Thiền Tông Việt Nam
Thanh Từ Toàn Tập 16 - Thiền Tông Trung Hoa 1
Cửa Thứ Tư - An Tâm Pháp Môn

Chánh văn:

Khi mê người đuổi theo pháp, khi ngộ pháp đuổi theo người. Ngộ thì thức nhiếp sắc, mê tức sắc nhiếp thức. Chỉ vì tâm phân biệt so tính, chứ nếu tự thân hiện lượng thì tất cả đều là mộng. Nếu tâm thức lặng lẽ không một chỗ động niệm, gọi đó là chánh giác.

Hỏi: Thế nào là tự tâm hiện lượng?

Đáp: Thấy tất cả pháp là có, có tự chẳng phải có, do tâm xét tính mà thành có. Thấy tất cả pháp là không, không tự chẳng phải không, do tâm xét tính mà thành không. Cho đến tất cả pháp đều như thế, đều là do tâm xét tính mà thành có, do tâm xét tính mà thành không.

Lại nếu người tạo tất cả tội, tự thấy được pháp vương của mình liền được giải thoát. Nếu từ nơi sự mà hiểu (ngộ), đó là hàng khí lực mạnh. Từ nơi sự mà thấy pháp thì chỗ chỗ không mất chánh niệm. Từ nơi văn tự mà hiểu (ngộ) là hàng khí lực yếu. Tức nơi sự liền là pháp thì tột. Nơi ông các thứ vận động tạo tác nhảy nhót điên cuồng, thảy đều không ra khỏi pháp giới, cũng không vào pháp giới. Nếu đem pháp giới vào pháp giới tức là người si. Phàm có chỗ tạo tác trọn không ra khỏi tâm pháp giới. Vì cớ sao? Vì tâm thể là pháp giới vậy.

Hỏi: Người thế gian học hỏi đủ thứ vì sao không được đạo?

Đáp: Do vì thấy “mình” nên không được đạo. “Mình” là “ta” đó vậy.

Bậc chí nhân gặp khổ không buồn, gặp vui không mừng, do vì không thấy có mình. Sở dĩ không biết khổ vui, vì quên mình vậy. Được đến chỗ hư vô thì tự mình mình còn quên lại còn có gì mà không quên.

Hỏi: Các pháp đã là không thì ai tu đạo? 

Đáp: Nếu có “ai” thì phải tu đạo. Nếu không có “ai” tức không cần tu đạo. “Ai” đó là “ngã” vậy.

Nếu không ngã thì gặp vật chẳng sanh phải quấy. Phải là tự ta phải mà vật chẳng có phải. Quấy là tự ta quấy mà vật chẳng có quấy. Tức tâm mà vô tâm ấy là thông đạt Phật đạo. Tức vật mà chẳng khởi thấy, gọi là đạt đạo. Gặp vật thấu suốt, biết được bản nguyên của nó, người này con mắt tuệ đã mở.

Người trí mặc vật chẳng mặc mình tức không có thủ xả nghịch thuận. Người ngu mặc mình chẳng mặc vật liền có thủ xả nghịch thuận. Không thấy một vật gọi là thấy đạo. Không hành một vật gọi là hành đạo. Tức tất cả chỗ mà không chỗ, tức chỗ tạo tác mà không có pháp tạo tác, đó là thấy Phật.

Nếu khi thấy tướng liền tất cả chỗ thấy quỷ. Vì chấp tướng nên đọa địa ngục. Vì quán pháp nên được giải thoát. Nếu thấy tướng, nghĩ nhớ phân biệt, liền chịu cảnh vạc dầu sôi, lò than nóng... hiện tiền thấy tướng sanh tử.

Nếu thấy pháp giới tánh tức là tánh Niết-bàn. Không nghĩ nhớ phân biệt tức là pháp giới tánh. Tâm chẳng phải sắc nên chẳng có. Dụng mà chẳng phải bỏ đi nên chẳng phải không. Dụng mà thường không nên chẳng phải có. Không mà thường dụng nên chẳng phải không.

