấy chú côn đồ hung dữ vỗ về nó có nghe đâu, cho nên phải hóa ba đầu sáu tay dữ dằn hét ra lửa cho nó hoảng sợ và nhờ đó nó phục thiện, nói nó mới nghe. Hiểu như vậy quý vị mới thấy từ bi trong đạo Phật rộng lắm.
ĐÁP: Tôi xin thưa rằng người có phước mới có con đi tu, nhưng muốn quy y thì nên quy y với người khác cho dễ. Vì nếu nghĩ thầy cho mình quy y là con thì không có tâm kính tăng như đệ tử trọng thầy, còn nếu trọng tăng như đệ tử trọng thầy thì vị tăng đó sẽ khó mà xử sự. Bởi vì nếu coi cha mẹ như cha mẹ thì trái với pháp quy y, vì vậy nên chọn thầy khác mà quy y tốt hơn.
ĐÁP: Đánh chuông để cảnh tỉnh hay đánh thức. Nghe tiếng chuông dễ thức tỉnh lắm, vì tiếng chuông âm thanh thâm trầm nghe như có cái gì nao nao trong lòng, cho nên có câu: "Cảnh tỉnh ái hà danh lợi khác". Là người khách đang mê trong biển ái, nhờ tiếng chuông mà họ thức tỉnh. Vào buổi khuya đánh chuông Phật tử nghe chuông thức dậy tụng kinh ngồi thiền, đó là cảnh tỉnh. Vì lợi ích đó nên các chùa gióng chuông vào buổi tối buổi khuya.
ĐÁP: Ví dụ chúng ta đọc Kinh có vấn đề không hiểu, hôm nào đó ngồi thiền tâm yên bất chợt hiểu, đó là tiểu ngộ, tức là hiểu một vấn đề hay một câu trong Kinh mà trước đây đọc qua không hiểu, nay nhờ tu tâm thanh tịnh bất chợt hiểu. Còn đại ngộ là thấu triệt toàn bộ, đó gọi là đại ngộ hay triệt ngộ. Đại ngộ và tiểu ngộ sâu cạn khác nhau.
ĐÁP: Chúng ta có hai cách tu: Một là dùng trí tuệ quán chiếu, hai là dùng lòng thành tín mà qui hướng về Phật. Lòng thành tín là thờ đức Phật trên bàn tuy biết đó là Phật gỗ, Phật thạch cao, nhưng vẫn tin Phật ngự trong nhà mình, trong chùa mình, tin như vậy mà cung kính lễ Phật, cung kính cúng hương hoa. Do niềm tin mạnh và lòng cung kính chân thành mà tâm mình thanh tịnh, tâm thanh tịnh là có kết quả tốt. Còn cách dùng trí quán biết rõ thân này không thiệt, chùa không thiệt, Phật ngồi trên bàn cũng không thiệt, quán thấy tường tận như vậy, nên không chấp vào thân, không chấp vào cảnh, không chấp tất cả, đó là tu. Nhưng nếu chưa được như vậy thì nên kính Phật có phước hơn, có lợi hơn. Nếu chưa được, mà lại chấp là Phật giả không thèm cúng lễ Phật thì thành ra ngạo mạn, phóng túng không có lợi gì cả. Vì vậy tôi khuyên quý Phật tử khi mình chưa đạt được cái thể, thấy thân cảnh, ngã, pháp đều có thật thì phải thờ kính Phật, kính Pháp, kính Tăng, kính tất cả những vị tiền bối để cho tâm mình thuần thục.
ĐÁP: Phật tử này nghĩ tu để trị bệnh thân chớ không phải trị bệnh tâm. Tu thiền nặng về bệnh tâm chớ không chú trọng về bệnh thân, nếu bệnh thân có bớt đó là phần phụ. Trọng tâm của thiền là trị bệnh tâm, bệnh tâm là bệnh loạn tưởng, bệnh phóng ngoại v.v... Bệnh thân nhất là bệnh mãn tính thì tôi không dạy được. Các thầy đau cũng phải đi bệnh viện nhờ bác sĩ điều trị. Còn dạy tu để tuyệt hết bệnh thân tôi cũng không dạy được, bệnh là cái mà Phật cũng phải chịu, thì làm sao tôi dạy tu cho tuyệt bệnh được. Tuy nhiên, người tu thiền có khác với người không tu là thấy rõ thân này có tụ có tán, có hợp thì phải có tan, không giữ nó hoài được. Bệnh là cái có sẵn của cơ thể, khi có một bộ phận nào hư thì có bệnh, vì bệnh là lẽ thường nên không lo không sợ, nên ít khổ. Còn người không tu, thấy thân này thật khi bệnh thì lo lắng sợ sệt nên có hai cái khổ, khổ của thân và khổ của tâm, khổ dồn dập. Tu và không tu khác nhau ở chỗ ít và khổ nhiều, chớ không có pháp dạy cho tuyệt hết bệnh thân.
