Những Cánh Hoa Đàm (Tập 2)
Những Cánh Hoa Đàm (tt5)
HỎI: Kính bạch Hòa thượng, tất cả những loài vật nhỏ như con ruồi, con rệp, con chí v.v... cho đến những con vật lớn chúng có Phật tánh không? Và có phải do con người tạo tội mà thành những con vật đó không? Những con vật nhỏ nó có cắn nó chích mình, mình giết nó có tội không? Trong nhà Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, có phải con người đời trước tạo tội rồi thành những con vật không? ĐÁP: Cái này tùy theo nghiệp duyên, có khi con người tạo tội mà thành con vật, có khi những con vật khác chuyển, tức là trong vòng luân hồi, chỗ này đến chỗ kia. Ví dụ như người tạo tội bị đọa làm con mèo, rồi con mèo suốt đời bắt chuột ăn thì tội chồng chất thêm, con mèo đó lại sanh làm con vật khác thấp kém hơn. Như vậy đâu phải con người biến thành những con vật nhỏ tí ti, mà từ con người tạo tội bị lui sụt dần từ con vật lớn đến con vật nhỏ. Cho nên nói mất thân người kiếm lại khó là chỗ đó, và cũng không nhất định con người sanh làm con vật nhỏ, mà còn do con vật khác tái sanh. Những con vật nhỏ nó cắn, nó chích mình, mình giết nó có tội không? - Tôi thường nói tội là làm khổ cho chúng sanh, bây giờ con vật nhỏ nó cắn nó chích mình, mình ngứa ngáy tức là nó làm khổ mình cho nên mình đập nó tức là mình làm khổ lại nó. Nhưng nó cắn, chích mình để lấy một chút xíu máu thôi, mình không chết, mà mình đập nó thì làm cho nó chết, như vậy cái khổ nào hơn? Cái khổ nào hơn thì hành động tạo ra cái khổ đó sẽ có tội nhiều hơn.
ĐÁP: Câu hỏi này tôi dùng lý lẽ trong Kinh mà trả lời chớ không phải cái biết riêng tôi. Trong Kinh Phật dạy rõ rằng con người từ lục đạo mà tới, tức là sáu cõi: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, a-tu-la và cõi trời. Nếu người từ cõi trời xuống thì người đó vừa đẹp vừa hiền lành đức hạnh, đó là vì hết phước ở cõi trời nhưng họ còn phước dư làm người. Ở cõi a-tu-la cũng có phước khá nhưng nóng giận nhiều. Còn người nào có tư cách tốt, không có tâm giết hại người cũng không có tâm trộm cướp, tà dâm, nói dối, không thích say sưa thì đó là đời trước làm người bây giờ trở lại làm người. Cho nên rất đứng đắn đàng hoàng. Còn nếu ở cõi súc sanh lên làm người thì còn dư báo của cõi súc sanh là tâm si mê tối tăm, học hoài không thuộc. Tuy hết quả báo ở loài vật được lên làm người, nhưng dư báo si mê còn nên tối tăm. Còn ai ở ngạ quỷ hết tội lên được làm người nhưng tâm bỏn xẻn còn thừa, có tiền không dám xài, không dám làm việc tốt, việc phải. Còn nếu ở địa ngục hết tội lên làm người thì thân bệnh hoạn, xấu xa, tật nguyền. Đó là sáu chỗ tới cõi người, theo kinh Phật nói, như vậy quý vị tự nghiệm rồi biết chớ tôi không nói riêng ai được. Và khi chết sẽ về đâu thì cũng vậy, tu thập thiện thì chết về cõi trời. Người giữ năm giới chết sẽ được làm người. Người giữ năm giới hay tu thập thiện mà chỉ bảy, tám phần, sân bỏ không được thì sanh vào a-tu-la, tuy hiền lành biết giúp người nhưng động tới thì sân. Còn người nào làm trọn thập ác thì đọa địa ngục, làm bảy tám điều ác thì làm ngạ quỷ, ba bốn điều ác thì làm súc sanh. Đó là theo kinh Phật dạy chớ không phải theo ý tôi.
