Những Cánh Hoa Đàm (Tập 2)
Những Cánh Hoa Đàm (tt10)
HỎI: Kính bạch Hòa thượng, xin Hòa thượng giảng giải cho chúng con được hiểu: Trên đường từ cổng chùa vào chánh điện có tấm bảng ghi "Bảo Sở", vậy từ này có nghĩa thế nào? ĐÁP: Quí vị nào có tụng kinh Pháp Hoa thì biết Bảo Sở là gì? - Bảo Sở là đối với Hóa Thành. Theo kinh Pháp Hoa người tu chứng A-la-hán, Phật nói chứng Niết-bàn nhưng Niết-bàn đó là Hóa Thành, chớ chưa phải là Bảo Sở, phải khởi nguyện lợi tha tu hạnh Bồ-tát đến thành Phật, Niết-bàn của Phật mới là Bảo Sở. Vì tôi muốn tất cả Tăng Ni và Phật tử tu thành Phật chớ không muốn dừng ở quả A-la-hán (Hóa Thành) nên tôi để đường vào chánh điện là "Bảo Sở".
1. Kính bạch Thầy, với cái nhìn khoa học không làm sao giải thích rốt ráo được vấn đề sanh tử, con người từ đâu có và khi chết còn hay mất? Kính mong Thầy từ bi giảng dạy. 2. Làm sao biết được vấn đề luân hồi để giải thích hiện tượng bất công trong xã hội? ĐÁP: 1. Câu hỏi này rất khó trả lời, nhưng chúng tôi cũng dùng phương tiện tạm trả lời cho quí Phật tử hiểu. Con người từ đâu có, nếu trả lời theo thực tế thì dễ lắm! - Từ cha mẹ mà có mình phải không? Còn hỏi con người nguyên thủy từ đâu có? Nghĩa là từ đâu có con người ban đầu thì hơi khó một chút. Vì trong nhà Phật không trả lời đơn giản từ cái nào có, mà nhà Phật luôn luôn nói con người từ nhân duyên mà có. Đối với cái nhìn của Phật giáo không có cái gì từ một nhân mà thành, nó không tự có cái đầu tiên, mà do nhiều nhân duyên hợp lại. Cho nên hỏi từ đâu mà có con người thì nhà Phật nói: Từ nhân duyên mà có con người. Nói như vậy nhiều người không thỏa mãn, họ muốn có ai đó sanh ra con người, như nói tạo hóa sanh ra con người chẳng hạn, nhưng nhà Phật không chấp nhận lý đó. Theo Phật thì không có cái gì từ một nhân mà thành, mà phải đủ nhân đủ duyên mới được sanh ra. Hiện giờ khoa học cũng thừa nhận muôn sự muôn vật ở thế gian không đơn thuần từ một nhân được thành, mà phải có nhiều nhân duyên hợp lại mới thành. Tinh thần khoa học và Phật học cũng đồng như vậy. Hỏi người chết rồi còn hay mất? Nếu nói tổng quát là mất, nhưng mất cái tứ đại tạm bợ giả hợp chớ bản chất của tứ đại thì không mất. Cũng vậy, về phần tinh thần tạm mất cái giả tướng tụ hợp tạm gá nơi cơ thể này (vì thân mất không còn gá được nữa) chớ không phải là mất hẳn. 2. Làm sao biết được vấn đề luân hồi để có thể giải thích được hiện tượng bất công trong xã hội? - Nếu chúng ta biết phần tinh thần không mất hẳn cũng không phải còn hẳn, bây giờ làm sao biết được vấn đề luân hồi là có thật để rồi giải thích những hiện tượng bất công trong xã hội. Cái bất công này tôi không nói về tổ chức của xã hội mà bất công ngay nơi con người với con người, như sanh ra có người đẹp, người xấu, người tật nguyền, người lành lặn v.v... Cái bất công đó không phải do người ta áp đặt cho mình, mà khi sanh ra mình đã mang sẵn tính chất bất công trong đó. Vậy làm sao giải thích được để chúng ta thừa nhận cái bất công đó là do mình tạo trải qua những kiếp luân hồi. Bây giờ tôi nói giản đơn từ kinh nghiệm gần cho tới kinh nghiệm xa để quí vị thấy về lý luân hồi. Ngày xưa thì khó tin thật nhưng bây giờ rất dễ tin, tất cả muôn sự muôn vật ở thế