Thiền Tông Việt Nam
Thanh Từ Toàn Tập 16 - Thiền Tông Trung Hoa 1
Cửa Thứ Nhất - Tâm Kinh Tụng

Trước hết tôi giải thích sơ qua tựa đề Thiếu Thất Lục Môn. Thiếu Thất là nơi tổ Bồ-đề-đạt-ma đã ngồi quay mặt vào vách chín năm, cũng là thầm chỉ chỗ mà Tổ đã đến. Lục Môn là sáu cửa hay sáu pháp tu hành để đi đến chỗ rốt ráo. Như vậy nếu chúng ta muốn đi theo con đường Tổ đã đi, đến chỗ Tổ đã đến thì không gì hơn là đi theo sáu cửa này. Tuy nhiên, nêu sáu cửa là phương tiện thứ lớp để có một trình tự tiến tu, thật ra nếu chúng ta thông suốt một cửa thì cũng đạt được chỗ viên mãn.

Sáu cửa là:

   Thứ nhất Tâm Kinh Tụng 

   Thứ hai Phá Tướng Luận

   Thứ ba Nhị Chủng Nhập 

   Thứ tư An Tâm Pháp Môn 

   Thứ năm Ngộ Tánh Luận

   Thứ sáu Huyết Mạch Luận.

Cửa thứ nhất

TÂM KINH TỤNG

Chánh văn:

Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa Tâm kinh

   Biển trí tuệ thanh tịnh,

   Nghĩa sâu lý khó lường,

   Ba-la qua bờ ấy,

   Hướng đạo chỉ do tâm. 

   Nghe nhiều ngàn muôn ý, 

   Như chỉ chẳng lìa kim, 

   Tâm kinh một lối thẳng,

   Muôn kiếp thánh hiền vâng.

Quán Tự Tại Bồ-tát

   Bồ-tát vượt thánh trí, 

   Sáu xứ rốt chung đồng, 

   Tâm không, quán tự tại, 

   Vô ngại, đại thần thông.

   Cửa thiền vào chánh thọ, 

   Tam-muội mặc tây đông, 

   Mười phương dạo chơi khắp, 

   Nào thấy Phật hành tung.

Hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời

   Sáu năm cầu đại đạo,

   Hành sâu chẳng lìa thân,

   Tâm trí tuệ giải thoát,

   Đến bờ kia tột cùng.

   Thánh đạo không, rỗng lặng,

   Như vậy nay tôi nghe,

   Phật hành ý bình đẳng,

   Thời đến tự siêu quần.

Chiếu kiến ngũ uẩn giai không 

   Tham ái thành năm uẩn,

   Giả dối kết làm thân, 

   Máu thịt liền gân cốt, 

   Trong da một đống trần. 

   Đường mê sanh đắm thích, 

   Bậc trí chẳng làm thân, 

   Bốn tướng đều tan hoại, 

   Cái gì gọi là chân.

Độ nhất thiết khổ ách

   Vọng buộc thân nên khổ,

   Nhân ngã tâm tự mê,

   Niết-bàn đạo thanh tịnh, 

   Ai chịu nhận tâm duyên. 

   Ấm giới sáu trần khởi, 

   Ách nạn nghiệp theo liền,

   Nếu rõ tâm hết khổ,

   Nghe chóng ngộ Bồ-đề.

Xá-lợi Tử

   Đạt đạo tâm là gốc,

   Tâm tịnh lợi thêm nhiều,

   Như sen nhô mặt nước, 

   Cũng vậy giác đạo nguồn.

   Thường trụ tướng tịch diệt, 

   Các thứ trí khó qua,

   Riêng vượt ngoài ba cõi,

   Lại chẳng luyến Ta-bà.

Sắc bất dị không, không bất dị sắc 

   Sắc cùng không một thứ, 

   Chưa đến thấy hai bên,

   Nhị thừa sanh phân biệt, 

   Chấp tướng tự dối tâm. 

   Ngoài không không có sắc, 

   Phi sắc nghĩa rộng thênh, 

   Vô sanh tánh thanh tịnh, 

   Ngộ đó tức Niết-bàn.

Sắc tức thị không, không tức thị sắc

   Chẳng không không chẳng có, 

   Chẳng sắc sắc không hình, 

   Sắc không đồng về một,

   Cõi tịnh được an bình. 

   Chẳng không không vi diệu, 

   Chẳng sắc sắc rõ ràng,

   Sắc không đều không tướng,

   Chỗ nào lập thân hình.

Thọ tưởng hành thức diệc phục như thị

   Thọ tưởng nhận các duyên, 

   Hành thức lượng rộng dung, 

   Biến kế tâm phải dẹp, 

   Bệnh ngã chẳng tương quan. 

   Giải thoát tâm không ngại, 

   Phá chấp ngộ nguồn tâm, 

   Nên nói cũng như thế, 

   Tánh tướng đều như nhau.

Xá-lợi Tử

   Nói “Xá” luận thân tướng, 

   “Lợi” chỉ hạt giống tâm, 

   Bồ-tát sức trí tuệ,

   Bốn tướng chẳng cho xâm. 

   Đạt đạo lìa chấp nhận,

   Thấy tánh pháp không lời,

   Các lậu thảy đều đoạn, 

   Toàn thể là vàng ròng.

Thị chư pháp không tướng

   Chư Phật nói pháp không, 

   Thanh văn chấp tướng cầu, 

   Tìm kinh kiếm lẽ đạo,

   Ngày nào học dứt tâm?

   Viên thành tướng chân thật,

   Đốn ngộ bỏ tâm tu,

   Thênh thang vượt pháp giới,

   Tự tại lại lo gì?

Bất sanh bất diệt

   Thể Lô-xá thanh tịnh,

   Không tướng xưa nay chân, 

   Như hư không trùm khắp,

   Muôn kiếp thể trường tồn.

   Chẳng chung cũng chẳng riêng,

   Không cũ cũng không mới,

   Hòa trần thể không nhiễm,

   Ba cõi một mình tôn.

Bất cấu bất tịnh

   Chân như vượt ba cõi,

   Nhơ sạch xưa nay không,

   Đức Phật khởi phương tiện, 

   Thuyết tế cùng nói thô, 

   “Không giới” không pháp có,

   Thị hiện rõ một vầng, 

   Xưa nay không một vật,

   Hà huống lập hai bên.

Bất tăng bất giảm

   Thể Như Lai không tướng, 

   Tràn đầy khắp hư không, 

   Trên không khó lập có, 

   Trong có chẳng thấy không. 

   Xem tợ trăng trong nước,

   Nghe như gió bên tai,

   Pháp thân nào tăng giảm,

   Ba cõi gọi “chân không”.

Thị cố không trung

   Bồ-đề không ở ngoài,

   Trung gian tìm cũng khó,

   Chẳng tướng chẳng chẳng tướng,

   Lượng xét mất cơ quan.

   Thế giới chẳng thế giới,

   Tam thân chiếu tứ thiên,

   Xưa nay không chướng ngại,

   Chỗ nào có ngăn che?

Vô sắc, vô thọ tưởng hành thức

   Không sắc xưa nay không, 

   Không thọ tưởng cũng đồng, 

   Hành thức không mà có, 

   Có hết lại về không. 