ĐÁP: Thọ giới mà phạm thì phải sám hối, sám hối có hai cách: Người cư sĩ phạm tội sám hối khác, người xuất gia phạm tội sám hối khác. Người cư sĩ phạm tội thì chỉ sám hối với Phật với chư Tăng, còn người xuất gia phạm tội thì phải sám hối với toàn thể đại chúng. Nếu đã phạm giới mà xả giới là xong, rồi thọ lại thì điều đó không hợp lý. Nghĩa là phạm giới rồi xả ra cũng vẫn còn phạm chớ không phải hết, đừng hiểu lầm như vậy. Tức là phạm tội thì phải sám hối, nhưng sám hối hết tội hay không còn tùy. Người xuất gia phạm tội thì sám hối với đại chúng, nếu đại chúng tha thì hết tội, không tha thì bị đuổi ra. Còn trường hợp người xuất gia thọ giới rồi thấy tu không được thì xả giới hoàn tục, sau muốn tu lại, trở vô thọ giới lại thì tốt, chớ không phải phạm rồi xả giới, mai mốt vô tu thì hết tội.
ĐÁP: Thiền sư Đơn Hà đốt tượng Phật, còn tổ Bà Tu Bàn Đầu dựng cây gậy trúng mặt tượng Phật hai việc khác nhau, tội phước khác nhau. Vì sao? - Dựng cây gậy ngay chỗ mặt Phật nói rằng có tội vì có vẻ khinh Phật. Vậy đốt tượng Phật thì tội lại càng nặng hơn phải không? Nhưng ở đây quý vị nên hiểu, chư vị Thiền sư khi làm việc không phải làm cẩu thả bướng bỉnh mà các Ngài làm với tâm từ bi. Thiền sư Đơn Hà khi đốt tượng Phật rồi, thầy trụ trì hỏi tại sao đốt? Ngài đáp: Đốt để tìm xá lợi. Thầy trụ trì nói: Phật gỗ xá lợi đâu mà tìm? Ngài nói: Nếu không có xá lợi thì thỉnh một tượng nữa đốt. Việc đốt tượng Phật có ý nghĩa gì? - Ngài Đơn Hà đốt là để phá chấp cho thầy trụ trì, vì thầy trụ trì cứ nghĩ Phật trên bàn đó là Phật thật nên không biết quay lại với Phật thật của chính mình, là Phật tánh của thầy. Cho nên Thiền sư Đơn Hà đốt để đánh thức ông rằng: Phật gỗ bên ngoài không có xá lợi là giả, chính Phật nơi tâm mới là Phật thật. Cho nên sử nói: "Đơn Hà thiêu mộc Phật viện chủ lạc mi mao", tức là "Đơn Hà đốt Phật gỗ, viện chủ rụng hết lông mày", tức là hết chấp. Đó là vì lòng từ bi mà phá chấp chớ không phải vì vô ý cẩu thả mà làm. Còn việc dựng cây gậy nhằm chỗ vẽ tượng Phật là việc làm vì cẩu thả nên bị quở, hai cái khác nhau, Phật tử nên hiểu rõ. Trường hợp bao nhang bỏ ngoài đường nếu vì không nhớ, không thấy mà bỏ thì không sao, còn thấy hình Phật mà bỏ đại cho người ta giẫm đạp thì đó là cẩu thả có tội. Vậy nên khi hết nhang rồi, bao nhang bỏ vào thùng đốt là xong.