gian này nó là sự chuyển biến chớ không có gì mất hẳn. Gần nhất là quả đất mình đang sống, nó xoay vòng vòng hoài tức là luân hồi chớ gì? Còn thời tiết thì cứ xuân, hạ, thu, đông trở đi trở lại hoài cũng là luân hồi. Cho đến trong người mình máu huyết lưu thông từ tim ra mạch, từ mạch trở về tim, cứ như vậy mà chuyển biến luôn luôn. Xa hơn nữa là từ đời này sang đời khác, cái khoảng cách đó không có hiện tượng gì để chứng minh được, nhưng mà nó có mang cái bản chất cụ thể của nó. Như có những đứa bé sanh ra chưa ai dạy nó tu mà nó không chịu ăn mặn lại ăn chay. Lại có những đứa bé bảy, tám tuổi học ít mà biết nhiều, nó học vượt bực gọi là thần đồng. Tại sao lại có những hiện tượng lạ đó? Chẳng hạn ngay nơi bản thân tôi lúc nhỏ tôi có biết gì về đạo Phật đâu mà tôi lại thương đạo Phật, mỗi lần tôi nghe tiếng chuông chùa là tôi buồn ghê lắm, như là nhớ ông nhớ bà, nhớ cái gì xa xôi ở quá khứ vậy. Nếu trước tôi không có chủng tử tu theo đạo Phật thì cái gì thúc đẩy khi tôi chưa được ai giáo hóa, chưa được đọc sách Phật, tôi lại thương đạo Phật, nghe tiếng chuông mà buồn, mà nhớ cái gì xa xôi ở quá khứ! Tôi quyết chắc rằng nhờ chủng tử từ đời trước thúc bách, nếu không, chắc tôi chưa đi được vì hoàn cảnh chưa cho phép. Nhờ chủng tử đạo Phật ở đời trước có rồi, nên khi ra đời dù ở hoàn cảnh nào cũng trở về với Phật. Thế nên trên thế gian này mỗi người sanh ra đã mang sẵn chủng tử đời trước, gặp duyên gợi lại nó liền trồi lên, đó là luân hồi. Nếu hiểu như vậy thì biết được sự bất công trong xã hội này là do phước nghiệp lành dữ của mình đã tạo, chớ không phải ngẫu nhiên mà có. Do đó mình không oán trách ai mà lo tu sửa bản thân mình.
ĐÁP: Nuôi dưỡng tín tâm làm cho tín tâm tăng trưởng không có gì khó, phải thực hành những điều cần thiết như sau: 1. Phải thường đọc đi đọc lại lời Phật Tổ dạy để nung đúc tín tâm thêm lớn mạnh. 2. Những gì đã học hiểu rồi phải ráng thực hành cho đúng. Nếu học hiểu suông lâu dần nó nguội rồi mất nên phải ráng thực hành cái mình đã học hiểu. 3. Thường tới lui gần gũi những bậc thầy để được nhắc nhở thêm. Đủ ba điều kiện đó thì tín tâm sẽ được tăng trưởng không lui sụt.
ĐÁP: Muốn an nhiên với cái chết thì trước phải an nhiên với cái sống. Nếu biết cuộc đời là vô thường, thân này do bốn đại hợp, khi bốn đại tan thì thân này hư hoại. Như vậy hợp đó chỉ là giả hợp. Cuộc đời là vô thường thì mọi việc tới thấy không quan trọng, không quan trọng nó thì mình an nhiên. Sở dĩ không an nhiên được là tại chúng ta quan trọng, cho nên cái gì đến là lo âu sợ sệt. Cái tốt đến thì mừng, mừng quá thì khó ngủ. Cái xấu đến thì lo, lo quá cũng mất ngủ. Đó là tại mình quan trọng nó quá. Bây giờ coi nó không có gì quan trọng, được cũng tốt mà mất cũng không sao. Trên thế gian này có cái gì giữ được đâu? Thường người ta cứ giữ những cái gì bên ngoài quên giữ mình, đến khi thân bại hoại thì lo sợ. Vì vậy mà không được an nhiên. Nếu biết nó tạm bợ không quan trọng thì được an ổn. Không quan trọng không có nghĩa chúng ta không làm gì hết, chúng ta làm tất cả nhưng mà thành hay bại là tùy duyên thôi, không đặt nó phải thế này thế kia, được cũng tốt, không được cũng không sao. Như vậy là được an nhiên.
