Thiền Tông Việt Nam
Tâm Xuân
TẤT NIÊN GIÁP NGỌ 2015

Những ngày giáp Tết nhiều bận rộn nhưng huynh đệ chúng ta cố gắng sắp xếp trôi tròn các Phật sự để có thời giờ tu hành, giữ nề nếp tu học liên tục không gián đoạn.

Lời Phật dạy là từ sự trải nghiệm, công phu hành trì mà thành tựu, chứ không phải ngài nghiên cứu, học thuộc rồi giảng dạy. Từ các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi cho đến việc thuyết pháp, thọ trai, kinh hành, khất thực... tất cả đều khung trong Na-già Thường Tại Định. Bất cứ một lời nói, cử chỉ của ngài đều là đạo lý. Do vậy, có những người chưa từng biết đức Cồ-đàm, nhưng vừa nghe đến Phật liền chấn động, hết lòng quý kính.

Trưởng giả Cấp Cô Độc là vị đại thí chủ của tăng đoàn. Một hôm, Cấp Cô Độc trên chuyến thương hành qua nước Ma-kiệt-đà, đến thủ đô thành Vương Xá. Như thường lệ, ông đến thăm người bạn của mình, nhưng không ai chú ý đến ông. Tất cả mọi người đều tỏ ra bận rộn đến nỗi hời hợt trước sự có mặt của ông, dường như họ đang để hết tâm ý sửa soạn nghênh đón một người vô cùng quan trọng.

Cấp Cô Độc liền hỏi:

- Phải chăng trong nhà đang có đám cưới, một cuộc đại tế lễ, hay quốc vương sắp ngoạn cảnh đến thăm?

Người bạn nói:

- Ngài mai đức Phật và chư thánh tăng sẽ đến thọ trai.

Cấp Cô Độc chợt rúng động, hỏi đi hỏi lại: 

- Ngày mai có một vị Phật sẽ đến ư?

- Vâng! Đấng Toàn giác ấy sẽ đến ngôi nhà này. Hiện giờ ngài đang an trú ở vườn xoài cạnh tinh xá Trúc Lâm, phía Tây thành Vương Xá.

Người bạn lại nói thêm:

- Bữa nay vì trời tối nên không thể gặp được đức Phật, nhưng ngày mai sẽ gặp.

Đêm đó, Cấp Cô Độc ở lại nhà người bạn, nhưng lòng nôn nao muốn gặp Phật làm ông không sao ngủ được. Ông thức giấc đến ba lần, nghĩ rằng "Chắc trời sáng rồi" và nhìn ra ngoài thấy màn đêm vẫn dày đặc. Lần thức giấc sau cùng, ông mạnh dạn rời khỏi nhà, hướng về Trúc Lâm tinh xá.

Tuy nhiên, trong bóng đêm tịch mịch, ông lại càng sợ sệt và nghi ngại. Vì Cấp Cô Độc là một đại phú thương nổi tiếng, của cải rất nhiều, nếu ông phiêu lưu như thế, lỡ gặp phải người bất lương sẽ vô cùng nguy hiểm. Do đó, bản năng tự vệ khiến ông chùn chân quay lại. Thế nhưng ông nghe dường như có một âm thanh thúc giục: Hãy tiến bước! Đến gặp một vị Phật không bao giờ nguy hiểm. Rồi ông dũng mãnh tiến tới. Chợt Trưởng giả nghe tiếng gọi:

- Cấp Cô Độc! Hãy đến đây.

Cấp Cô Độc giật mình, liền sụp lại dưới chân Phật. Sau đó, đức Phật dẫn Cấp Cô Độc nối theo bước chân kinh hành buổi sáng của ngài. Vừa đi Phật vừa giảng giải những điều liên quan đến bố thí, trì giới, vô thường, biến hoại... Ngay đó, Cấp Cô Độc chứng quả Dự lưu với niềm tin bất thối chuyển.