ĐÁP: Quý vị nhớ có tội mới chịu cảnh khổ, người đó trước họ tạo tội cho nên bây giờ họ chịu khổ. Nhưng chúng ta là người biết đạo có lòng từ bi thấy họ khổ mình thương mình giúp, chớ thấy người ta khổ nói: mặc kệ, để họ trả dứt cái nghiệp của họ. Như vậy là không có lòng từ bi, tức là thấy khổ mình trơ ra, không chút thương xót, không đúng với tinh thần của người Phật tử có đạo đức. HỎI: Kính mong Thầy giải thích giúp con vấn đề sau: Thân phụ con vì lý do bệnh hoạn, sức khỏe kém, bác sĩ khuyên không nên trường chay, dù vậy người vẫn tu hành tinh tấn, hằng ngày tham khảo kinh sách, hằng đêm ngồi thiền. Kính bạch Thầy, một người có tâm tu hành tinh tấn nhưng không trường chay có thể đắc đạo được không? ĐÁP: Tôi trả lời bằng cách dẫn câu chuyện Thiền sư Việt Nam. Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ tu thiền. Một hôm em gái Ngài là Hoàng hậu thết tiệc đãi, trong tiệc có phần chay cho Thượng Sĩ dùng. Khi ngồi vào tiệc, chay mặn gì Ngài cũng gắp ăn hết, bà lấy làm lạ hỏi: - Huynh tu thiền mà còn ăn thịt cá rồi có thành Phật không? Ngài đáp: - Phật là Phật - anh là anh - anh không cần thành Phật - Phật không cầu làm anh. Hoàng hậu không nghe người xưa nói: Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát đó sao? Bởi vô minh nên hiểu lầm, nói tôi tu để cầu thành Phật, nhưng mà cầu thành Phật là trở thành ông Phật phải không? - Hay là tu để sạch phiền não? - Thường chúng ta hay cầu một cái gì để trở thành mà chúng ta quên dẹp những cái làm cho chúng ta mất ông Phật. Chúng ta đã có sẵn tánh giác, nhưng vì mê muội chạy theo trần cảnh, đắm nhiễm làm chúng sanh, bây giờ dẹp hết cái mê muội đắm nhiễm đó thì ông Phật hiện ra chớ thành cái gì, cầu ở đâu? Như vậy ăn chay ăn mặn là hình thức bên ngoài, còn cái mê và giác là ở trong. Nếu hết mê thì giác, Phật ở ngay đó chớ không phải tại ăn mặn mà không thành Phật. Nếu nói ăn mặn không thành Phật thì các vị tu theo Phật Giáo Nguyên Thủy rầy mình vì Nguyên Thủy đâu có ăn chay. Nói vậy quý Phật tử nghĩ chắc Thầy tùy hỷ cho ăn mặn? - Tôi xin nói thêm là tôi không tùy hỷ việc ăn mặn mà chỉ nói lẽ chân chính là như vậy. Chúng ta ăn chay khỏe được nhiều việc: Một là khỏi phạm tội sát sanh, hai là khỏi bị những chất độc nhiễm hại thân mình, ba là ăn chay đơn giản hơn, ít đòi món này món nọ. Tôi nghĩ đến những người làm nghề đánh cá, trời lạnh lẽo lặn lội dưới sông thả lưới kéo cá, thay vì trồng vài líp rau, mỗi sáng tưới ít nước tới bữa cắt vô luộc chấm tương ăn khỏe biết mấy, giúp cho mình bao nhiêu cái đỡ khổ đỡ nhọc.