   Chấp có thật chẳng có, 

   Y không lại kẹt không, 

   Sắc không tâm lìa hết, 

   Thế mới được thần thông.

Vô nhãn nhĩ tỹ thiệt thân ý

   Sáu căn không tự tánh,

   Theo tướng đặt bày thôi, 

   Mắt tại theo thanh sắc,

   Nhân ngã lưỡi đùa chơi,

   Mũi hoặc phân thơm thối,

   Thân ý trái dục tình,

   Sáu chỗ tham ái đoạn,

   Muôn kiếp hết luân hồi.

Vô sắc thanh hương vị xúc pháp 

   Chứng trí không thanh sắc,

   Hương vị xúc khác gì,

   Sáu trần từ vọng khởi,

   Tâm phàm tự lầm nghi.

   Sanh tử thôi sanh tử,

   Khi ấy chứng Bồ-đề,

   Pháp tánh không, không trụ,

   Chỉ sợ ngộ chậm thôi. 

Vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới

   Sáu thức từ vọng khởi,

   Y tha tánh tự khai,

   Mắt tại cùng thân ý,

   Ai có thể đo lường?

   Mũi lưỡi hành điên đảo,

   Tâm vương khiến quay về,

   Không lâu nơi sáu thức,

   Đốn ngộ hướng Như Lai.

Vô vô minh diệc vô vô minh tận nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận

   Mười hai nhân duyên có,

   Có sanh, lão liền theo,

   Có thân, vô minh đến,

   Hai tướng cùng sánh đôi. 

   Thân diệt, vô minh hết,

   Quả báo chẳng hẹn kỳ, 

   Biết thân như huyễn hóa,

   Gấp gấp ngộ vô vi.

Vô khổ tập diệt đạo

   Tử đế hưng ba cõi,

   Đốn giáo nghĩa rõ ràng, 

   Khổ đoạn tập đã diệt,

   Thánh đạo tự nhiên thành.

   Thanh văn dừng vọng tưởng,

   Duyên giác ý an bình,

   Muốn biết chỗ thành Phật,

   Trên tâm chớ giữ dừng.

Vô trí diệc vô đắc

   Pháp gốc chẳng phải không,

   Trí tuệ khó xét lường, 

   Tâm hoan hỷ, ly cấu,

   Phát quang khắp mười phương.

   Nan thắng, hiện tiền địa,

   Viễn hành đại đạo tràng,

   Bất động qua bờ ấy,

   Thiện tuệ, pháp trung vương.

Dĩ vô sở đắc cố

   Thể tịch diệt không được, 

   Chân không chẳng níu vin, 

   Xưa nay không tướng mạo, 

   Phương tiện lập ba đàn.

   Tứ trí mở pháp dụ,

   Lục độ cửa tạm thôi,

   Hàng tam thừa, thập địa, 

   Chúng thánh khó nghĩ bàn.

Bồ-đề-tát-đỏa

   Phật đạo thật khó biết, 

   Bồ-tát là phàm phu,

   Chúng sanh muốn thấy tánh,

   Kính Phật chớ phụ tâm.

   Trong đời thiện tri thức,

   Nói bàn pháp tế thô, 

   Đốn ngộ tâm bình đẳng, 

   Trong đây chấp tướng trừ. 

Y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố

   Bát-nhã ấy trí tuệ,

   Ba-la không chỗ nương, 

   Tâm không tánh rộng lớn, 

   Trong ngoài thảy vô vi.

   Tánh không biện vô ngại, 

   Ba cõi hiếm ai bì,

   Ngộ lớn sáng đại pháp,

   Khen ngợi bất tư nghì.

Tâm vô quái ngại

   Giải thoát tâm không ngại, 

   Ý tợ như thái hư,

   Bốn phương không một vật, 

   Trên dưới thảy đều đồng.

   Qua lại tâm tự tại,

   Nhân pháp chẳng tương can,

   Hỏi đạo đừng thấy vật,

   Mặc nhiên thoát lồng phiền.

Vô quái ngại cố vô hữu khủng bố

   Sanh tử tâm lo sợ,

   Vô vi tánh tự an,

   Cảnh quên tâm cũng diệt,

   Biển tánh lặng thênh thang. 

   Ba thân về tịnh độ,

   Tám thức lìa nhân duyên,

   Sáu thông theo thật tướng, 

   Về gốc trở lại nguồn.

Viễn ly điên đảo mộng tưởng 

   Hai bên trọn chớ lập,

   Trung đạo đừng tâm tu, 

   Thấy tánh hết sanh tử,

   Bồ-đề không chỗ cầu.

   Ngoài thân tìm Phật thật,

   Điên đảo một đời thôi,

   Ngồi yên thân an lạc,

   Quả vô vi khắp nơi.

Cứu cánh Niết-bàn

   Vô sanh tức cứu cánh,

   Thanh tịnh ấy Niết-bàn, 

   Phàm phu chở lường thánh, 

   Chưa đến thật khó bàn. 

   Hữu học cùng vô học,

   Trí Phật càng sâu mầu,

   Lý vô tâm cốt hội,

   Chớ chấp dứt nguồn tâm.

Tam thế chư Phật

   Quá khứ không lời thật,

   Vị lai chẳng phải chân,

   Hiện tại mầm giác ngộ,

   Không pháp cửa diệu huyền.

   Ba thân đồng về một,

   Một tánh biến khắp thân,

   Đạt lý ba thời mất,

   Một pháp cũng không nhân.

Y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-bồ-đề.

   Trí Phật sâu khó lường,

   Tuệ giải rộng vô biên,

   Tâm vô thượng biến khắp,

   Từ quang chiếu đại thiên.

   Tâm tịch diệt khéo léo, 

   Dựng lập ngàn vạn môn, 

   Bồ-tát nhiều phương tiện,

   Rộng cứu độ nhân thiên,

Cố tri Bát-nhã ba-la-mật-đa thị đại thần chú thị đại minh chú.

   Bát-nhã là thần chú,

   Hay trừ năm uẩn nghi, 

   Phiền não thảy đoạn dứt, 

   Thanh tịnh tự phân ly. 

   Sóng tứ trí vô tận,

   Bát thức hiển thần uy,

   Đèn tâm sáng pháp giới,

   Chính đó là Bồ-đề.

Thị vô thượng chú

   Trí vô thượng tối thắng,

   Cứu độ chúng sanh mê, 

   Tuệ lớn chủ ba cõi,

   Nguyện rộng khởi đại bi.

   Hay thuận chúng sanh ý, 

   Theo dòng dẫn kẻ mê,

   Người người lên bờ giác, 

   Do mình chẳng do ai.

Thị vô đẳng đẳng chú

   Phật đạo nên ngàn thánh, 

   Pháp lực không gì hơn, 

   Chân không diệt pháp có, 

   Thị hiện hóa thân nhiều. 

   Đến vì chúng sanh khổ,

   Đi vì thế gian ma,

   Kiếp thạch đều về hết,

   Còn Ta tại Ta-bà.

Năng trừ nhất thiết khổ chân thật bất hư

   Phật nguyện từ bi lớn,

   Đời đời độ chúng sanh, 

   Hoằng pháp nói chân lý,

   Khắp khuyên gấp tu hành.