ĐÁP: Nếu quí vị nghe một câu kinh Kim Cang liền ngộ thì không cần theo thứ tự, còn bây giờ nghe giảng mãi mà chưa ngộ thì nên theo thứ tự giùm. Bởi vì mình so sánh với người ngang mình chớ không thể so sánh với người quá hơn mình. Như vậy nên chọn pháp vừa với căn cơ mình để tu cho dễ.
ĐÁP: Trong kinh thường nói: "Thà chấp có như núi Tu Di, không nên chấp không bằng hạt cải. Vì chấp không bằng hạt cải còn hại hơn chấp có bằng núi Tu Di. Chấp có tội, có phước, có thiện, có ác, có địa ngục, có ngạ quỷ, có súc sanh, có thiên đường, có Cực lạc v.v... nên sợ tội, sợ làm ác đọa địa ngục, nên tránh ác làm lành để sanh lên cõi trời. Như vậy vì chấp có mà ráng tu. Còn chấp không thì cái gì cũng không ngơ hết, chỉ cần nói không tội không phước là mình đã bị đọa rồi. Bởi vì chấp không như vậy là cái nhân để không tu hành. Vậy chư Tổ nói không tối, không sáng, không có hai bên có phải là chấp không không? - Tổ không chấp không. Người thế gian không biết các pháp tương đối, tùy duyên mà có, không thật, có nhân nơi không mà có, không nhân nơi có mà có. Người đời không biết nên chấp không tuyệt đối là không, có tuyệt đối là có. Đối với nhà Thiền thì có không thật có, không không thật không, tối không thật, sáng không thật. Không thật chớ không phải là không có cái giả, có mà không cố định. Người thế gian chấp có chấp không là cố định có, cố định không. Phật quở không cho chấp là như vậy.
ĐÁP: Tôi xin giải thích điều này để quí vị khỏi thắc mắc. Ông Bàng Uẩn là một nhà khá giả, sau khi ngộ đạo rồi, những tiền của còn lại ông chở đem đổ xuống sông hết. Từ đó về sau ông sống một cuộc đời thanh bạch, ông bện sáo để con gái đem ra chợ bán, bà Bàng ở nhà với đứa con trai đi làm ruộng. Lý ra của cải dư ông đem bố thí thì tốt hơn, tại sao lại đem đổ xuống sông? Điều này làm cho nhiều người thắc mắc. Đây tôi giải thích cho quí vị hiểu. Chúng ta nghĩ tới người nghèo kẻ thiếu đem tiền của dư giúp họ là do lòng từ bi, song việc làm đó có khi là tâm muốn được phước nữa. Ở đây ông Bàng Uẩn khi ngộ đạo rồi, ông thấy tất cả thế gian không có cái gì quan trọng, tiền của danh lợi đối với ông là một trò chơi không đáng gì hết. Cho nên ông không cần, ông đem đổ cái mình không cần, để dứt hẳn lòng tham luyến của cải thế gian. Mình biết cái đó là nhân của tham lam, nếu đem cho người khác là tăng thêm lòng tham lam cho người ta. Cái mình thấy nó không nghĩa lý gì chỉ tăng trưởng lòng tham, mà đem cho người khác là vô tình nuôi dưỡng tham lam cho người. Lẽ phải của ông là ông không muốn tham cũng không muốn cho người khác tham, đó là lý của ông. Còn việc giúp người nghèo khổ, người bệnh tật thì ở thế gian này không cùng. Đem tiền của làm việc phước thiện để giúp kẻ nghèo đói thì đó là tâm từ thiện, còn nhân khác nhau: Cái nhân từ bi giúp đỡ để có phước và cái nhân dứt sạch tham lam ở mình ở người, hai cái nhân này hoàn toàn không giống nhau. Cái phải của người này chưa phải là cái phải của người kia. Chúng ta có quyền phê bình nhưng chưa chắc chúng ta phê bình đã đúng.