ĐÁP: Điều này trong nhà Phật có nói: Khi đến chùa lễ Phật hoặc nghe chư Tăng chư Ni tụng Kinh tự nhiên xúc động rơi nước mắt, đó là do duyên lành lâu đời. Giống như chúng ta có người thân đi xa lâu ngày bất chợt gặp lại mừng mà rơi nước mắt. Trường hợp Phật tử này nghe Kinh rơi nước mắt là duyên lành có sẵn, chớ không tội lỗi gì hết. HỎI: Kính bạch Hòa thượng, con có vài thắc mắc muốn xin Hòa thượng từ bi giải thích cho con hiểu. 1. Tu theo đạo Phật có lợi ích gì cho bản thân, gia đình và xã hội? 2. Tu cốt yếu điều phục thân khẩu ý, ở nhà tu cũng được, sao phải xuất gia? Tu tại gia và xuất gia có ưu khuyết chỗ nào? ĐÁP: Trong gia đình vợ chồng đều giữ giới thì không nghi ngờ nhau, gia đình êm ấm thuận hòa. Cái gốc gây xào xáo trong gia đình là không tin nhau, bây giờ giữ năm giới không sát hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không say sưa đánh đập thì gia đình an ổn hạnh phúc. Đó là có lợi cho gia đình. Trong ấp trong xã, ai ai cũng giữ tròn năm giới thì trong ấp trong xã đó không lo sợ bị người giết hại, không lo sợ bị người móc túi, không sợ người lừa gạt, không sợ người chè chén nghiện ngập gây tai họa. Đó là có lợi cho xã hội. 2. Tu cốt điều phục thân khẩu ý, vậy tại sao phải xuất gia, tu tại gia và xuất gia có ưu khuyết chỗ nào? Tôi xin trả lời câu hỏi này. Người tại gia có cái tốt của người tại gia, người xuất gia có cái hay của người xuất gia. Người tại gia giữ năm giới, biết làm điều lành, giúp người hoạn nạn v.v... đó là cái tốt của người tại gia, nhưng chỉ làm trong phạm vi giới hạn vì còn phải có trách nhiệm với gia đình con cái, với thân thuộc xóm giềng, cho nên công tác có giới hạn. Còn người xuất gia là rời khỏi gia đình, dứt mọi ràng buộc của thân bằng quyến thuộc chỉ còn một việc là bản thân tu cho có đủ bi trí, đủ khả năng khuyên dạy người tu. Như vậy người xuất gia vì ít việc, họ có thì giờ tu khá và truyền bá được Phật pháp, nhờ vậy mà chánh pháp được mở rộng đó là cái ưu của người xuất gia.
ĐÁP: Chữ Trung là ở giữa, chữ Thiên là trời. Trong nhà Phật thường nói Phật là vị đạo sư của trời, người là cha lành của bốn loài, quý vị có nghe câu: "Thiên nhân chi đạo sư, tứ sanh chi từ phụ" không? Cõi trời ở trên gọi là thượng giới, cõi người ở dưới gọi là hạ giới. Hai chữ Trung thiên là chỉ cả thượng giới và hạ giới. HỎI: Xin Thầy cho biết về nghĩa của "vô thượng sư". Nếu có người tự xưng là vô thượng sư thì người đó phải như thế nào? ĐÁP: Từ này có lần tôi đã giải thích rồi. Từ "vô thượng sư" không có trong đạo Phật mà có trong tôn giáo khác ở Ấn Độ. Đức Phật thường nói Ngài là vô thượng y vương tức là vua của các ông thầy thuốc chớ không có xưng vô thượng sư. Người nói từ này không phải là người theo đạo Phật, mà nếu họ nói họ theo đạo Phật tức là họ lợi dụng danh nghĩa đạo Phật chớ không phải đạo Phật. HỎI: Nếu như người còn sống không biết ăn chay, không biết gì về đạo Phật, sau khi chết gia đình thỉnh quý thầy quý cô về tụng kinh cầu nguyện thì