   Hồi tâm thấy lẽ thật,

   Khổ hết thấy vô sanh,

   Hằng dứt ba đường ác, 

   Thanh thản trong kia vui.

Cố thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa chú

   Nên nói lý chân thật,

   Chưa ngộ gấp hồi tâm,

   Sáu giặc mười ác diệt, 

   Núi ma gốc đổ nhào.

   Thần chú trừ ba độc,

   Tâm hoa năm cánh khai,

   Quả chín cội rễ chắc,

   Bước bước thấy Như Lai.

Tức thuyết chú viết: yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế bồ-đề tát-bà-ha.

   Yết-đế gốc tông thiền,

   Phương tiện dựng cờ pháp,

   Như Lai bậc tối thắng,

   Phàm tâm chớ xét lường.

   Không bên không ở giữa,

   Không ngắn cũng không dài,

   Bát-nhã ba-la-mật,

   Muôn kiếp xưa nay thường.

Giảng:

Cửa thứ nhất

TÂM KINH TỤNG

Cửa thứ nhất là Tâm Kinh Tụng. Sở dĩ Tổ nói về Tâm Kinh là vì Phật tổ đều nhắm thẳng vào đó để tiến đến chỗ cứu cánh viên mãn. Cho nên bước vào cửa Thiền là phải qua cửa Bát-nhã. Cửa Bát-nhã là cửa Chơn Không. Vì thế chúng ta thấy rõ bản ý của Thiền viện, vừa bước đến cổng thì thấy đề hai chữ Chơn Không.

Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa Tâm kinh

   Biển trí tuệ thanh tịnh,

   Nghĩa sâu lý khó lường,

   Ba-la qua bờ ấy,

   Hướng đạo chỉ do tâm. 

   Nghe nhiều ngàn muôn ý,

   Như chỉ chẳng lìa kim,

   Tâm kinh một lối thẳng,

   Muôn kiếp thánh hiền vâng.

Biển trí tuệ thanh tịnh, nghĩa sâu lý khó lường, ba-la qua bờ ấy, hướng đạo chỉ do tâm. Cửa thứ nhất Tổ nói về Bát-nhã Tâm kinh, nói đủ là Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa Tâm kinh. Ma-ha là rộng lớn, Bát-nhã là trí tuệ, ba-la-mật là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là đáo bỉ ngạn, Việt dịch là đến bờ kia. Qua mấy câu kệ trên chúng ta thấy tổ Bồ-đề-đạt-ma xác nhận rằng: Bát-nhã là trí tuệ thanh tịnh rộng lớn, về mặt lý thật là thầm kín, về mặt nghĩa thật là sâu xa. Người đạt được trí tuệ thanh tịnh rộng lớn gọi là đến bờ kia, đạt được trí tuệ tức là đạt được bản tâm, nên nói hướng đạo chỉ do tâm.

Nghe nhiều ngàn muôn ý, như chỉ chẳng lìa kim, Tâm kinh một lối thẳng, muôn kiếp thánh hiền vâng. Người nghe nhiều học nhiều thì có ngàn muôn ý, ví dụ như chỉ chẳng lìa kim. Khi chúng ta may quần áo thì phải dùng kim chỉ, mũi kim đi trước rồi mới kéo sợi chỉ đi theo, có kim là có sợi chỉ bị kéo theo, kim và chỉ hai cái không rời nhau. Cũng vậy, học nhiều thì tâm ý phân tán, nếu tâm ý phân tán thì không bao giờ đạt đạo, đó là một lẽ thật. Cho nên chúng ta tu, muốn trở về tâm thì phải dứt mọi ý niệm hướng ra ngoài. Nếu tâm hướng một chỗ không phân tán, không còn bệnh đa văn, đó là chỗ thánh hiền vâng theo.

Tóm lại, Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa Tâm kinh là chỉ cho trí tuệ thanh tịnh rộng lớn sâu xa. Đạt được trí tuệ là trở về bản tâm. Muốn trở về bản tâm, không phải học rộng nhớ nhiều mà chỉ nhất tâm nhất trí dứt bỏ ý niệm hướng ra bên ngoài.

Quán Tự Tại Bồ-tát

   Bồ-tát vượt thánh trí, 

   Sáu xứ rốt chung đồng, 

   Tâm không, quán tự tại, 

   Vô ngại, đại thần thông. 

   Cửa thiền vào chánh thọ, 

   Tam-muội mặc tây đông, 

   Mười phương dạo chơi khắp,

   Nào thấy Phật hành tung.

Bồ-tát vượt thánh trí, sáu xứ rốt chung đồng, tâm không quán tự tại, vô ngại đại thần thông. Bồ-tát là bậc vượt khỏi thánh trí, không còn mắc kẹt trong thánh trí của hàng Thanh văn. Sáu xứ là chỉ cho sáu căn. Sáu căn thảy đều chung đồng là chỉ cho bậc Bồ-tát đến chỗ sáu căn hỗ dụng. Tâm không còn vọng tưởng phiền não là quán tự tại. Tâm không còn bị chướng ngại là đại thần thông.

Như vậy Bồ-tát Quán Tự Tại là chỉ cho những vị có trí tuệ vượt hơn hàng thánh giả Thanh văn. Những vị ấy đối với sáu căn hỗ dụng không còn bị ngăn ngại, tâm không khởi niệm xao động nên gọi là Quán Tự Tại.

Cửa thiền vào chánh thọ, tam-muội mặc tây đông. Chánh thọ là dịch nghĩa chữ tam-muội, chỉ cho chánh định. Người tu thiền đạt được chánh định thì tự do tự tại mặc tình tiến sang đông vượt sang tây. Như vậy muốn được không chướng ngại như Bồ-tát Quán Tự Tại, chúng ta phải tập tu thiền. Khi tâm định không còn bị chướng ngại, Gọi đó là tự tại.

Mười phương dạo chơi khắp, nào thấy Phật hành tung. Chúng ta tu là nương theo dấu vết của Phật mà tu nhưng đây lại nói không thấy dấu vết, như vậy là sao? Bởi vì khi đạt được chánh định thì không còn thấy Phật hình tướng, mà chỉ nhận ra Phật pháp thân. Phật pháp thân không có hình tướng nên tự tại vô ngại, không để lại dấu vết.

Tóm lại, đoạn này Tổ giải thích Quán Tự Tại Bồ-tát là những vị có trí tuệ vượt trên hàng thánh giả Thanh văn, các ngài đạt đến chỗ sáu căn hỗ dụng, tâm không còn dấy niệm nên tự tại vô ngại, thần thông diệu dụng. Chúng ta tu muốn được như các ngài thì phải tập tu thiền để vào chánh định, khi vào chánh định thì tự tại tự do qua lại mười phương, không bị chướng ngại. Khi ấy mới nhận ra rằng pháp thân Phật nơi chúng ta không còn mắc kẹt hình tướng bên ngoài. Đó là ý nghĩa Quán Tự Tại.

Hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời

   Sáu năm cầu đại đạo,

   Hành sâu chẳng lìa thân,

   Tâm trí tuệ giải thoát,

   Đến bờ kia tột cùng.

   Thánh đạo không, rỗng lặng,

   Như vậy nay tôi nghe,

   Phật hành ý bình đẳng,

   Thời đến tự siêu quần.