Hay như vua A-xà-thế đã từng hại cha mẹ, giúp Đề-bà-đạt-đa hại Phật. Khi lên ngôi, A-xà-thế mắc bệnh ghẻ lở đầy mình, ngứa ngáy không chịu được. Ông nghĩ rằng đây là quả báo của tội giết cha và ý muốn hại Phật, nên bắt đầu ăn năn sám hối.

Bây giờ, đức Phật cùng một nghìn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo đang an trú tại vườn Xoài của y sĩ Kỳ-bà. Vua A-xà-thế muốn gặp Phật để sám hối, nhưng sợ ngài không tiếp. Cuối cùng, được y sĩ Kỳ-bà khuyến khích, vua mới can đảm đến gặp Phật. Khi đi gần tới vườn Xoài, thấy quá im lặng, vua bỗng sợ hãi, liền hỏi Kỳ-bà:

- Ta không bị gạt chứ? Ông không đưa ta tới chỗ oan gia chứ?

Kỳ-bà thưa:

- Thật không có chuyện ấy, xin Đại vương tiếp tục đi, chẳng nên nghi ngờ.

Đi một đoạn nữa, vua lại càng sợ hãi:

- Chẳng lẽ ta bị ông gạt sao? Đã nghe nói Như Lai ở với 1250 vị đệ tử, như vậy đông lắm, làm sao không nghe tiếng động gì?

Lúc này, Kỳ-bà mới thưa:

- Đệ tử Phật thường hành thiền định, không ồn náo. Tới nơi rồi, xin Đại vương xuống xe đi bộ, không nên làm kinh động đến Phật và chư vị thánh tăng.

Nghe như thế, vua liền rúng động, phát khởi tín tâm trong sạch và thốt lên:

- Thật kỳ lạ! Thật đặc biệt! Tất cả đều ngồi yên không cử động.

Rồi sụp lạy dưới chân Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn, hôm nay con đến đây xin thành tâm sám hối.

Phật bảo:

- Rất tốt! Ta đợi ông đã lâu.

Vua quỳ đó, bày tỏ với Phật tất cả những lỗi lầm sai quấy đã làm từ trước đến nay, không sót một điều gì và xin Phật từ bi cứu độ. Phật giảng pháp xong, vua A-xà-thế liền phát tâm quy y làm đệ tử ngài. Khi vua về, Phật nói với đại chúng: "Nếu vua A-xà-thế không giết cha thì đã được Sơ quả của bậc Sa-môn. Tuy vậy, ngày nay cũng được hạnh phúc lớn, được lòng tin vô căn." Có thể thấy chính chỗ chí tột của giây phút bất động, tĩnh lặng của 1250 vị Tỳ-kheo tại khu rừng đã khiến con đường vào đạo của vị vua ấy được mở ra. Để rồi về sau, vua trở thành một vị đệ tử tại gia, là hộ pháp đắc lực không thua kém cha của mình là vua Tần-bà-sa-la.

Tôi không biết bao giờ mình có thể làm được như lời Thầy dạy. Càng có tuổi càng thêm thắt danh vọng địa vị, để rồi đi về cuối cuộc đời bằng bệnh tật, già nua. Thế nhân gọi là cõi chết là cõi vĩnh hằng. Trong đạo, vĩnh hằng là yên lắng, không còn điên đảo chạy theo vọng tưởng, không bị các hiện tượng bên ngoài kéo lôi. Nhưng chừng nào chúng ta mới đến được chỗ đó?

Chư huynh đệ đủ duyên xuất gia, tu học trong tịnh giới của đức Phật, thì điều gì quan trọng nhất? Công phu hành trì chính là hơi thở của thiền sinh. Nếu không có hơi thở thì đâu thể sống được. Mỗi khi thân tôi đau nhức, hoặc những Phật sự bên ngoài làm tôi thấy không yên hoặc giải quyết chưa rồi thì tôi thấy xấu hổ lắm. Vì người tu không cho phép mình điên đảo như vậy, cũng không ai ban cho mình thêm chút thời gian nào nữa. Kim đồng hồ cứ quay, gần hết một đời người mà ta vẫn cứ loay hoay lẩn quẩn trong những sự duyên vây bủa trước mắt.

