Thiền Tông Việt Nam
Tâm Xuân
TẤT NIÊN ĐINH DẬU 2018

Tôi được sinh ra và lớn lên trong những năm tháng tuổi thơ ở vùng đất Trảng Bàng - Tây Ninh, là xứ nắng cháy da người. Năm bảy tuổi tôi xuất gia tại chùa Phước Sơn, vùng quê của nội tổ. Đến mười tuổi mẹ đưa tôi về quê ngoại hành điệu tu học tại chùa Từ Lâm, ngôi chùa toàn bằng gỗ cổ kính trang nghiêm.

Thời Pháp thuộc, Phật giáo Việt Nam không có Giáo hội, chư vị tôn đức có trách nhiệm với sơn môn phải sống trong những ngôi chùa quê xa xôi. Những năm tháng chiến tranh, quý ngài tự ổn định việc tu học và gần gũi với quần chúng, người dân quanh vùng đều kém ăn thiếu mặc. Trong hoàn cảnh khó khăn nghèo túng ấy thật khó tu hành, nhưng quý ngài vẫn cố gắng để giữ gìn sinh hoạt Phật pháp.

Trên bàn thờ Tổ của chùa Từ Lâm có long vị thờ chư Tổ sư và các đại lão hòa thượng tiền bối. Ngoài ra còn có phủ ý là một tờ giấy đỏ ghi rõ danh tánh của vị đương kim trụ trì và các ngày húy kỵ của chư vị Tổ sư. Những dịp lễ húy kỵ, quý Sư tham dự đông đủ, có vị đi bộ hoặc đi xe đạp, có người đội nón lá rách, mặc áo mốc cời dài qua khỏi đầu gối. Các ngài phát tâm đóng góp để có chi phí tổ chức buổi lễ, những chùa ở thị tứ đóng góp khá hơn khoảng năm đồng mười đồng, bà con chung quanh cũng đến chùa mang theo khoai, chao, tương, trái cây,... góp thêm vào lễ cúng.

Mỗi khi nhớ lại hoàn cảnh ngày xưa, tôi thật xót xa cho Phật giáo Việt Nam thời đó. Phật giáo Việt Nam tồn tại và phát triển như hôm nay là nhờ công đức lớn lao của các bậc tiền nhân đã khó khổ gầy dựng.

Khi mới xuất gia tôi học chữ Nho với một ông đồ quê vùng Gia Tân. Đồng thời hàng ngày cắp sách đến trường tại đình Gia Lộc. Từ chùa Từ Lâm đến trường rất xa nên lúc nào tôi cũng chạy, mùa nắng chân phồng rộp lên rất đau nhưng tôi vẫn đi học đều đặn. Về chùa lại phụ các sư huynh nấu cơm, nấu xong chúng tôi dâng cúng Phật, cúng quá đường rồi dọn lên bộ ván, kẻ đứng người ngồi ăn vui vẻ. Thỉnh thoảng buổi trưa chúng tôi nấu khoai lang, khoai mỳ, khoai từ để nguyên nồi trên bàn, ai muốn ăn cứ bốc tự nhiên. Hôm nào chùa có nhiều gạo thì buổi chiều được ăn no, thiếu gạo chúng tôi lại ăn rau, ăn cháo hoặc khoai củ.

Năm tôi mười ba tuổi, chùa Từ Lâm tổ chức giới đàn, chư Sư khắp nơi về dự. Nhờ đó tôi gặp một vị sư người Trảng Bàng, nhưng hiện thời Thầy trụ trì một ngôi chùa ở Sài Gòn. Thầy nói nếu tôi muốn đi Sài Gòn, Thầy sẽ dẫn đi. Khi lên Sài Gòn, việc học của tôi bị trễ so với các bạn đồng trang lứa, vì vậy tôi phải cố gắng rất nhiều để theo kịp và học hết chương trình. Nghĩ đến giai đoạn này, tôi rấy quý kính hai vợ chồng Phật tử chùa Phước Quang. Nhờ sự tận tâm khuyến tiền và dạy học của hai vị, tôi đã hoàn tất chương trình tiểu học tại trường Phổ Tế và được giới thiệu tiếp tục lên trung học tại một trường tư thục nằm trên đường Phan Thanh Giản cũ.

Xuất gia từ lúc bảy tuổi nên tôi được học kinh bằng chữ Hán từ nhỏ. Huynh đệ xuất gia khi đã hoàn tất chương trình phổ thông, nên bây giờ mới bắt đầu học chữ Hán. Tuy hơi khó nhưng quý vị có kiến thức, có sự quyết tâm lại được tu học trong điều kiện tốt, vì vậy tôi tin huynh đệ sẽ tiến bộ rất nhanh.

Tu sĩ là người đi ngược dòng đời, nên huynh đệ càng dũng mãnh hơn người khác mới tăng tiến. Mỗi khi có tư tưởng làm trở ngại chí nguyện tu hành của mình, quý vị phải gan dạ diệt trừ, chớ để những thứ vô hình len lỏi vào tâm trí làm thối tâm Bồ-đề.

Khi chúng tôi mới về Thường Chiếu, Hòa thượng dạy phải chịu đấm ăn xôi, cạp đất mà sống. Ban đầu có khoảng hai mươi chư tăng, thời gian sau chỉ còn hơn mười vị. Đất đai nơi đây lại không phù hợp trồng tỉa nông nghiệp. Một công ruộng ở chỗ khác có thể thu hoạch khoảng sáu bảy chục giạ lúa, một mẫu ruộng ở Thường Chiếu làm rất vất vả nhưng chỉ thu được bốn năm chục giạ lúa. Sau khi phơi khô xay ra gạo nát nhừ, đen thui, khó ăn.