Sáu năm cầu đại đạo, hành sâu chẳng lìa thân, tâm trí tuệ giải thoát, đến bờ kia tột cùng. Ở đây nói sáu năm cầu đại đạo, đi sâu vào cũng không lìa thân mình. Phần này có hai ý:

1. Đức Phật tu khổ hạnh sáu năm để cầu đạo, cuối cùng ngài đến dưới cội bồ-đề ngồi thiền định tâm lặng hết vọng tưởng và chứng đạo, đó là cầu đại đạo.

2. Chúng ta muốn cầu đại đạo thì ngay nơi sáu căn mà nhận ra tâm trí tuệ giải thoát của chính mình. Nhận được như vậy là đến được bờ giác, chỗ cứu cánh của người tu hành. Như vậy bờ bên kia không đâu xa mà chính nơi sáu căn nhận ra tâm trí tuệ giải thoát, đó gọi là hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thánh đạo không, rỗng lặng, như vậy nay tôi nghe, Phật hành ý bình đẳng, thời đến tự siêu quần. Khi hành thâm Bát-nhã hay nhận ra trí tuệ Bát-nhã thì thấy thánh đạo lặng lẽ rỗng rang. Rõ ràng là đến bây giờ chúng ta mới được nghe như thế. Phật lúc nào cũng thực hành ý bình đẳng. Nhưng muốn nhận ra chỗ đó thì phải làm sao? Khi thời cơ đến thì sẽ được siêu quần bạt tục, vượt hơn phàm tình.

Tóm lại, theo quan niệm của Tổ là ngay nơi sáu căn chúng ta nhận sâu được trí tuệ giải thoát, gọi là hành thâm Bát-nhã, là đến được bờ kia hay còn gọi là đạt được chỗ cứu cánh viên mãn của sự tu hành. Đến chỗ đó rồi mới thấy thánh đạo lặng lẽ rỗng rang, mới nghe được chánh lý, mới thấy được tâm bình đẳng của chư Phật. Nhưng chỗ đó chừng nào đến? Thời đến thì nó đến, chứ không phải một hai ngày hay năm ba tháng. 

Chiếu kiến ngũ uẩn giai không

   Tham ái thành năm uẩn,

   Giả dối kết làm thân,

   Máu thịt liền gân cốt,

   Trong da một đống trần. 

   Đường mê sanh đắm thích, 

   Bậc trí chẳng làm thân,

   Bốn tướng đều tan hoại,

   Cái gì gọi là chân.

Tham ái thành năm uẩn, giả dối kết làm thân, máu thịt liền gân cốt, trong da một đống trần. Chúng ta có thân năm uẩn là do tham ái. Thân năm uẩn giả hợp không thật gồm có máu, thịt, gân, xương..., da bọc ở ngoài, tất cả chỉ là một mớ bụi đất mà thôi.

Đường mê sanh đắm thích, bậc trí chẳng làm thân, bốn tướng đều tan hoại, cái gì gọi là chân? Những người si mê đối với thân năm uẩn sanh ưa thích, nhưng người trí thì không làm thân với nó, vì biết nó là thứ giả không có gì quan trọng. Chỉ có người ngu thì ưa thích thân, nên thường săm soi thân thể, thích những trang sức tốt đẹp, do thấy thân quan trọng nên sợ chết. Do ngu mê nhiều đời nên thân năm uẩn này hơi rung rinh một chút là đã lo sợ, chính cái sợ đó làm cho chúng ta khổ.

Rõ ràng thân năm uẩn là hư giả không thật có, nếu cứ bám vào cái hư giả không thật để mến yêu và sanh kiêu căng ngã mạn đủ thứ thì chúng ta là người ngu. Người trí không làm thân với nó, thấy nó không quan trọng nên không sợ chết, thì không còn khổ. Vì nó là do đất, nước, gió, lửa hợp thành, khi bốn tướng hoại đều trở về chỗ tiêu mất, thì cái gì gọi là chân!

Độ nhất thiết khổ ách

   Vọng buộc thân nên khổ, 

   Nhân ngã tâm tự mê, 

   Niết-bàn đạo thanh tịnh, 

   Ai chịu nhận tâm duyên. 

   Ấm giới sáu trần khởi, 

   Ách nạn nghiệp theo liền, 

   Nếu rõ tâm hết khổ,

   Nghe chóng ngộ Bồ-đề.

Vọng buộc thân nên khổ, nhân ngã tâm tự mê Niết-bàn đạo thanh tịnh, ai chịu nhận tâm duyên. Do mê vọng ràng buộc thân nên có khổ, do tâm mê nên khởi niệm nhân ngã. Niết-bàn vốn thanh tịnh thì ai lại chịu để tâm nương gá vào thân giả tạm và tâm nhân ngã. Đoạn này giải thích câu độ nhất thiết khổ ách. Khổ là từ nơi vọng tâm trói buộc thân, nên thân đói lạnh gặp nguy hiểm thì thấy khổ, nhân đó sanh ra kiêu căng ngã mạn làm cho tâm mình tự mê. Muốn hết khổ phải hằng sống bằng tâm thanh tịnh, không dính mắc vào một cái gì khác là qua tất cả khổ nạn.

Ấm giới sáu trần khởi, ách nạn nghiệp theo liền, nếu rõ tâm hết khổ, nghe chóng ngộ Bồ-đề. Do năm ấm, mười tám giới, sáu trần dấy khởi nên có ách nạn. Sở dĩ chúng ta khổ vì thấy những cái đó là thật, liền bị nghiệp dẫn đi trong ách nạn. Nếu nhận được bản tâm của chính mình thì không còn khổ. Đây là một lẽ thật mà ít người nhận ra.

Bồ-tát luôn quán chiếu thân năm uẩn là không, nên qua hết khổ ách, chúng sanh thấy năm uẩn là thật nên có khổ ách. Cho nên khi chúng ta nhận được bản tâm thanh tịnh, ngộ đạo Bồ-đề, tâm không còn dính mắc với thân hay ngoại cảnh thì hết khổ. Người thấy thân thật cảnh thật thì không bao giờ hết ách nạn. Do thấy thân thật nên khi bị tổn thương thì khổ. Thấy cảnh thật, như cái nhà của tôi, đất đai của tôi, tài sản của tôi... nên khi chúng bị tàn phá hư hao là mất ăn mất ngủ, đau đớn khổ sở vô cùng.

Tóm lại nếu thấy tất cả đều không thật, như giấc mộng thì có gì phải khổ. Nếu giấc mộng lành thì khi giật mình thức dậy, biết có giấc mộng lành. Nếu là giấc mộng dữ, khi thức dậy biết là mộng thì không có gì lo sợ. Hiểu như vậy rồi những việc thế gian không làm chúng ta đau khổ.

Xá-lợi Tử

   Đạt đạo tâm là gốc,

   Tâm tịnh lợi thêm nhiều,

   Như sen nhô mặt nước, 

   Cũng vậy giác đạo nguồn.

   Thường trụ tướng tịch diệt, 

   Các thứ trí khó qua,

   Riêng vượt ngoài ba cõi,

   Lại chẳng luyến Ta-bà.