người chết có được giảm tội không? Hay tự mình phải lo tu, không tạo nghiệp ác mới không bị tội. ĐÁP: Chúng ta tu là để dứt những ác nghiệp do mình tạo. Ví dụ như mình lỡ tập hút thuốc uống rượu thành ghiền, bây giờ biết nó hại thì mình phải bỏ, chớ mời quý thầy quý cô tới nhờ tụng kinh cầu nguyện cho hết ghiền, có ai dám lãnh điều đó không? Nếu tụng cho có phước thì được, chớ tụng cho hết ghiền thì không được đâu, vì ghiền là cái nghiệp, muốn hết nghiệp thì chính mình phải chuyển, còn nhờ người khác làm thì chỉ có một phần nào chớ không có lợi ích nhiều. Kinh Địa Tạng có nói: Mình tụng kinh cho người chết, trong mười phần người chết chỉ hưởng có ba phần thôi mà người sống phát tâm tụng kinh, muốn nghe kinh nên họ có phước nhiều hơn, người chết thì không được bao nhiêu. HỎI: Kính bạch Sư Ông, con nghe Sư Ông dạy pháp tu từ thấp lên cao, ở hoàn cảnh nào tu cũng được, như vậy sao có nhiều thầy ở Thiền viện vào các chùa ở thành phố để tu và học, con có hỏi thì quý thầy nói ở Thiền viện tu không được mà phải về thành phố tu. Vậy là nghĩa làm sao? ĐÁP: Điều này rất dễ hiểu, bởi vì tâm chúng sanh không bao giờ có cái hài lòng, ở đây thì trông kia, ở kia thì trông đây. Ở Thiền viện chỉ học chữ Hán và học kinh để ứng dụng tu thôi, không có cấp bằng học vị, cho nên cứ tu hoài không thi cử, không phát cấp bằng. Ở mười năm, hai mươi năm cũng chỉ là ông thiền tăng thôi. Khi tu nếu không thấy được tâm lặng lẽ là quý thầy nản muốn tìm chỗ khác học để bốn năm có cấp bằng, bảy năm có cấp bằng, có cấp có bậc rõ ràng. Lý do là vậy. HỎI: Có Thầy nói: Hòa thượng chỉ dạy đại thừa chớ không dạy tiểu thừa, vì trình độ thấp quá không hiểu được, có phải vậy không? Xin Hòa thượng giảng cho con hiểu. ĐÁP: Thật ra ở đây không dạy Đại thừa, Tiểu thừa gì hết mà chỉ dạy cho mọi người hiểu được lời Phật dạy để ứng dụng tu. Lời Phật dạy có khi nói về nghiệp tướng của chúng sanh thì gọi là kinh Tiểu thừa, còn chỉ thẳng về tâm tánh của chúng sanh thì gọi là kinh Đại thừa. Ở đây mấy năm về trước tôi dạy A hàm, Tứ thập nhị chương, Di giáo. Chúng tôi đối chiếu giữa kinh A hàm và Nikaya đó là Kinh gì? Như vậy chứng tỏ người nói không căn cứ, không hiểu gì hết. HỎI: Ở giảng đường Phật giáo Nam tông, con thấy đa số Phật tử rất thành kính và cúng dường rất nhiều. Ở giảng đường Bắc tông Phật tử ít thành kính và cúng dường hơn. Vì sao có sự hơn kém như vậy? Kính xin Thầy giải thích cho chúng con được hiểu. ĐÁP: Thực ra bên Nam tông đặt nặng vấn đề người xuất gia thọ giới lớn thì công đức nhiều, người thọ giới nhỏ thì công đức ít, hai cái đó căn cứ trên hình thức, mà hình thức thì người ta dễ thấy. Còn Bắc tông đa số căn cứ vào nội tâm, các Phật tử thấy quý thầy có khi xá có khi lễ, còn Nam tông thì nhất định phải lễ chớ không chỉ xá thôi. Ở Cao miên, Miến điện, Tích lan một vị Tăng quấn y đi ngoài đường Phật tử thấy thì quỳ mọp dưới đất lạy. Còn ở Việt Nam, Trung Hoa Phật tử gặp quý thầy xá chào, cười là đủ. Vì bên này đặt nặng