Tổ liền nói kệ:

Tâm tâm tâm, khó thể tìm, 

Rộng thì khắp pháp giới,

Hẹp thì chẳng dung một mũi kim. 

Cũng không thấy ác mà sanh ghét,

Cũng không thấy thiện mà siêng làm, 

Cũng đừng bỏ trí mà gần ngu, 

Cũng đừng ôm mê mà tìm ngộ. 

Đạt đại đạo chừ quá lượng, 

Thông Phật tâm chừ quá hạn, 

Chẳng cùng phàm thánh đồng đi, 

Vượt hẳn gọi đó là Tổ.

Giảng:

Cửa thứ tư

AN TÂM PHÁP MÔN

Khi mê người đuổi theo pháp, khi ngộ pháp đuổi theo người. Ngộ thì thức nhiếp sắc, mê tức sắc nhiếp thức. Chỉ vì tâm phân biệt so tính, chứ nếu tự thân hiện lượng thì tất cả đều là mộng. Nếu tâm thức lặng lẽ không một chỗ động niệm, gọi đó là chánh giác.

Khi mê chúng ta để sáu căn chạy theo sáu trần là người đuổi theo pháp. Nhưng khi ngộ thì pháp theo người. Vì không có pháp nào ngoài tâm sanh. Cho nên chúng ta ngộ là ngộ muôn pháp từ tâm sanh, đã từ tâm sanh thì các pháp thuộc về mình, hay nói cách khác là pháp đuổi theo người.

Khi chúng ta ngộ, biết các sắc đều từ nơi tâm thức phân biệt mà ra, tâm không chạy theo sắc nên nói ngộ thì thức nhiếp sắc. Ngược lại nếu mê liền thấy ngoài tâm có pháp, rồi đuổi theo phân biệt nên nói mê thì sắc nhiếp thức. Vì vậy, người mê chạy theo pháp nên tâm bất an. Người ngộ biết muôn pháp đều từ tâm sanh. Tâm sanh các pháp nên các pháp thuộc về tâm, các pháp đã thuộc về tâm thì còn đuổi theo cái gì, chẳng lẽ đem tâm đuổi bắt tâm. Biết vậy nên tâm an.

Tâm phân biệt thấy sự vật bên ngoài là thật, nếu chúng ta sống với cái hiện lượng tự nhiên thì thấy các pháp bên ngoài đều như mộng như huyễn, không có gì thật hết. Thức tâm lặng lẽ không một niệm dấy động đó là chánh giác.

Ở đây Tổ chỉ thẳng không giấu giếm quanh co. Khi nào tâm không còn dấy động đó là chánh giác, mà chánh giác tức là Phật, không cần tìm Phật ở đâu xa. Như vậy muốn thành Phật chỉ cần tâm không động niệm là đủ.

Tóm lại, biết muôn pháp đều không thật, do tâm phân biệt mà có nên không khởi phân biệt, tâm không phân biệt là trở về hiện lượng thì thấy các pháp bên ngoài tuy có mà như mộng huyễn. Thấy như vậy thì tâm lặng lẽ, không còn dấy động. Đó là an tâm, là chánh giác.

Hỏi: Thế nào là tự tâm hiện lượng?

Đáp: Thấy tất cả pháp là có, có tự chẳng phải có, do tâm xét tính mà thành có. Thấy tất cả pháp là không, không tự chẳng phải không, do tâm xét tính mà thành không. Cho đến tất cả pháp đều như thế, đều là do tâm xét tính mà thành có, do tâm xét tính mà thành không.

Thế nào là tự tâm hiện lượng? Chúng ta thấy các pháp là thật có, nhưng chẳng phải tự nó có mà do tâm chấp nên thành ra có. Thấy tất cả pháp không, nhưng nó không tự không mà do tâm chấp tạo thành không. Như vậy các pháp thành có thành không là do cái chấp của mình chứ nó không tự có cũng không tự không. Nói như vậy cảm thấy như mình chủ quan, nhưng đó là sự thật.