Đạt đạo tâm là gốc, tâm tịnh lợi thêm nhiều, như sen nhô mặt nước, cũng vậy giác đạo nguồn. Theo quan niệm của Tổ, Xá-lợi Tử là chỉ cho bản tâm, bản tâm này là gốc. Nếu tâm thanh tịnh không còn bị vọng tưởng che lấp thì mới được lợi nhiều. Bản tâm này chẳng khác nào như hoa sen ở trong bùn. Hoa sen dụ cho bản tâm, bùn nước dụ cho vô minh vọng tưởng. Nếu từ nơi bùn nước vô minh vọng tưởng vượt lên được, thì đó là người giác ngộ, đạt được nguồn gốc của đạo.

Thường trụ tướng tịch diệt, các thứ trí khó qua, riêng vượt ngoài ba cõi, lại chẳng luyến Ta-bà. Giác ngộ được nguồn gốc của đạo mới nhận ra bản tâm mình thường ở trong tướng tịch diệt, tất cả trí tuệ không vượt qua được nó. Bản tâm thanh tịnh riêng vượt ngoài tam giới, người sống bằng bản tâm này thì không còn đắm mến cõi Ta-bà.

Sắc bất dị không, không bất dị sắc

   Sắc cùng không một thứ, 

   Chưa đến thấy hai bên, 

   Nhị thừa sanh phân biệt, 

   Chấp tướng tự dối tâm. 

   Ngoài không không có sắc, 

   Phi sắc nghĩa rộng thênh, 

   Vô sanh tánh thanh tịnh,

   Ngộ đó tức Niết-bàn.

Sắc cùng không một thứ, chưa đến thấy hai bên, Nhị thừa sanh phân biệt, chấp tướng tự dối tâm. Thông thường thì dịch là sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, ở đây ngài nói sắc cùng không một thứ, chưa đến thấy hai bên. Thật ra sắc và không chẳng khác, nhưng vì chúng ta chưa đến chỗ cứu cánh nên thấy có hai cái riêng biệt. Hàng Nhị thừa phân biệt đây là sắc kia là không, hai cái rời nhau cho nên mới mắc kẹt trên hình tướng.

Ngoài không không có sắc, phi sắc nghĩa rộng thênh, vô sanh tánh thanh tịnh, ngộ đó tức Niết-bàn. Không có sắc nào ngoài không mà có. Như cái bàn do nhiều miếng ván, gỗ... ráp lại với nhau mà thành, duyên hợp giả có nên sắc chẳng ngoài không. Cũng vậy, thân chúng ta đang sống đây là do tứ đại hợp thành, tánh nó là không. Không và sắc không rời nhau mà chúng ta chia ra đây là sắc kia là không, đó là si mê. Khi không còn thấy sắc ngoài không thì mới thấy nghĩa phi sắc rộng rãi thênh thang, nhận được tánh vô sanh thanh tịnh, ngộ được lý Niết-bàn. Chỗ này chính là yếu lý Đại thừa mà nhiều người không hiểu nổi. Bởi vì chúng ta quan niệm rằng khi có thân gọi là sanh, không còn thân gọi là tử. Nếu còn thấy có không, sanh tử... là còn thấy hai riêng biệt, thì tâm không bao giờ an lạc. Chúng ta phải ngay nơi cái có thấy nó là không, ngay nơi sanh tức là tử, tử tức là sanh thì đó là vô sanh. Chỗ này tuy nói vậy mà khó nhận, nếu nhận được thì sống trong Niết-bàn hiện tại.

Tự tánh không hay đương thể tức không là nhận được ngay nơi cái có đã hàm chứa cái không, ngay nơi thân đang sống đây mà không còn thấy sanh tử thì mới hết khổ. Bởi chúng ta chưa có trí tuệ lớn nên nghe không hiểu, nếu có trí tuệ lớn thì nghe qua là hiểu liền.

Thân đang sống đây có thật hay không? Sở dĩ nói thật là vì chúng ta chấp nhận sự duyên hợp giả có của nó, thật ra nó chỉ là giả hợp, nên nói sắc tức là không. Ví dụ hiện tại đang sống, bỗng dưng chúng ta chết. Như người chết khát là vì thiếu nước, chết ngợp là vì thiếu không khí. Như vậy chết là vì tứ đại bên ngoài không bồi bổ tứ đại bên trong, hay thân tứ đại không chấp nhận tứ đại bên ngoài vô nữa nên nó hoại. Sự sống của chúng ta chỉ là sự hỗ trợ của tứ đại bên ngoài và tứ đại bên trong mà thôi. Nhưng chúng ta chết mà tứ đại không mất, cái tâm cũng không mất. Tướng tứ đại hợp rồi tan, tứ đại trả về cho tứ đại, chỉ hoại cái giả tướng, vậy mà chúng ta bám vào cái giả tướng cho là thật sanh thật tử nên đau khổ triền miên, đời đời kiếp kiếp không nhận ra tự tánh Niết-bàn thanh tịnh. Nếu trong cái giả tướng sanh tử biết rõ cái không sanh tử, ngay đây thấy sanh tức là vô sanh mà vô sanh tức Niết-bàn, hàng ngày sống trong Niết bàn thanh tịnh, miệng cười hoài như đức Phật Di lặc.

Hàng Nhị thừa vì thấy có hai cho nên sự sanh cầu Niết-bàn. Hàng Bồ-tát thấy sắc với không không hai nên không sợ sanh tử, ngay trong sanh tử nhận ra lý vô sanh tức là Niết-bàn. Như vậy ngộ đạo đâu có xa xôi gì, chỉ cần bỏ kiến chấp sai lầm, tỉnh giác thấy thân này không quan trọng, như ngài Từ Minh nói “sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ”, nên không còn lo sợ đau khổ. Tóm lại, nếu chúng ta nhận chân được chỗ cứu cánh của sự tu hành thì sẽ an nhiên trong mọi hoàn cảnh, dù sống trong cuộc đời đầy nghịch cảnh cũng không có gì lo sợ. 

Sắc tức thị không, không tức thị sắc

   Chẳng không không chẳng có,

   Chẳng sắc sắc không hình,

   Sắc không đồng về một,

   Cõi tịnh được an bình.

   Chẳng không không vi diệu, 

   Chẳng sắc sắc rõ ràng,

   Sắc không đều không tướng,

   Chỗ nào lập thân hình.

Chẳng không không chẳng có, chẳng sắc sắc không hình, sắc không đồng về một, cõi tịnh được an bình. Ngay nơi cái không chẳng phải là không vì cái không vốn là không thật. Ngay nơi sắc cũng không thật vì sắc vốn là giả tướng. Sắc - không đồng về một nguồn vì cũng hư dối như nhau.

Ví dụ có hai hình nhân bằng gỗ được mặc quần áo và tô điểm thành một người nam một người nữ. Bên trong lắp bộ máy cho nó hoạt động đi đứng múa hát. Có kẻ quê mùa không biết đó là hai tượng gỗ do máy điều khiển cử động, họ liền chấp đây là người nam, kia là người nữ, người này đẹp, người kia xấu. Nhưng nếu biết đó là người gỗ được điều khiển bằng máy thì chúng ta sẽ nói nam nữ gì cũng là gỗ, không phải người thật.