Dù trong hoàn cảnh nào, nhất định chúng ta phải phổ được những lời Phật dạy vào sinh hoạt đời sống, để không chạy theo vọng tưởng, không bị vọng tưởng kéo lôi. Phải luôn tinh sáng, nội tại vững vàng, để biết tất cả là vọng tưởng. Trong vô vàn bộn bề, ta vẫn biết rõ ràng màu xanh là màu xanh, màu trắng là màu trắng thì mới ổn. Nếu ta còn lăng xăng hoài thì quả là bất ổn.

Thời gian qua nhanh, vô thường tấn tốc, chúng ta phải tranh thủ, kẻo không còn kịp nữa. Dẹp hết những tham đắm về ăn uống, ngủ nghỉ, các tạp duyên... tập trung chuyên nhất một việc. Cố gắng như vậy mới có thể nối gót đức Thế Tôn và các bậc thầy thể nhập vào định thể, thành tựu Phật đạo.

Trong năm này, tôi cũng làm được một số Phật sự. Nhiều người nói Tăng phòng ở tổ đình Thường Chiếu đã khít khao, mà tôi cứ xây thêm chỗ này chỗ kia. Sở dĩ tôi cho dựng Vãng Lai đường, là nơi để chư vị tôn đức, các vị quan khách đệ tử của Hòa thượng Trúc Lâm có chỗ nghỉ ngơi, bàn bạc Phật sự. Tuy công việc xây dựng bộn bề, chư huynh đệ không theo được thời khóa, nhưng chúng ta cũng ráng khắc phục làm cho xong. Điều này khiến tôi cũng thấy vui trong lòng.

Thứ hai là sửa sang lại khu tháp mộ cho nghiêm trang, để những người huynh đệ, pháp hữu của chúng ta khi hết duyên nơi đây được đời đời gắn bó với Phật pháp. Ngày hôm qua đến dâng hương, nghĩ đến mẹ, các huynh đệ, các vị Phật tử thân hữu, tôi thấy an lòng. Có bao nhiêu công đức, nguyện hồi hướng cho Hòa thượng Trúc Lâm, nguyện Thầy sống lâu nơi đời, là cội cây đại thụ cho tăng ni tứ chúng nương tựa về.

Tổ đình thiền viện Thường Chiếu là trung tâm dạy thiền tông Việt Nam mà Hòa thượng Trúc Lâm đã một đời gầy dựng, phát triển. Tôi có nhân duyên được Thầy sắp đặt trông coi nơi này, nên tôi sẽ cố gắng làm mọi việc trong điều kiện đang có, giữ gìn đạo tràng nghiêm tịnh, chư huynh đệ được tu hành an ổn.

Năm xưa ở Chơn Không, Hòa thượng Trúc Lâm khai pháp dạy thiền, Thầy chưa dám nói mở khóa thiền vì người ta bảo tu thiền điên. Thầy chỉ thu nhận những học tăng đã theo Thầy từ trước như Hòa thượng Phước Hảo, Hòa thượng Đắc Pháp,... Ngài nói: "Nếu tôi dạy thiền mà tu thiền điên thì mấy chú điên trước. Mấy chú là con cháu trong nhà, tôi không sợ. Có điên thì thầy trò mình cũng ráng chịu." Giai đoạn đó cực lắm. Thầy vừa chỉnh trang cơ sở, vừa soạn bài để dạy. Từ kinh, luận, sử, ngữ lục, bài minh, bài châm cho đến các bài viết về thiền, Thầy đều góp nhặt lại để dạy chúng tôi và cũng giới thiệu cho mọi người thấy thiền của Phật giáo Việt Nam là như thế. Đức Thế Tôn ngồi thiền thành Phật, chư tổ cũng tu thiền mà xong việc. Thế thì đâu có lý do gì nói tu thiền điên.