Ví dụ hiện giờ trên bàn có những đồ vật như bình hoa, đồng hồ, chai dầu..., nếu người không chấp thì những thứ đó không quan trọng. Nó chỉ quan trọng đối với những người nào thấy nó là có thật. Nếu tất cả những người ngồi đây không ai quan tâm đến những món đồ trên bàn này, thì những thứ đó không có nghĩa lý gì cả. Nó có nghĩa khi chúng ta thấy bình hoa này là để trang hoàng cho đẹp cái bàn, cái đồng hồ là để coi giờ... Nếu không để ý thì những thứ ấy không dính dáng gì đến chúng ta.

Tóm lại nếu chấp có thì sự vật thành có, chấp không thì sự vật thành không. Chấp có chấp không chẳng phải là hiện lượng. Rời chấp có chấp không, thấy sự vật là sự vật, không khởi niệm có không, tốt xấu, chính ngay đó là tâm hiện lượng. Tổ không định nghĩa thẳng hiện lượng là gì, ngài chỉ nói còn chấp có chấp không không phải là hiện lượng, để ngầm chỉ chỗ không chấp là hiện lượng.

Lại nếu người tạo tất cả tội, tự thấy được pháp vương của mình liền được giải thoát. Nếu từ nơi sự mà hiểu (ngộ), đó là hàng khí lực mạnh. Từ nơi sự mà thấy pháp thì chỗ chỗ không mất chánh niệm. Từ nơi văn tự mà hiểu (ngộ) là hàng khí lực yếu. Tức nơi sự liền là pháp thì tột. Nơi ông các thứ vận động tạo tác nhảy nhót điên cuồng, thảy đều không ra khỏi pháp giới, cũng không vào pháp giới. Nếu đem pháp giới vào pháp giới tức là người si. Phàm có chỗ tạo tác trọn không ra khỏi tâm pháp giới. Vì cớ sao? Vì tâm thể là pháp giới vậy.

Đoạn này ngài chỉ cho chúng ta thấy sự quan trọng của hiện lượng. Nếu có người tạo tất cả tội mà tự thấy pháp vương của mình thì liền được giải thoát. Người tạo tội nếu thấy được pháp vương thì tội tiêu hết, như vậy không trả nghiệp sao? Lý nhân quả là công bằng mà ở đây nói như thế có mất công bằng không? Như tổ Sư Tử thấy pháp vương chưa mà vẫn bị chặt đầu? Người ta chặt đầu ngài nhưng ngài không thấy bị chặt đầu, nên đối với ngài nghiệp không có. Nhưng người thế gian thấy ngài còn bị trả nghiệp như thường. Đến tổ Huệ Khả, ngài cũng thấy pháp vương mà vẫn bị nhốt ở trong khám. Tuy nhiên ngài không thấy mình bị tù tội, nhưng chúng ta thì thấy ngài bị đày. Như vậy khi người nhận ra pháp vương thì tiêu tất cả nghiệp nhưng không mất lẽ công bằng. Vì đối với chư tổ hay những người thấy được pháp vương thì trả nghiệp mà không thấy trả, còn phàm phu thì thấy có trả. Thế nên chúng ta tu dù có lỗi có quấy bao nhiêu đi nữa mà thấy được pháp vương của mình thì những cái hư dở cũng tiêu mất. Ngược lại dù có tốt thế mấy mà mờ mịt không thấy pháp vương, đôi khi cái tốt đó lại dẫn chúng ta đi trong con đường mê lầm khác. Cho nên chỗ thiết yếu là nhận ra pháp vương. Pháp vương là gì? Là tự tâm hiện lượng chứ không có gì lạ.

Thế nào từ nơi sự mà hiểu là khí lực mạnh? Ví dụ chúng ta thấy có người bệnh nhào lăn đau đớn rên rỉ, liền thức tỉnh bệnh là khổ. Nhận ra cái khổ đó là trên thực tế hay trên sự, cái nhận này mạnh hơn. Khi chúng ta nghe giảng thân người chịu bốn nỗi khổ sanh già bệnh chết..., tuy nghe hiểu nhưng cái hiểu qua ngôn ngữ lý thuyết nhẹ lắm. Ngay trên cảnh chúng ta thấy ngộ liền mới là sức mạnh. Cho nên nhà thiền không chú trọng ngôn ngữ mà phải nhìn thẳng vào sự vật nhận ra liền tỉnh ngộ.