Như trước đã nói có và không là tượng trưng cho sanh và tử. Đối với thân này hợp lại thì gọi là sanh, rã ra thì gọi là tử. Đã nói sắc không không hai, sanh tử không hai thì ngay nơi cõi Ta-bà là cõi tịnh được an bình. Tại sao? Vì sanh không thật sanh, tử không thật tử, thì không sợ chết. Không sợ chết thì không sợ đói sợ lạnh, không khổ vì sống chết. Như vậy tự nhiên được an lành, hiện tại chúng ta ở trong Cực lạc chứ không cần cầu ở đâu xa.

Chẳng không không vi diệu, chẳng sắc sắc rõ ràng, sắc không đều không tướng, chỗ nào lập thân hình. Nếu không mà chẳng phải không thì cái không đó mới là diệu. Nghĩa là ngay cái không chúng ta thấy không thật không, cái không đó là cái không vi diệu. Cái không vi diệu là chân không. Nếu ngay nơi sắc mà thấy không thật là sắc, vì sắc là tướng giả hợp nên không thật, như vậy mới là rành rẽ về sắc. Sắc và không cả hai tướng đều hư giả, có tướng mà không phải tướng, chỗ nào lập ra thân hình. Tướng mà không phải tướng thì thân không thật, ngay đó phá được cái chấp ngã. Sở dĩ chúng ta đau khổ là vì thấy thân thật, vọng tưởng thật. Ngay nơi thân thấy sắc tức là không, không tức là sắc thì không còn đau khổ. Đó là nói về sắc ấm.

Thọ tưởng hành thức diệc phục như thị

   Thọ tưởng nhận các duyên,

   Hành thức lượng rộng dung, 

   Biến kế tâm phải dẹp,

   Bệnh ngã chẳng tương quan. 

   Giải thoát tâm không ngại, 

   Phá chấp ngộ nguồn tâm,

   Nên nói cũng như thế,

   Tánh tướng đều như nhau.

Thọ tưởng nhận các duyên, hành thức lượng rộng dung, biến kế tâm phải dẹp, bệnh ngã chẳng tương quan. Do sáu căn tiếp xúc sáu trần mà sanh ra cảm thọ khổ vui hoặc không khổ không vui. Nhân cảm thọ mà có tưởng, tưởng cái này là vui nên thích, tưởng cái kia là khổ nên không ưa. Như vậy thọ và tưởng chạy theo duyên bên ngoài. Hành và thức lượng của nó rất sâu mà thầm kín ở trong. Biến kế là biến kế sở chấp, nói cho dễ hiểu đó là tâm chấp. Do xúc có thọ, thọ rồi khởi tưởng, tưởng rồi chấp. Cho nên cần thiết là phải diệt tâm biến kế thì bệnh chấp ngã không còn.

Giải thoát tâm không ngại, phá chấp ngộ nguồn tâm, nên nói cũng như thế, tánh tướng đều như nhau. Bệnh chấp ngã diệt rồi thì tâm được giải thoát vô ngại, do phá chấp mới ngộ được nguồn tâm. Như đoạn trên đã nói, ngay nơi bốn uẩn, thọ tưởng hành thức nếu phá chấp và nhận được nguồn tâm thì tất cả đều như thế, tức là đều trở về nguồn tâm. Tánh tướng đều rõ ràng không còn riêng rẽ đây là tánh kia là tướng, mà tánh tướng đều trở về một nguồn.

Xá-lợi Tử

   Nói “Xá” luận thân tướng, 

   “Lợi” chỉ hạt giống tâm, 

   Bồ-tát sức trí tuệ,

   Bốn tướng chẳng cho xâm. 

   Đạt đạo lìa chấp nhân, 

   Thấy tánh pháp không lời, 

   Các lậu thảy đều đoạn,

   Toàn thể là vàng ròng.

Nói “Xá” luận thân tướng, “Lợi” chỉ hạt giống tâm, Bồ-tát sức trí tuệ, bốn tướng chẳng cho xâm. Chữ Xá là chỉ cho tướng của thân, chữ Lợi là nói về hạt giống của tâm, Xá-lợi là chỉ cho thân tâm. Bồ-tát với sức trí tuệ không để bốn tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả xâm nhập.

Đạt đạo lìa chấp nhân, thấy tánh pháp không lời, các lậu thảy đều đoạn, toàn thể là vàng ròng. Người đạt đạo thì không còn chấp ngã, người thấy tánh thì không còn chấp pháp. Không còn mắc kẹt ngã pháp thì sạch hết các lậu, khắp thân là vàng ròng. Như vậy nếu chúng ta nhận ra bản tánh là đạt đạo, hoàn toàn trở về người chân thật của chính mình, con người chân thật ở đây gọi là chân kim.

Thị chư pháp không tướng

   Chư Phật nói pháp không, 

   Thanh văn chấp tướng cầu, 

   Tìm kinh kiếm lẽ đạo,

   Ngày nào học dứt tâm?

   Viên thành tướng chân thật,

   Đốn ngộ bỏ tâm tu,

   Thênh thang vượt pháp giới,

   Tự tại lại lo gì?

Chư Phật nói pháp không, Thanh văn chấp tướng cầu, tìm kinh kiếm lẽ đạo, ngày nào học dứt tâm? Chữ không Phật nói trong kinh Bát-nhã không phải là chữ không đối đãi với chữ có. Hàng Nhị thừa không hiểu cứ chạy tìm cái tướng không, như vậy dù có tìm trong kinh để đạt đạo lý thì tìm hoài cũng không ra, không biết ngày nào tâm hết loạn. Vì thấy đây là không kia là có, nên nghe nói chư pháp không tướng rồi tưởng những cái có hình tướng là có, còn hư không không tướng mạo là không. Không đối với có. Hiểu như vậy là không hiểu ý Phật nói chữ Không trong kinh Đại thừa.

Viên thành tướng chân thật, đốn ngộ bỏ tâm tu, thênh thang vượt pháp giới, tự tại lại lo gì? Tánh viên thành chân thật, là chữ không của kinh Đại thừa. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, tổ Mã Minh có chia ra trong Như Lai tàng có Như thật không và Như thật bất không. Chữ không ở đây là chỉ cho Như thật không. Nghĩa là kho tàng Như Lai không có tất cả pháp sanh diệt, cho nên nói là không tướng. Không tướng là không có tất cả pháp sanh diệt, chứ không phải không có cái kho tàng Như Lai, cũng không phải là cái tướng của hư không. Ở đây Tổ nói chữ không là chỉ cho cái tướng viên thành chân thật của Như Lai tạng. Nếu sớm thấy được thì không có gì phải tu hành, vượt ngoài tất cả pháp giới, tự tại không còn gì ngăn ngại.

Như vậy ngài nói cái tướng không của các pháp là chỉ cho tánh viên thành thật của tất cả. Tánh viên thành thật ly khai biến kế sở chấp và y tha khởi, vượt ngoài các pháp sanh diệt. Nên nói chẳng sanh chẳng diệt, chẳng cấu chẳng tịnh, chẳng tăng chẳng giảm. Vì pháp thân từ xưa tới nay không sanh không diệt nên không tướng, pháp thân trùm khắp nên không tăng không giảm, pháp thân thường hằng nên chẳng còn chẳng mất.

Bất sanh bất diệt

   Thể Lô-xá thanh tịnh,

   Không tướng xưa nay chân,

   Như hư không trùm khắp,

   Muôn kiếp thể trường tồn.