phần nội tâm, trong tâm quý kính là đủ. HỎI: Sao Phật giáo Nam tông không thờ những vị Bồ tát, trong khi kinh Nam tông có nói đến chư Bồ tát? ĐÁP: Điều này tôi xin nhắc lại, bởi vì Nam tông đặt nặng quả vị A-la-hán nên không thờ các vị Bồ tát dù kinh Bổn sanh đức Phật đã từng nói Ngài tu hạnh Bồ tát. Kinh Bổn sanh, Nam tông và Bắc tông đều có. Như vậy, các Ngài thừa nhận mà các Ngài không thờ vì các Ngài đặt quả A-la-hán là cứu kính. Nhưng muốn đến quả Phật thì phải hành hạnh Bồ tát, nên Bắc tông thờ các Bồ tát. Còn Nam tông hành hạnh A-la-hán, không hành hạnh Bồ tát nên không thờ Bồ tát chỉ thờ Phật thôi. HỎI: Tăng chúng là phước điền của chúng sanh, nếu như một thửa ruộng được gieo gặt nhiều quá thì thửa ruộng đó sẽ cằn cỗi hết mầu mỡ. Vậy nhà sư thọ cúng dường của Phật tử quá nhiều, nhà sư đó có bị suy giảm công đức hoặc phước đức không? ĐÁP: Câu hỏi này cũng hay. Ví dụ như miếng ruộng một năm mình làm tới ba bốn vụ thì đất cằn cỗi hết mầu mỡ, còn làm một hai vụ thì đất còn mầu mỡ hơn. Cũng vậy một nhà sư được Phật tử cúng dường nhiều quá thì phước điền càng ngày càng mỏng, có phải vậy không? - Có hai trường hợp: Nếu người tu chưa có ra gì mà nhận của cúng dường nhiều để thụ hưởng thì tổn phước. Còn nếu người tu hiểu đạo lý thông suốt và những gì Phật tử cúng đem làm Phật sự lợi ích cho chúng sanh thì không tổn phước. Mình là người giúp đỡ cho Phật tử làm phước thôi chớ không phải mình thụ hưởng. Mình không hưởng thì làm gì tổn. HỎI: Con có vài điều không hiểu kính xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy. Có Kinh nói đức Phật Thích Ca và đức Phật A Di Đà là hai người bạn chí thân, Bảo Hải và Bảo Tạng đều bằng tuổi nhau, sau bỏ ngôi vua đi tu thành Phật. Sao có Kinh lại nói đức A Di Đà là Phật quá khứ, đức Thích Ca là Phật hiện tại? ĐÁP: Chẳng những Phật Thích Ca và Phật Di Đà là bạn chí thân mà đức Phật nào cũng chí thân hết. Tại sao vậy? Vì không có phiền não thì có gì ngăn ngại mà không thân, chỉ có phàm phu mới có thân có sơ, vì có người mình thương có người mình ghét, Phật không còn thương ghét nên Phật nào cũng thân hết. Sở dĩ gọi đức Phật Thích Ca là Phật hiện tại là vì Ngài giáng sanh ở cõi Ta bà của chúng ta, ở ngay trong thế gian này nên gọi Ngài là hiện tại. Còn đức Phật A Di Đà là ở cõi cực lạc, ở xa tít mà mình chưa tới lần nào, vì quá xa nên nói là Phật quá khứ, nghĩa là Ngài thành Phật từ thuở nào rồi. HỎI: Lục Tổ Huệ Năng rất có hiếu với mẹ, sau khi nghe kinh Kim Cang Ngài nhờ người nuôi hộ mẹ để đi tu. Sau khi ngộ đạo sao Ngài không về độ mẹ tu, như tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên? ĐÁP: Ngài Huệ Năng sau khi nghe kinh Kim Cang nhờ người khác nuôi mẹ mình để mình đi tu, như vậy có phải bất hiếu với mẹ không? Đó là một vấn đề. - Khi người tu ngộ đạo rồi mới thấy thân người có đây dài lắm là tám chín mươi năm rồi cũng hoại, nhưng khi ngộ được Phật tánh nơi mình thì Phật tánh không bao giờ hoại, không bị thời gian chi phối. Như