Ví dụ thứ hai, khi thấy người ăn mày đói khát chúng ta thương đem thức ăn cho họ, và khi đọc một bài văn diễn tả nỗi khổ của người ăn mày, chúng ta thương. Hai cái thương đó cái nào mạnh hơn? Có nhiều khi thấy người ăn mày chúng ta dửng dưng, nhưng đọc qua lời văn của các văn sĩ lại xúc động rơi nước mất. Đó là do người viết khéo lựa lời trau chuốt khiến cho người đọc dễ xúc động. Còn sự thật hiển hiện ra trước mắt, nhưng không có ngôn ngữ, không làm cho mình xúc động, nên lòng dửng dưng. Nếu thấy người ăn mày mà chúng ta khóc được thì lòng thương đó mới mạnh. Khi nghe lời văn thiết tha mà xúc động thì lòng thương đó yếu hơn, vì chỉ thương qua sự tưởng tượng. Cũng như nghe cải lương than van tha thiết thì chúng ta xót xa rơi nước mắt, còn gặp cảnh khổ thực tế tâm vẫn dửng dưng, đó là yếu. Trước sự thật mình cảm thông liền đó mới là sức mạnh của lòng từ bi. Qua những ví dụ trên đã làm rõ ý nghĩa trên sự mà hiểu đó là khi lực mạnh, còn trên văn tự mà hiểu đó là khi lực yếu.

Thấy pháp tức là thấy tâm. Nếu thấy các pháp đều biết là không ngoài tâm thì không có chỗ nào thất niệm. Chỗ chỗ đều chánh niệm, vậy mới là mạnh. Nếu nhìn một chỗ để tâm không chạy theo cảnh thì còn yếu. Nên nói từ nơi sự mà thấy pháp thì chỗ chỗ không mất chánh niệm.

Vì vậy, tôi chủ trương không ngồi kìm một chỗ mà vẫn thấy người đi, xe chạy, thấy nhà cửa... đều biết là huyễn hóa, không ngoài tâm hiện. Cho nên thấy tất cả mà không có lỗi. Nếu ngồi nhìn một chỗ thì tâm được yên, nhưng khi gặp cảnh liền chạy theo, tức là thấy ngoài tâm có vật nên dễ bị thất niệm.

Ngay nơi sự tức là pháp chứ không rời sự mà có pháp. Chữ pháp đây tức là tâm. Nếu ngay nơi sự biết pháp thì tất cả vận động chạy nhảy lăng xăng... đều không ra ngoài pháp giới, đều không ra ngoài tâm. Cho nên nói tức nơi sự liền là pháp thì tột, nơi ông các thứ vận động tạo tác nhảy nhót điên cuồng, thảy đều không ra khỏi pháp giới, cũng không vào pháp giới.

Ở trên nói ngay nơi sự mà thấy pháp là hàng khí lực mạnh. Đến đây nói sự và pháp tức là cảnh và tâm không rời nhau. Nên dù có lăng xăng làm mọi việc cũng không ra ngoài tự tâm. Không thấy ra không thấy vào, đó là người thấy đạo. Nếu thấy có ra có vào là si mê.

Hỏi: Người thế gian học hỏi đủ thứ vì sao không được đạo?

Đáp: Do vì thấy “mình” nên không được đạo. “Mình” là “ta” đó vậy.

Bậc chí nhân gặp khổ không buồn, gặp vui không mừng, do vì không thấy có mình. Sở dĩ không biết khổ vui, vì quên mình vậy. Được đến chỗ hư vô thì tự mình mình còn quên lại còn có gì mà không quên.

Hỏi: Tại sao người đời học nhiều thứ quá mà không được đạo? Tổ bảo: Sở dĩ học nhiều mà không được đạo là vì càng học càng thấy có mình. Đa số người thế gian học là vì mình. Lúc còn nhỏ cắp sách đến trường, không biết bằng cấp là gì, chỉ học cho biết đọc biết viết. Khi lớn lên có thi cử bằng cấp, thi được một cấp thì cái ngã to thêm một chút. Được nhiều cấp chừng nào thì cái ngã lớn thêm chừng ấy.