Hồi đó, anh Phường là bạn đồng học của tôi ở Đại học Vạn Hạnh, chủ nhiệm tờ báo Từ Quang của hội Phật học Nam Việt. Anh tạo điều kiện cho chúng tôi viết bài đăng báo. Có điều kiện tốt để phát triển, Thầy khuyến khích anh em chúng tôi viết bài. Sau khi Thầy duyệt bài anh Phường đem về in ấn. Thành ra quãng này, một số bài viết trên báo Từ Quang là của các thiền sinh Chơn Không.

Mỗi ngày, Thầy soạn giáo án rồi nhờ thầy Thiện Năng đánh máy, sau đó mới đóng thành tập để giảng dạy trong chúng. Nếu có Phật tử nào ủng hộ thì in nhiều tập, phát cho mỗi người. Thầy cũng dạy huynh đệ phụ soạn dịch ngữ lục từ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Lịch Đại Tam Bảo Ký, Phật Tổ Thống Tải,... Mỗi chiều Thầy ngồi trên gộp đá, chúng đệ tử vây quanh nghe Thầy nhắc lại những điều hay mà Thầy đã đọc được khi soạn giáo án. Những tác phẩm mới Thầy chuẩn bị giảng dạy, chúng tôi đã học trước từ những buổi chiều sống động như vậy.

Ngày nay, chư huynh đệ đủ duyên xuất gia, nương vào uy đức của Hòa thượng tu học, được Phật tử mười phương ủng hộ cho chúng ta có chùa viện trang nghiêm, đó là phước duyên vô cùng quý báu. Cho nên, dù kiến thức không ra gì, tôi cũng cố gắng nói lại những điều ngày xưa Hòa thượng đã dạy. Mong đại chúng thông cảm, cố gắng làm sao đào xới được cốt tủy trong nội tại của chính mình, để không còn mê lầm nữa. Đạo Phật là đạo trí tuệ. Tu Phật là tu trí tuệ, không có cái khác.

Tôi là một người học trò không thông minh mẫn tuệ bằng ai, cho nên lúc nào cũng theo Thầy, không có Thầy thì không làm gì được. Từ công phu tu hành, sự phát tâm dũng mãnh của chư huynh đệ và tâm nguyện của chính tôi, tôi nghĩ rằng huynh đệ chúng ta sẽ sáng tỏ. Cứ nghiền ngẫm, cứ tu tập, rồi sẽ lóe lên ánh sáng. Từ đó, chúng ta phăn vào, tiến tới. Phải tự mình thắp đuốc lên mà đi, không thể trông chờ vào ai được.

Trong rộn ràng, chư huynh đệ cố gắng nhận ra chỗ không rộn ràng bằng chính công phu tu hành của mình. Đại chúng phải ý thức rõ việc làm này, để bảo vệ tâm nguyện tu hành. Không thể nói rằng đời này chỉ tu nhân học đạo, mà phải làm nên ngay bây giờ.  

Những ngày cuối năm, thừa tư công đức của Hòa thượng Trúc Lâm, huynh đệ chúng ta chuẩn bị đón Tết đầy đủ bánh trái, hoa quả,... Như vậy là đủ vui rồi. Nhưng sẽ vui hơn nếu chúng ta biết quay về, sống được với nội tại của chính mình. Hoàn thành tâm nguyện tu hành của huynh đệ mới xứng đáng với những gì thầy tổ đã dày công gầy dựng. Rất mong như thế.

Xuân hòa Tổ dạo xuân xuân tuệ,

Xuân hạnh nhiệm mầu xuân vào xuân.

Xuân trước xuân đầy xuân tô thắm,

Năm này xuân hiện xuân nét xuân.

Mục Lục