   Chẳng chung cũng chẳng riêng, 

   Không cũ cũng không mới, 

   Hòa trần thể không nhiễm,

   Ba cõi một mình tôn.

Thể Lô-xá thanh tịnh, không tướng xưa nay chân, như hư không trùm khắp, muôn kiếp thể trường tồn. Thể Lô-xá-na là chỉ cho pháp thân luôn luôn thanh tịnh, không tướng mạo nên xưa nay là chân thật. Bởi có tướng nên có sanh diệt, tướng hợp thì gọi là sanh, tướng tan thì gọi là diệt. Nhưng pháp thân thanh tịnh không tướng nên không sanh không diệt, rỗng rang trùm khắp muôn kiếp vẫn còn, mãi mãi không mất.

Chẳng chung cũng chẳng riêng, không cũ cũng không mới, hòa trần thể không nhiễm, ba cõi một hình tôn. Pháp thân vượt trên đối đãi, không chung không riêng, không cũ không mới. Thể thanh tịnh như ánh sáng hòa với bụi bặm mà không bị bụi bặm làm ô nhiễm, trong tam giới này không có gì quý bằng pháp thân.

Vậy pháp thân có theo chúng ta vào luân hồi không? Đứng về mặt pháp thân thì nói là không. Nhưng đứng về mặt hòa quang đồng trần thì gọi là có. Hòa quang đồng trần là ánh sáng hòa vào trong bụi bặm. Ngay trong thân có cả hai quang và trần. Tứ đại là trần, thể tánh thanh tịnh không bị ô nhiễm là quang. Như vậy đứng về mặt hòa quang đồng trần thì cũng vẫn theo nhau vào luân hồi. Còn đứng về mặt pháp thân thì thể thanh tịnh chưa từng sanh tử, chưa từng đi đâu hết, nói gì là luân hồi. Chỗ này các thiền sư có khi nói luân hồi, có khi nói không luân hồi đều đúng không sai.

Bất cấu bất tịnh

   Chân như vượt ba cõi,

   Nhơ sạch xưa nay không,

   Đức Phật khởi phương tiện,

   Thuyết tế cùng nói thô,

   “Không giới” không pháp có,

   Thị hiện rõ một vầng,

   Xưa nay không một vật,

   Hà huống lập hai bên.

Chân như vượt ba cõi, nhơ sạch xưa nay không, đức Phật khởi phương tiện, thuyết tế cùng nói thô. Đoạn trên đã nói thể Lô-xá-na hay viên thành thật hay chân như đều chỉ cho tướng không của các pháp, siêu vượt ngoài ba cõi thì còn gì nói cấu tịnh, nên nói nhơ sạch xưa nay không. Nhưng sở dĩ đức Phật nói nhơ sạch là đứng về phương tiện mà nói, khi thì ngài nói thô khi thì nói tế vậy thôi.

“Không giới” không pháp có, thị hiện rõ một vầng, xưa nay không một vật, hà huống lập hai bên. Không giới là cái Không Như Lai tàng. Như trước đã nói cái không đó là không có tất cả pháp sanh diệt chứ không phải không có cái kho tàng Như Lai. Khi không còn các pháp sanh diệt thì kho tàng Như Lai hiện ra như một vầng trăng sáng rỡ giữa hư không. Đã không có một vật thì nói gì là hai thứ nhơ sạch.

Tóm lại, thể chân như vượt ngoài tam giới, sáng rỡ như vầng trăng không mây, xưa nay không một vật, huống là có hai thứ sạch nhơ.

Bất tăng bất giảm

   Thể Như Lai không tướng, 

   Tràn đầy khắp hư không, 

   Trên không khó lập có, 

   Trong có chẳng thấy không. 

   Xem tợ trăng trong nước, 

   Nghe như gió bên tai,

   Pháp thân nào tăng giảm,

   Ba cõi gọi “chân không”.

Thể Như Lai không tướng, tràn đầy khắp hư không, trên không khó lập có, trong có chẳng thấy không. Thể Như Lai vô tướng không thêm không bớt. Bởi vô tướng nên trùm khắp mười phương hư không. Trên hư không khó mà an lập có, nên nói trong cái có chẳng thấy được cái không.

Xem tợ trăng trong nước, nghe như gió bên tai, pháp thân nào tăng giảm, ba cõi gọi chân không. Đứng về mặt pháp thân mà nhìn các pháp ở thế gian thì chẳng khác nào nhìn thấy mặt trăng trong nước hay nghe gió thoảng bên tai, không có gì thật hết. Bởi vì đối với pháp thân thì tất cả pháp thế gian đều là hư giả không làm ô nhiễm được. Pháp thân đầy khắp thì làm sao nói tăng nói giảm, cho nên ba cõi gọi là chân không. Sao gọi là chân không? Vì tam giới là huyễn hóa không thật, chỉ có pháp thân là thanh tịnh chân thật.

Tóm lại, chữ không tướng trong kinh Bát-nhã là chỉ cho pháp thân chứ không phải là cái tướng trống rỗng. Tướng không đó không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt, trùm khắp tất cả pháp trong tam giới không làm nhiễm ô được nó.

Thị cố không trung

   Bồ-đề không ở ngoài,

   Trung gian tìm cũng khó,

   Chẳng tướng chẳng chẳng tướng,

   Lượng xét mất cơ quan.

   Thế giới chẳng thế giới,

   Tam thân chiếu tứ thiên,

   Xưa nay không chướng ngại,

   Chỗ nào có ngăn che?

Bồ-đề không ở ngoài, trung gian tìm cũng khó, chẳng tướng chẳng chẳng tướng, lượng xét mất cơ quan. Ngoài tâm không có Bồ-đề, nên nói Bồ-đề không ở ngoài, không ở ngoài thì chặng giữa tìm cũng khó. Vì Bồ-đề không có tướng nên không ở trong ở ngoài cũng không ở chặng giữa. Vì vậy nói thị cố không trung (thế nên trong cái không đó) chỉ là lối nói tạm thời, chúng ta đừng lầm chữ ở trong rồi đặt ra ở ngoài đối đãi. Chỗ chân thật không có tướng cũng chẳng phải không tướng, tức là không tướng mà chẳng phải không ngơ. Tuy nhiên nếu còn để tâm lượng xét thì đã mất chỗ thiết yếu.

Thế giới chẳng thế giới, tam thân chiếu tứ thiên, xưa nay không chướng ngại, chỗ nào có ngăn che? Thế giới không thật, người thấy được như vậy thì trí tuệ chiếu soi khắp tứ thiên. Tam quang là chỉ cho ba thứ ánh sáng của ba thân Phật: pháp thân, báo thân, hóa thân. Khi thấy rõ thế giới này không thật thì ánh sáng của ba thân Phật chiếu khắp bốn cõi trời. Tự tánh thanh tịnh xưa nay không chướng ngại, rộng lớn thênh thang, chúng ta không nên mắc kẹt vào sự đối đãi trong ngoài, không nên đem tâm dính mắc lượng xét, nếu còn lượng xét thì bị ngăn che.

Vô sắc, vô thọ tưởng hành thức

   Không sắc xưa nay không, 

   Không thọ tưởng cũng đồng, 

   Hành thức không mà có,

   Có hết lại về không.