Bậc chí nhân đối với khổ vui vẫn bình thản không mừng không buồn, vì không thấy có mình. Nếu không có mình thì cái gì mừng, cái gì buồn. Còn buồn còn mừng là còn ngã. Đây là những điều để trắc nghiệm cái ngã của mình. Nếu gặp cảnh nghịch mà âu sầu, gặp cảnh thuận mà vui thích thì biết cái ngã của chúng ta còn khá lắm! Chừng nào gặp khổ vui tâm vẫn như như thì biết người đó đã sạch bản ngã. Chúng ta nhìn lại tự biết mình tu tới đâu, khi gặp cảnh thuận nghịch hiện tướng thế nào thì biết tu cao hay tu thấp, không cần đánh giá trên thời khóa công phu. Cho nên muốn được đạo thì phải quên mình, nếu thấy mình to lớn quá làm sao mà được đạo. Đến chỗ cứu cánh rỗng rang tự mình còn quên, có cái gì mà không quên.

Hỏi: Các pháp đã là không thì ai tu đạo?

Đáp: Nếu có “ai” thì phải tu đạo. Nếu không có “ai” tức không cần tu đạo. “Ai” đó là “ngã” vậy.

Nếu không ngã thì gặp vật chẳng sanh phải quấy. Phải là tự ta phải mà vật chẳng có phải. Quấy là tự ta quấy mà vật chẳng có quấy. Tức tâm mà vô tâm ấy là thông đạt Phật đạo. Tức vật mà chẳng khởi thấy, gọi là đạt đạo. Gặp vật thấu suốt, biết được bản nguyên của nó, người này con mắt tuệ đã mở.

Hỏi: Các pháp đã là không thì ai tu đạo? Tổ đáp: Nếu có cái “ai” thì phải tu đạo, nếu không có cái “ai” tức không cần tu đạo, cái “ai” đó là “ngã” vậy. Nếu thấy các pháp là không, thân năm uẩn là giả thì còn ai nữa để tu. Còn ai là còn chấp ngã. Người nào còn chấp ngã thì phải ráng tu, nếu biết mình là giả thì khỏi tu. Tổ đáp thật ngắn gọn mà sâu xa. Ai đó là ngã vậy.

Cho nên người nào còn nói phải nói quấy lăng xăng, phê bình người này người kia, thì người đó còn nhiều bản ngã. Do đó nói nếu không có ngã thì gặp vật không sanh phải quấy.

Phải là tự ta phải mà vật thì không phải. Quấy là tự ta quấy mà vật thì chẳng quấy. Thấy phải thấy quấy là ta thấy. Bởi ta thấy nên nói vật này phải, vật kia quấy. Ví dụ những cái hoa ở trước mặt, nếu chúng ta không phân biệt tốt xấu thì tự nó không nói tốt xấu. Tại mình phân biệt, hoa này tốt ở điểm nào, xấu ở điểm nào, chứ hoa là hoa nó không nói tốt xấu gì hết. Cho nên phân biệt tốt xấu nhiều là ngã còn nhiều, đó là lẽ thật.

Tại sao tức tâm mà vô tâm? Tất cả vọng tưởng dấy lên tức là tâm, biết vọng tưởng là không thì đó là không tâm, là thông đạt Phật đạo. Ngay nơi sự vật nhìn nó mà không khởi thấy là đạt đạo. Không khởi thấy ở đây có hai trường hợp:

- Nếu người còn yếu thì không khởi thấy bằng cách nhìn sự vật biết nó là giả nên không phân biệt.

- Thấy tất cả sự vật dàn trải trước mắt mà không dấy niệm duyên theo, đó là không khởi thấy.

Không khởi thấy thì tâm như như là người đạt đạo. Như vậy thông đạt Phật đạo hay đạt đạo là chỉ cần tức tâm mà không tâm. Ngay nơi tâm vọng tưởng dấy lên biết là không thật, thấy tất cả sự vật mà không chạy theo là thông đạt Phật đạo. 