Vì vậy những vị còn bám trụ lại là những người kính vâng lời Thầy. Mỗi khi về Thường Chiếu, Hòa thượng cũng mang giày vác cuốc đi làm. Buổi tối ngài ngồi lặt đậu và kể chuyện cho chúng tôi nghe. Năm 1980 tôi nhập thất, thầy Trí Chơn làm tri sự. Đến mùa tỉa đậu phộng, huynh đệ dặn thầy nhớ coi chừng, nếu nhổ đậu lên lột ra thấy mặt trong vỏ đậu có hình dáng giống như da trứng cút thì phải thu hoạch. Nhưng thầy Trí Chơn chưa có kinh nghiệm nên để đậu già quá, đến lúc nhổ lên trái đậu dính lại dưới đất, phải cuốc từng bụi lên mới lấy được trái. Công việc bình thường như vậy nhưng phải có kiến thức, kinh nghiệm chăm sóc và thu hoạch đúng lúc đúng thời mới có kết quả tốt.

Huynh đệ đầy đủ phước duyên sinh ra lớn lên trong hoàn cảnh đất nước phát triển, nên được sự giáo dục tốt từ gia đình, nhà trường và xã hội. Vì vậy phải biết áp dụng những kiến thức đã thu thập vào đời sống tu tập. Huynh đệ có người tốt nghiệp đại học, cao học, là cử nhân, thạc sĩ,... nhưng khi vào thiền viện lại bị rầy la, nhắc nhở từ cách đi đứng nằm ngồi, ăn uống, ngủ nghỉ cho đến việc học, việc tu,... Bởi khi chưa xuất gia muốn ăn lúc nào cũng được, ngủ giờ nào cũng không sao. Đời sống của người tu sĩ phải ăn đúng giờ, ngủ đúng thời, giờ tụng kinh phải đi tụng kinh, giờ ngồi thiền phải đi ngồi thiền.

Ngày nay huynh đệ học có trường lớp, bàn ghế đàng hoàng, phương tiện học tập đầy đủ. Thời chiến tranh nghèo khó chư tôn Đức phải học trong rừng, ngoài vườn, viết trên đất, ghi trên lá,... nhưng quý ngài quyết chí tìm mọi cách để học. Nhờ thế quý ngài có đủ năng lực, kiến thức bảo vệ cuộc đời tu hành phát triển Phật pháp và đóng góp xây dựng tổ quốc.

Huynh đệ phải noi gương các bậc thầy đi trước, bảo vệ đời tư của mình giữ gìn thân tâm thanh tịnh bằng cách giờ nào việc nấy, không nên nhìn qua nó lại để trách móc, buồn giận, phiền não. Nghe kẻbg thức chúng ngồi dậy xếp mùng mền, rửa mặt tiến thẳng lên thiền đường. Mỗi người tự xét hơn một tiếng đồng hồ ngồi thiền, trong tâm Dũng danh thanh tịnh được bao nhiêu phút, phải cố gắng tinh tiến hơn. Tổ Quy Sơn dạy: "Bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh nhi thối khuất." Kia trượng phu ta cũng trượng phu, đừng tự khinh mình mà lui sụt. Người trước làm được mình cũng làm được.

Mỗi lần ta phát huy được tinh tấn dũng mãnh là mỗi lần tiến lên đỉnh cao, một ngày ta dần dà lui sụt là một ngày đến gần vực thẳm. Huynh đệ ngồi thiền buồn ngủ cũng không nản, dùng phương tiện quán chiếu để chiến thắng ma ngủ, lúc điên đảo ươn yếu dùng trí tuệ đánh tan, đó là cách chúng ta áp dụng sự hiểu biết vào đời sống tu tập. Đối với những yêu cầu thiết yếu trong sinh hoạt phải biết suy xét khi lãnh thọ, mình chưa làm ra hạt cơm nên không dám tham lam, chưa tự lo được áo quần nên phải trân trọng biết ơn chớ khởi niệm khen chê.

Mỗi lần ta phát huy được tinh tấn dũng mãnh là mỗi lần tiến lên đỉnh cao, một ngày ta dần dà lui sụt là một ngày đến gần vực thẳm. Huynh đệ ngồi thiền buồn ngủ cũng không nản, dùng phương tiện quán chiếu để chiến thắng ma ngủ, lúc điên đảo ươn yếu dùng trí tuệ đánh tan, đó là cách chúng ta áp dụng sự hiểu biết vào đời sống tu tập. Đối với những yêu cầu thiết yếu trong sinh hoạt phải biết suy xét khi lãnh thọ, mình chưa làm ra hạt cơm nên không dám tham lam, chưa tự lo được áo quần nên phải trân trọng biết ơn chớ khởi niệm khen chê.
Những hiểu biết thế gian không thể giúp chúng ta thành tù Phật đạo. Nếu chấp vào những kiến thức lượm lặt ấy chỉ càng tăng trưởng phiền não, si mê tăm tối mà thôi. Vì vậy người học Phật phải áp dụng lời dạy của chư Phật, chư Tổ để thành tựu trí tuệ của chính mình, dùng trí tuệ ấy vừa sạch phiền não điên đảo, cố chấp tăm tối.

Huynh đệ được tu học trong thiền viện quy cũ như thế này là một nhân duyên lành, nên phải biết nuôi dưỡng phát huy. Bởi không phải lúc nào chúng ta cũng có được phước báu như thế. Quý vị sống hòa hợp, nhường nhịn, bao dung sẽ hóa giải được những va chạm trong cuộc sống tu tập. Chúng ta cùng học một thầy, cùng sống một chùa, cùng ăn một mâm,... có điều gì không thể tha thứ cho nhau được? Quyết tâm tu hành như thế nhất định có ngày thành Phật. 

Mục Lục