ĐÁP: Tôi xin giải thích rõ, nếu tu ở nơi vắng vẻ, không có người, không có chuyện bận rộn xảy thì dễ yên. Nhưng cũng có nhiều người ở chỗ vắng mà ồn hơn chỗ động. Chẳng hạn quí Phật tử ban ngày làm ăn lo sinh kế gia đình mà tâm ít chạy nhảy, tối ngồi một mình nó chạy tứ tung. Cho nên an hay không an chưa hẳn là ở chỗ vắng hoặc chỗ đông người. Đó là phương tiện chớ không phải cứu kính. Người xưa hay khuyên: "Độc thiên kỳ thân" là khi ở riêng một mình phải dè dặt pháp ác phát sanh. Đừng tưởng ở riêng là tốt hết, trừ khi ở riêng mà biết tu, ở chỗ vắng mà biết tu thì có lợi lớn. Nếu không biết tu chưa chắc đã có lợi. Vì tâm mình không phải đợi có cảnh nó mới chạy nhảy, mà có cảnh hay không có cảnh nó cứ chạy nhảy. Hiện tại không có cảnh thì nó lôi cảnh quá khứ ra. Do đó dù ở chỗ vắng hay ở chỗ động mà tâm thanh tịnh thì được sanh cõi tịnh chắc chắn, chớ nói ở chỗ vắng tâm thanh tịnh sanh cõi Phật thì chưa chắc.
ĐÁP: Phật tử này hiểu lầm. Chỗ phi tưởng, phi phi tưởng là không có cái tưởng thô mà còn cái tưởng tế cho nên vẫn còn đi trong luân hồi.
ĐÁP: Câu hỏi này đúng ra thì tôi không trả lời vì tôi chưa nhập diệt tận định, nói cái chưa làm thì nói không đúng. Nhưng mà theo kinh nói nhập diệt tận định là dứt sạch mọi tư tưởng từ thô đến tế, nên nói là diệt tận. Còn phi tưởng, phi phi tưởng là hết cái thô mà còn cái tế. Vì vậy diệt tận định không phải là cõi trời vô tưởng thiên, diệt tận đây là diệt tất cả các tưởng, sạch hết phiền não, còn vô tưởng thiên chỉ là cõi trời dứt các tưởng nhưng các nghiệp lâu đời như tham sân si chưa sạch, gặp duyên nó sống dậy cho nên khác với diệt tận định.
ĐÁP: Trong kinh Đại thừa thường hay nói Như Lai tại triền và Như Lai xuất triền. Như Lai tại triền là Như Lai còn ở trong trói buộc (triền là phược). Như Lai xuất triền là Như Lai ra khỏi mọi trói buộc. Bây giờ Như Lai tại triền Ngài ở đâu? - Ngay nơi thân này và còn trói buộc, nhưng đã có Như Lai ở đó rồi. Khi dứt hết mọi trói buộc thì thành Phật gọi là Như Lai xuất triền. Phật Tỳ-lô-giá-na là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là pháp thân. Pháp thân là thân không hình tướng. Trong kinh Pháp Hoa tôi có giảng ở phẩm Hiện Bảo Tháp, đức Đa Bảo biểu trưng cho pháp thân, Phật Thích Ca là báo thân. Ở đây Phật Tỳ-lô-giá-na cũng chỉ cho pháp thân, mà pháp thân thì không có nói xưa nói nay, không có cổ có kim.
ĐÁP: Chân tâm, chân như, Phật tánh, pháp tánh, trí huệ-viên giác nghĩa thì khác. Bởi vì nói chân tâm mà giải nghĩa ra thì phải khác với chân như. Nói chân như mà giải nghĩa ra thì khác với chân tâm, nói Phật tánh giải nghĩa ra cũng khác với pháp tánh. Nói pháp tánh giải nghĩa ra khác với Phật tánh v.v... Nghĩa thì khác nhưng thể không khác.
ĐÁP: "Không" đây là không tự tánh, mà không tự tánh tức là không có cái thực thể. Năm uẩn nó không có thực thể. Ví dụ đây là một bàn tay, khi tôi co năm ngón lại thì gọi là nắm tay. Vậy cái gì là thực thể của nắm tay? Nếu năm ngón tay tôi buông ra thì không có nắm tay, tức là duyên tan, rõ ràng nắm tay không có thực thể. Tất cả muôn sự muôn vật đều như thế, tức là đều do duyên hợp mà thành chớ không có thực thể. Bởi duyên hợp tạm có, duyên ly tán thành không. Như vậy có trong thể tánh không cho nên nói nó là tánh không, mà tánh không trong kinh có chỗ cũng nói là chơn không. Bởi vì tánh không không dời đổi, ở sự vật nào cũng là tánh không, bởi không dời đổi nên gọi là chơn không.