ĐÁP: Phật tử này nói rằng: Do được một vị Hòa thượng dạy rằng: "Quên được "thân không" nhưng còn cái "kiến không", "pháp không", ráng tiến lên". Phật tử này hỏi khi ngồi thiền giữa niệm trước và niệm sau có lặng một khoảng, chỗ đó có phải là "kiến không" chăng? Tôi xin nói rõ là không phải. Chữ kiến đây chỉ cho kiến chấp, thấy thân này mà không chấp thì gọi là thân không, nhưng còn chấp về cái biết, cái hiểu của mình thì gọi là kiến, nên nói tư kiến, thành kiến, tức là cái chấp về cái biết riêng của mình. Như vậy "kiến không" là chỉ kiên chấp chưa dứt sạch, phá chấp thân mà chấp tâm chưa phá được.
ĐÁP: Trường hợp thứ nhất là do nghiệp đời trước. Có nhiều thầy tu rất tốt nhưng gần tịch cũng bị những cái khổ bức ngặt. Đó là nghiệp quá khứ còn thừa phải chịu, phải trả cho hết. Trường hợp thứ hai là trong đời hiện tại sống bảy tám mươi tuổi nhưng ba bốn mươi năm sau này tu tốt, còn mấy chục năm trước chưa biết tu có khi cũng làm đau khổ cho người cho vật nhiều. Bây giờ biết tu rồi nghiệp hiện tại không tạo nữa nhưng nghiệp của thời gian trước cũng phải trả.
ĐÁP: Về ngữ lục thì Phật tử chịu khó coi lại trong các bài lục vì lục rất nhiều, những bài lục của các vị Thiền sư những hạng lớn như tông Lâm Tế thì có Lâm Tế ngữ lục; tông Tào Động có Động Sơn ngữ lục, Tào Sơn ngữ lục; tông Qui Ngưỡng thì có Quy Sơn ngữ lục, Ngưỡng Sơn ngữ lục; tông Pháp Nhãn, tông Vân Môn có ngữ lục của những vị tông chủ là những ngữ lục lớn, ngoài ra còn rất nhiều ngữ lục khác có giá trị.
ĐÁP: Trong kinh, một bộ kinh đức Phật chia ra mười hai thể loại như: Trường hàng, Trùng tụng, Cô khởi, Luận nghị, Ví dụ... chứ không phải có mười hai bộ kinh.
Khi Phật nhập diệt dưới cây Sa la song thọ, Ngài dạy tôn giả A Nan sửa đầu Ngài hướng về Bắc, mặt hướng về Nam có ý nghĩa như thế nào? ĐÁP: Sử ghi khi sắp nhập diệt Phật bảo ngài A Nan trải y và để cho Ngài nằm xoay đầu về hướng Bắc, mặt về hướng Nam, đó là một thói quen theo tục lệ Ấn Độ. Các nhà tu hành ngày xưa khi tịch nằm như thế, Phật cũng tùy theo cho hợp với phong tục tập quán địa phương, chớ không có ý nghĩa sâu xa trong giáo lý.
ĐÁP: Người xuất gia là tu hạnh giải thoát, còn đồ cúng cô hồn là những món cho ngạ quỷ hoặc quỷ đói, nó là hạng ít phước mà người xuất gia thọ giới cao dùng những món cúng đó e rằng các loài quỷ coi thường. Vì cho rằng mình tu giới hạnh cao mà còn thích ăn đồ tầm thường của nó, chớ không phải nó ở trong bụng mình nó phá. Cho nên đồ cúng cô hồn thường để cho trẻ nhỏ dành giựt ăn chơi thôi chớ người tu không dùng.
ĐÁP: Câu hỏi này ở phần trên chưa rõ ràng. Nếu nói chưa đủ niềm tin vào tự tánh mới nhập thất thì không phải. Bởi vì nhập thất là một cơ hội tốt, là thắng duyên để người tu dồn hết khả năng nghị lực của mình dụng công miên mật trong khoảng thời gian một, hai hoặc ba tháng. Nhờ đó có thêm kinh nghiệm và sức mạnh, khi ra ngoài làm việc mới đủ sức hóa giải chướng ngại của ngoại duyên. Như vậy không phải là chưa đủ niềm tin. Dù đủ niềm tin mà thiếu sức mạnh, nhưng có cơ hội nhập thất để tăng trưởng sức mạnh, khi gặp ngoại duyên trở ngại làm chủ mình dễ hơn, chớ không phải sợ nghiệp cũ, cũng không phải không tin tự tánh mới nhập thất. Và, không phải nhập thất mới kiến tánh viên mãn mà kiến tánh tùy theo mỗi người. Có người đang đi ngoài đường bất chợt ngộ, có người đang ngồi trong thất bất chợt ngộ, có người đang tụng kinh ngộ, nó không nhất thiết nhập thất mới ngộ. Vì vậy cho nên đừng nghĩ rằng phải nhập thất mới ngộ viên mãn.