vậy khi ngộ đạo rồi thì việc cứu độ chúng sanh là trên hết. Lục tổ sau khi thành đạo rồi Ngài trở về quê ở Lãnh Nam tức về chùa Nam Hoa Tào Khê giáo hóa. Trong sử không thấy nhắc tới mẹ Ngài chắc là mẹ Ngài đã tịch rồi. Sử ghi là ghi những việc làm của Ngài đối với mẹ, nhưng khi Ngài về mà mẹ mất thì có gì mà ghi. Cho nên không nhắc đến thì biết mẹ Ngài đã tịch rồi, Ngài chỉ lo giáo hóa chúng sanh để đền ơn mẹ thôi. Trường hợp này không có bất hiếu. HỎI: Kính bạch Hòa thượng, nếu một người con sau cái chết của cha mẹ mà hướng về Phật pháp, phát nguyện tu hành đạt đạo để cha mẹ được lên cõi trời. Trong trường hợp này phải mấy chục năm sau hoặc một vài kiếp sau bổn nguyện này mới thực hiện được, và cha mẹ lúc đó đang luân hồi ở một cõi nào thì bổn nguyện này có còn tác dụng nữa hay không? ĐÁP: Câu hỏi này cũng có ý nghĩa, tôi lặp lại cho rõ. Nếu ngay đời này tu mà ngộ đạo đắc quả thì cha mẹ được sanh lên cõi trời. Nhưng nếu đời này tu không ngộ, đời sau cũng không ngộ, mà đời thứ ba hay đời thứ tư mới ngộ, thì cha mẹ đời này luân hồi ở cõi nào và cha mẹ được sanh cõi trời là cha mẹ đời nào? Nếu cha mẹ đời thứ ba hay thứ tư được sanh thì cha mẹ đời này có được ảnh hưởng gì không? - Tôi trả lời là có. Cha mẹ đời này luân hồi nơi nào đó, chừng mình ngộ đạo rồi mình theo duyên tìm kiếm để giáo hóa cho cha mẹ được lên cõi trời, không phải trực tiếp lên cõi trời mà nhờ sự giáo hóa, cha mẹ tu được sanh cõi trời. Còn cha mẹ sanh thân này trực tiếp thì được kết quả sanh cõi trời. Như vậy cũng hữu ích chớ không vô ích đâu, đừng có lo. Quý Phật tử hiếu thảo với cha mẹ ráng tu đi, đời này chưa độ được thì đời sau, hoặc đời sau nữa, chỉ sợ cha mẹ thiếu phước phải luân hồi sanh tử, và mình không chịu tu nên cũng luân hồi theo thì không ai cứu ai được. HỎI: Màu vàng trong Phật giáo có ý nghĩa gì? ĐÁP: Theo Kinh, Luật Phật dạy thì tu sĩ phải mặc y phục khác màu với thế tục, nên phải nhuộm màu hoại sắc để khác người thế tục. Nhưng sau này có một phái rất thạnh trong Phật giáo Nam tông là Đàm Vô Đức lấy màu vàng làm màu y phục, vì màu vàng có vẻ chói chang, dân chúng ít ai chịu mặc. Cái gì thế gian chê thì các Ngài dùng để tránh không lẫn lộn. HỎI: Con nghe nói tu là có thể chuyển được nghiệp. Vậy hàng xuất gia thì dễ còn hàng Phật tử tại gia có chuyển được hay không? ĐÁP: Quý Phật tử có nhớ nghiệp xuất phát từ đâu không? - Từ thân, miệng, ý. Bây giờ tôi chỉ nói nghiệp miệng thôi, giả sử bên nam cái miệng thích hút thuốc, bên nữ miệng thích ăn trầu, mà hút thuốc quen, ăn trầu quen thành nghiệp chưa? - Thành nghiệp rồi. Nhưng hút thuốc ăn trầu có bỏ được không? - Hút thuốc bỏ được, ăn trầu bỏ được thì nghiệp người thế gian cũng bỏ được, phải không? Ví dụ người thế gian mỗi khi giận hay mắng chửi con, mắng chửi cháu, bây giờ biết tu rồi thì khi giận không mắng chửi nữa mà làm thinh. Như vậy có chuyển được không? - Được. Như vậy người xuất gia hay tại gia nếu khéo tu đều chuyển được nghiệp. Mục Lục
|