Thấy tất cả sự vật, biết được nguồn gốc của nó, là người có tuệ nhãn, hay nói cách khác là con mắt tuệ đã mở. Mắt tuệ này có cạn sâu, nhìn thấy sự vật biết là duyên hợp hư giả, tự tánh là không. Thấy tất cả vật biết do mê tâm mà hiện, không có vật nào thật.

Tóm lại, con mắt tuệ mở thì thấy tất cả vật bên ngoài đều biết từ tâm mê mà có. Do mê mà có vật nên vật đó là không thật huyễn hóa. Cũng như ngủ mê mà chiêm bao thì những cảnh trong chiêm bao là không thật.

Người trí mặc vật chẳng mặc mình tức không có thủ xả nghịch thuận. Người ngu mặc mình chẳng mặc vật liền có thủ xả nghịch thuận. Không thấy một vật gọi là thấy đạo. Không hành một vật gọi là hành đạo. Tức tất cả chỗ mà không chỗ, tức chỗ tạo tác mà không có pháp tạo tác, đó là thấy Phật. 

Người trí thấy sự vật thì mặc sự vật mà không có mặc mình. Mặc sự vật là thấy sự vật mà không duyên theo phân biệt nên không dính mắc, lúc nào cũng làm chủ tâm mình, đó là mặc sự vật mà không mặc mình. Hay nói cách khác, đối với sự vật thì mặc tình không theo, mà nơi mình thì chủ nhân ông lúc nào cũng hiện tiền. Vì không theo vật nên không thủ không xả, không trái không thuận. Còn người ngu thì mặc mình mà chẳng mặc vật, tức là tâm ý buông lung mặc tình theo sự vật. Đối với sự vật không để nó tự nhiên, mà chia chẻ tâm mặc tình giong ruổi đông tây.

Người trí thì lúc nào cũng làm chủ tâm mình không chạy theo vật, người ngu thì buông lung tâm ý chạy theo vật. Đó là chỗ khác nhau giữa người trí và người ngu. Nếu còn thấy một vật thật thì không đạt được lý tất cả pháp từ tâm sanh, tức là không thấy đạo. Nếu biết tất cả pháp là huyễn hóa đều từ tâm hiện, đó là thấy đạo. Không hành một vật tức là không theo vật bên ngoài, không kẹt vào hành động tạo tác. Chỉ biết tất cả đều từ tâm, mọi hành động đều hướng tâm, đó là hành đạo.

Ở trên đã nói về sự vật và hành động, bây giờ nói về nơi chốn. Nếu thấy tất cả chỗ nơi phương hướng đông, tây, nam, bắc là thật thì chưa thấy rõ được Phật đạo. Nếu thấy nơi chốn mà biết không có xứ sở thật, chính ngay chỗ tạo tác mà không thấy có pháp gì tạo tác, đó là người giác ngộ.

Tóm lại đối với sự vật bên ngoài cũng như nơi chốn đều thấy không thật, chỉ từ tâm mê mà hiện. Đó là cái thấy của người giác ngộ.

Nếu khi thấy tướng liền tất cả chỗ thấy quỷ. Vì chấp tướng nên đọa địa ngục. Vì quán pháp nên được giải thoát. Nếu thấy tướng, nghĩ nhớ phân biệt, liền chịu cảnh vạc dầu sôi, lò than nóng... hiện tiền thấy tướng sanh tử.

Nếu khi thấy có tướng thật thì ở tất cả chỗ liền thấy quỷ hiện. Tại sao vậy? Vì thấy có tướng thật, thì thấy ngoài tâm mình có pháp thật, mà còn có pháp thật là tà kiến, tà kiến là quỷ hiện rồi! Nên nói chấp tướng thì rơi vào địa ngục, quán pháp tức là quán tâm, ngay nơi tâm mà thấy, đó là giải thoát. Nếu chúng ta nhớ tưởng phân biệt tướng thì sẽ chịu những việc khổ não như bỏ trong chảo dầu sôi, như bị đun nóng trong lò lửa… Hiện tiền đang sống đây mà thấy tướng sanh tử.