ĐÁP: Phật tử này hiểu như vậy là lấy cái lượng phàm mà lường cái tâm Thánh. Rất tiếc là tôi chưa được làm Bồ-tát nên tôi chưa phân thân được, tôi chưa biết phân thân ra sao. Việc Phật và Bồ-tát phân thân đi giáo hóa thì việc đó chắc phải đợi khi nào chúng ta chứng tới đó mới biết, bây giờ khó so sánh được. Vì khả năng của phàm phu và khả năng của bậc Thánh khác nhau. Ở đây tôi chỉ nói: Không phải Phật, Bồ-tát giống phàm phu mà làm hai việc cùng một lúc không được. Chúng ta đừng lấy đó so sánh e không đúng.
ĐÁP: Câu hỏi này có lý. Nghĩa là đã ở cõi trời thì không phải là ma, tại sao ma lại được ở cõi trời? Quí vị nên hiểu rõ thế này, ở thế gian có nhiều người tu mà tu không đúng với chánh pháp, nhưng họ làm lành mong cầu hưởng cái gì đó. Vì có niệm mong cầu nên họ được phước sanh ở cõi tốt là cõi trời, nhưng tà niệm chưa hết nên gọi là ma. Họ cũng cố gắng tu, cũng nhập định nhưng không phải chánh định mà là tà định. Do làm lành nhưng theo hướng tà, thành ra sanh cõi lành mà thuộc về ma, gọi là ma Ba-tuần.
ĐÁP: Phật tử này đọc trong giáo lý A-hàm thấy ngài A-nan xin cho bà Di Mẫu là Ma Ha Ba Xà Ba Đề được xuất gia thì đức Phật than với ngài A-nan rằng: Nếu cho người nữ xuất gia thì chánh pháp của Như Lai sẽ giảm bớt năm trăm năm nên Phật tử thắc mắc tại sao. Chỗ này tôi xin nói rõ: Ngày xưa, khi Phật còn tại thế không có chùa cũng không có tịnh xá, người nữ xuất gia rồi sống lang thang trong rừng, miếu, đền, không có chỗ an trú là một vấn đề không giản đơn, lại còn nhiều việc khó khăn, bị người ta phá phách nữa. Cho nên Phật dạy chư Tăng an cư ở đâu thì chư Ni cũng phải ở gần đó để được bảo vệ, mà quí vị thấy nam nữ ở gần thì hay có bệnh ái xảy ra, do đó làm cho tăng đoàn không thanh tịnh. Còn nếu tách rời ở xa thì sợ chư Ni bị tai nạn không ai bảo vệ, đây là vấn đề nan giải. Cho nên Phật không muốn độ phái nữ, chỉ có Tăng không thì dễ hơn. Vì điểm đó cho nên Ngài nói nếu cho phái nữ xuất gia thì chánh pháp mất đi năm trăm năm là vậy.
- Bất sanh nộ sân - Ái hà thiên xích lãng, khổ hải vạn trùng ba. ĐÁP: 1. Bất sanh nộ sân: Chữ nộ và chữ sân đi theo nhau cũng như chữ nóng giận chúng ta thường dùng. Nóng là trạng thái phừng lên, giận là trạng thái ngầm ngầm, là bực bội, là tức tối. "Bất sanh nộ sân" là không sanh nóng giận, dù nghe những lời trái tai, thấy những việc làm bất như ý v.v... mà không nóng giận. 2. Ái hà thiên xích lãng, khổ hải vạn trùng ba: Ái hà thiên xích lãng là dòng sông ái sóng cao tới ngàn thước. Trong nhà Phật thường ví tình thương giống như dòng nước cuốn, cái gì rơi xuống cũng bị nước cuốn trôi hết. Con người cũng vậy, do ái mà lôi cuốn nhau chết chìm chết ngộp. Cha mẹ sanh con ra thì thương con, con lớn lên có gia đình sanh ra cháu thì thương cháu, nếu còn sống đến tám mươi, chín mươi tuổi, cháu sanh chắt cũng thương luôn. Tình thương cuốn trong dòng ái nghiệp không ngày nào ra khỏi, giống như rớt xuống dòng nước chảy bị nó cuốn trôi. Tình ái nó cột trói cho tới già không lúc nào rảnh để tu, cho nên nói dòng sông ái cao tới ngàn thước, nó cuốn người đắm chìm trong đó. "Khổ hải vạn trùng ba" là biển khổ, có muôn ngàn lượn sóng. Trong cõi đời này có muôn ngàn chuyện làm cho con người buồn khổ. Giống như người đang ở trong biển một lượn sóng dập bị ngất ngư, vừa mới tỉnh tỉnh, cố bơi thì lượn sóng tiếp lại dập tới nữa. Cứ như vậy liên tục hết khổ này tới khổ khác dồn dập nên nói khổ hải vạn trùng ba. Phật tử này không hỏi thêm câu sau là: "Dục thoát luân hồi khổ, tảo cấp niệm Di Đà" tức là muốn ra khỏi luân hồi phải sớm niệm danh hiệu Phật Di Đà. Nói theo ở đây là muốn thoát khổ phải sớm tỉnh giác, vì tỉnh giác mới ra khỏi đường khổ, nếu còn mê thì không ra khỏi được. Đa số chúng sanh chấp nhận cho dòng sông ái cuốn đi để lặn hụp trong buồn khổ. Thế mới thấy cuộc đời này đau khổ không từ đâu đến, mà do nơi chính mình chấp nhận. Thật đáng thương thay!