ĐÁP: Quý vị đừng hiểu lầm, dứt cái thấy nghe hiểu biết phân biệt là dứt cái dính mắc với sáu trần, chớ không phải dứt cái thấy nghe hiểu biết là làm cho mắt mình mù, tai mình điếc, hiểu rõ ràng như vậy. Sáu căn tiếp xúc với sáu trần không khởi niệm phân biệt là không dính mắc, đó là dứt, còn nếu dứt mà mình giữ cái tối âm u để cho nó yên là sai, vì tánh giác lúc nào cũng sáng mà mình lấy cái tốt cho là giác thì sai rồi.
ĐÁP: Phật tử này thắc mắc ngài Đơn Hà thiêu tượng Phật, ngài Nam Tuyền chặt con mèo, ngài Qui Tông chặt con rắn, như vậy có rơi vào nhân quả không? Trong Kinh nói rất rõ, nếu thành nghiệp cố định thì việc làm đó phải hội đủ ba yếu tố: Thân, miệng và ý gọi là định nghiệp thì nhất định phải trả. Còn nếu chỉ thân mà không có miệng không có ý thì đó là bất định nghiệp, mà bất định thì chuyển được. Vậy hỏi có rơi vào nhân quả không thì xin trả lời rằng những hành động đó thuộc về bất định, tùy duyên mà chuyển chớ không cố định là làm như vậy phải chịu như vậy. Đó là ý nghĩa trong kinh Phật đã dạy. Thường chư vị Thiền sư đối cơ cảnh tỉnh đồ chúng, mà khi đối cơ gặp cảnh nào thích ứng thì các Ngài làm ngay chớ không chờ cơ hội khác. Và, khi đối cơ các Ngài phải theo cái sức mạnh hoặc là hoàn cảnh ngay trong hiện tại mà giải quyết, không chờ đợi cơ hội khác. Vì mục đích lợi ích cho chúng sanh, cho mọi người giác ngộ mà các Ngài làm, nên trong nhà Phật thường nói: Vì lợi ích chúng sanh mà Bồ-tát có khi phải phạm tội. Bản thân các Ngài có thể phạm tội nhưng vì lợi ích chúng sanh mà các Ngài làm.
ĐÁP: Pháp Tứ đế là pháp do đức Phật sau khi chứng ngộ nói ra. Ngài nói Ngài chứng lậu tận minh không còn rơi trong luân hồi sanh tử nữa. Ngài thấy rõ manh mối của động lực đưa con người vào sanh tử và cách tháo gỡ manh mối đó, giúp người được giải thoát sanh tử. Cái mầm hay cái nhân dẫn con người đi trong luân hồi sanh tử là Tập đế, cái khổ đau của con người là Khổ đế. Đó là nhân quả thế gian. Tập đế là nghiệp nhân xấu được tích lũy đưa con người đến quả đau khổ, như tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến... nó dẫn chúng ta đi trong luân hồi sanh tử. Cứ bỏ thân trước nhận thân sau, nối tiếp mãi mãi. Tích lũy nghiệp nhân gọi là Tập đế và quả của nghiệp nhân là khổ. Có thân là có khổ, khổ đủ thứ, nào sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, thương yêu xa lìa khổ, oán thù gặp gỡ khổ, mong muốn mà không được cũng khổ. Mang thân này là mang cái lụy, cái khổ có sung sướng gì đâu nên gọi là Khổ đế. Tập đế là nhân, Khổ đế là quả. Nhân quả dẫn đi trong sanh tử luân hồi, gọi là nhân quả thế gian. Cái thứ hai là Diệt đế và Đạo đế. Biết cái nhân khổ đưa mình vào sanh tử luân hồi, mình diệt cho sạch những cái đó đi gọi là Diệt đế, nhân diệt thì quả không còn, nếu diệt hết nhân rồi gọi là an lạc Niết-bàn. Đức Phật dạy phương pháp diệt tập nhân gây đau khổ gọi là Đạo đế. Những nghiệp xấu nơi tâm hoàn toàn dứt sạch, mầm nhân của sanh tử luân hồi không còn nữa, giải thoát hoàn toàn gọi là nhân quả xuất thế gian. Mục Lục
|