Nếu thấy pháp giới tánh tức là tánh Niết-bàn. Không nghĩ nhớ phân biệt tức là pháp giới tánh. Tâm chẳng phải sắc nên chẳng có. Dụng mà chẳng phải bỏ đi nên chẳng phải không. Dụng mà thường không nên chẳng phải có. Không mà thường dụng nên chẳng phải không.

Tổ liền nói kệ:

Tâm tâm tâm, khó thể tìm

Rộng thì khắp pháp giới,

Hẹp thì chẳng dung một mũi kim. 

Cũng không thấy ác mà sanh ghét, 

Cũng không thấy thiện mà siêng làm, 

Cũng đừng bỏ trí mà gần ngu,

Cũng đừng ôm mê mà tìm ngộ. 

Đạt đại đạo chừ quá lượng, 

Thông Phật tâm chừ quá hạn,

Chẳng cùng phàm thánh đồng đi, 

Vượt hẳn gọi đó là Tổ.

Đây là đoạn thiết yếu ngài dạy để người tu an tâm. Tâm thanh tịnh là nguồn muôn pháp cho nên gọi là pháp giới. Khi tâm thanh tịnh không tưởng nhớ không phân biệt, đó là pháp giới tánh, là tánh Niết-bàn. Tâm không có hình tướng cho nên không phải sắc, bởi không phải sắc nên nói chẳng phải có. Tuy tâm không có hình tướng nhưng diệu dụng của nó không phải không có. Vì vậy căn cứ trên tướng mà nói thì tâm không có, nhưng căn cứ trên diệu dụng thì tâm chẳng phải không.

Tâm có muôn ngàn diệu dụng mà không có hình tướng, nên nói chẳng phải có. Bởi tâm không có hình tướng cho nên nói dụng mà thường không, vì thường không nên nói chẳng phải có. Tuy không có hình tướng mà tâm hằng có diệu dụng, vì vậy không thể nói là không.

Tóm lại, tâm nói có cũng không được, nói không cũng không được. Nói có thì người ta tưởng lầm nó có tướng như cái bàn cái ghế, nhưng nó không phải như cái bàn cái ghế thì làm sao nói có. Tuy nhiên tâm có vô số diệu dụng, như muốn nói chuyện thì tâm dấy niệm mới nói, muốn đi thì tâm khởi nghĩ mới đi. Như vậy tâm có vô số diệu dụng làm sao nói là không. Tuy có hằng sa diệu dụng mà không, cho nên không thể nói có, tuy không mà hằng dụng cho nên không thể nói không. Nói có nói không đều không đúng, chúng ta đừng mắc kẹt ở có và không. Được như vậy thì tâm an.

Tổ liền nói kệ để làm sáng tỏ ý trên:

Tâm tâm tâm, khó thể tìm,

Rộng thì khắp pháp giới,

Hẹp thì chẳng dung một mũi kim.

Cũng không thấy ác mà sanh ghét, 

Cũng không thấy thiện mà siêng làm, 

Cũng đừng bỏ trí mà gần ngu,

Cũng đừng ôm mê mà tìm ngộ. 

Đạt đại đạo chừ quá lượng, 

Thông Phật tâm chừ quá hạn,

Chẳng cùng phàm thánh đồng đi,

Vượt hẳn gọi đó là Tổ.

Ý bài kệ này nói, rộng thì tâm thể trùm khắp, hẹp thì không lọt một mũi kim. Căn cứ vào tâm thể thì không thấy có thiện ác để ưa ghét, không thấy có trí ngu để gần hay chán, không thấy có mê ngộ để chấp trước tìm cầu. Vượt hẳn đối đãi thì gọi là người đạt đạo. Người vượt qua tất cả tâm đo lường là thông đạt được tâm Phật, ra ngoài chừng hạn của thế gian, không còn mắc kẹt trong đối đãi thiện ác, mê ngộ, trí ngu, phàm thánh... người đó mới gọi là Tổ, mới thật sự là an tâm.

Mục Lục