ĐÁP: Trong kinh Phật nói nhân duyên rồi nói như huyễn, có chỗ nói các pháp duyên sinh, có chỗ nói các pháp như huyễn. Như vậy hai cái đó là một hay khác? Để giảng trạch tôi lấy bàn tay làm ví dụ cụ thể để quí vị thấy các pháp do duyên sinh. Bàn tay tôi năm ngón co lại gọi là nắm tay. Nắm tay này không tự có, do năm ngón co lại mới có. Nếu năm ngón buông ra thì không có nắm tay. Như vậy nắm tay là thật hay giả? Đang nắm như vậy là thật có hay không? - Nắm tay tự thể là không, do năm ngón co lại tạm có, năm ngón rời ra thì không. Như vậy cái có này là không thật có, năm ngón tay co lại là duyên hợp, năm ngón tay buông ra là duyên tan. Duyên hợp duyên tan là nhân duyên. Nắm tay tuy có mà không thật có nên gọi là như huyễn. Cái gì duyên hợp mới có đều như huyễn. Hiểu được cái nhân của sự vật đều do nhân duyên hợp thì biết cái thể của nó là như huyễn, tự nó không có cái thể thật.
ĐÁP: Câu này hỏi hơi cao, tôi chỉ giảng sơ một vài nét chắc quí vị có thể lãnh hội được. "Nhất thiết duy tâm tạo" là tất cả pháp do tâm tạo nên. Hiểu theo ý này, bây giờ có người nói: Tôi muốn có một thoi vàng xin thầy lấy tâm tạo giùm con. Tâm tôi tạo được thoi vàng không? - Không. Tâm tôi không tạo được sao nói tất cả pháp do tâm tạo? - Tất cả pháp do tâm tạo với ý nghĩa này: Vật để trên bàn trước mặt tôi tại sao quí vị biết là cái đồng hồ? - Tại người ta đặt tên là đồng hồ. Sở dĩ nó có tên là đồng hồ là do người dùng tâm suy nghĩ mà đặt tên. Như vậy tất cả vật hiện có tên này tên nọ đều là từ tâm đặt ra. Nếu không có tâm đặt thì mọi người cũng không có tên. Gặp nhau nhìn thôi chớ không nói gì được, tên A tên B đều do tâm suy nghĩ mà đặt ra. Tất cả cái gì có hình tướng có danh tự đều từ tâm suy nghĩ đặt tên, mà do suy nghĩ đặt thì đó là tâm tạo. Câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" tôi có giảng trong Pháp Bảo Đàn, chắc Phật tử này không nhớ. Trong kinh Kim Cang ngài Tu-bồ-đề hỏi Phật hai câu: Làm thế nào để hàng phục tâm? Làm thế nào để an trụ tâm? Phật dạy rằng: "Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm". Nghĩa là muốn an trụ tâm thì đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đừng mắc là an trụ tâm. Bây giờ quý Phật tử đi, đứng, nằm, ngồi, đối duyên xúc cảnh thấy cứ thấy, nghe cứ nghe, không dính với trần nào hết thì tâm không động. Sở dĩ tâm động lung tung là vì mắt thấy sắc dính sắc, tai nghe tiếng dính tiếng v.v... cho nên dao động liên miên. Nằm xuống là nhớ hết chuyện này tới chuyện kia rồi than thở sao đầu óc rối như tơ vò! Rối là tại mình dính, nếu không dính thì không có gì để nhớ hết. Vậy thì muốn an trụ tâm đừng để tâm dính với sáu trần, không dính với sáu trần là tâm an trụ rồi. Hết sức là đơn giản nhưng mà tu khó phải không? Mục Lục
|