   Chấp có thật chẳng có,

   Y không lại kẹt không,

   Sắc không tâm lìa hết,

   Thế mới được thần thông.

Không sắc xưa nay không, không thọ tưởng cũng đồng, hành thức không mà có, có hết lại về không. Sắc không thật, chỉ có giả tướng nên nói xưa nay không. Không thọ thì tưởng cũng không. Hành và thức thì thầm kín không tướng mạo, khó nhận thấy nên tưởng như không có, nhưng sự thật nó sanh diệt tương tục nên nói không mà có, do đó khi tướng sanh diệt lặng rồi thì hết có lại về không.

Chấp có thật chẳng có, y không lại kẹt không, sắc không tâm lìa hết, thế mới được thần thông. Chỗ này là chỗ khó hiểu khó nhận. Nếu chấp có thì thật là chẳng có. Vì sao? Vì tất cả pháp đều là hư giả mà chấp thật có là lầm. Khi chấp thật có thì cái có đó không phải là thật rồi! Nếu chúng ta bám vào không, cho tất cả pháp là không ngơ thì rơi vào chấp không. Chấp có chấp không đều là bệnh, tâm hết chấp thì mới được thần thông. Giả sử trong một giờ mà chúng ta không chấp thì giờ đó tâm thong dong tự tại.

Vô nhãn nhĩ tỹ thiệt thân ý

   Sáu căn không tự tánh,

   Theo tướng đặt bày thôi,

   Mắt tại theo thanh sắc, 

   Nhân ngã lưỡi đùa chơi, 

   Mũi hoặc phân thơm thối,

   Thân ý trái dục tình,

   Sáu chỗ tham ái đoạn,

   Muôn kiếp hết luân hồi.

Sáu căn không tự tánh, theo tướng đặt bày thôi, mắt tại theo thanh sắc, nhân ngã lưỡi đùa chơi. Trước đã nói không có năm uẩn, đến đây nói không có sáu căn là mắt tai mũi lưỡi thân ý. Sáu căn này không thật. Vì sao? Vì căn cứ tánh chân như thanh tịnh mà nhìn thấy sáu căn như trăng trong nước, như hoa đốm trong hư không, hư giả không thật, duyên theo tướng bên ngoài mà bày đặt ra. Sắc chia ra có dài ngắn vuông tròn rồi mắt chạy theo tướng sắc. Tai nghe là nghe tiếng vọng chứ không có gì thật. Lưỡi dối nói đây là ta kia là người, là nói đùa vậy thôi.

Mũi hoặc phân thơm thối, thân ý trái dục tình, sáu chỗ tham ái đoạn, muôn kiếp hết luân hồi. Mũi ngửi mùi thơm thì thích, hội thì không ưa. Thân ý và dục tình trái nhau. Tại sao trái? Vì không ai trên đời này muốn gì đều được như ý. Giả sử một người nghèo muốn có tiền. Có tiền rồi muốn có nhà lầu xe hơi. Có tiền, nhà lầu xe hơi rồi muốn có danh vọng. Khi được đầy đủ thì muốn đừng chết, sống hoài để hưởng thụ. Mong muốn nhiều mà không bao giờ được như ý. Ở thế gian này không ai hoàn toàn thỏa mãn theo ý thích của mình. Không thỏa mãn là đau khổ, nên nói thân ý mong muốn trái với tâm tình của mình.

Thử kiểm lại xem những điều chúng ta đeo đuổi ưa thích, nên phải giành giật với nhau khiến cho đau khổ, có cái gì ngoài sự đòi hỏi của sáu căn? Giành ăn là vì cái lưỡi, giành đồ đẹp là vì con mắt, giành nghe những lời nói hay là vì lỗ tai, giành những xúc chạm ưa thích là vì thân, thỏa mãn ý muốn của mình là do ý. Tất cả những đau khổ ở thế gian này là do sáu căn, nó là manh mối dẫn giặc về cướp hết sự nghiệp của mình, khiến chúng ta lang thang trôi giạt thành kẻ bần cùng khốn khổ. Nếu ngay nơi sáu căn mà cắt đứt tham ái thì dòng luân hồi chấm dứt. Điều này ai cũng làm được, ai cũng có quyền dứt bỏ tham ái để giải thoát, chỉ tại chúng ta chưa chịu làm mà thôi, giải thoát không dành riêng cho ai. Không chịu dứt bỏ mà còn nuôi dưỡng thì đương nhiên phải luân hồi. Nếu sáu căn không tham ái sáu trần thì giải thoát tự tại. Cho nên nói vô nhãn nhĩ tỹ thiệt thân ý.

Chữ vô ở đây là chỉ cho tánh không, căn cứ trên tánh không thì không có năm uẩn, sáu căn, vì nó không thật, không thật thì tham ái cái gì. Còn tham ái là còn nô lệ cho sáu căn, còn phải lo thỏa mãn cho sự đòi hỏi của mắt tai mũi lưỡi... thì đời đời bôn tẩu không dừng. Nếu không nô lệ sáu căn thì chúng ta tự tại cười hoài, tới bữa ăn có rau luộc chấm nước tương cũng tốt, không khen chê đòi hỏi gì cả. Sống được như vậy thì chấm dứt luân hồi sanh tử.

Vô sắc thanh hương vị xúc pháp

   Chứng trí không thanh sắc, 

   Hương vị xúc khác gì,

   Sáu trần từ vọng khởi, 

   Tâm phàm tự lầm nghi.

   Sanh tử thôi sanh tử,

   Khi ấy chứng Bồ-đề,

   Pháp tánh không, không trụ,

   Chỉ sợ ngộ chậm thôi.

Ở trước nói không năm uẩn sáu căn là nói về thân, đến đây nói vô sắc thanh hương vị xúc pháp là sáu trần không thật, tức là cảnh không thật.

Chứng trí không thanh sắc, hương vị xúc khác gì, sáu trần từ vọng khởi, tâm phàm tự lầm nghi. Người chứng được căn bản trí thì không còn thấy thanh sắc là thật. Thanh sắc không thật thì hương vị xúc cũng giả dối. Sáu trần hư vọng mà tâm phàm phu lại mê lầm đuổi theo.

Sanh tử thôi sanh tử, khi ấy chứng Bồ-đề, pháp tánh không, không trụ, chỉ sợ ngộ chậm thôi. Khi chứng được căn bản trí thấy rõ sáu trần là hư vọng, không còn nghi lầm chạy theo. Ở trong sanh tử mà dừng được sanh tử, ngay đó là giác ngộ. Trong cái sanh diệt hư vọng mà chúng ta dừng được tâm sanh diệt là giác ngộ. Khi ấy mới thấy pháp tánh không dừng trụ nơi nào, chỉ chúng ta ngộ chậm mà thôi.

Tóm lại Tổ dạy thấy sáu căn không thật thì dứt luân hồi, thấy sáu trần không thật thì ngộ đạo. Cho nên tôi thường khuyên quý vị nhìn ra thấy sáu trần không thật, nhìn vào thấy sáu căn không thật, vọng tưởng không thật, tứ đại không thật. Đó là chỗ thiết yếu tu hành để chấm dứt sanh tử luân hồi.

Vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới

   Sáu thức từ vọng khởi,

   Y tha tánh tự khai,

   Mắt tại cùng thân ý,

   Ai có thể đo lường?

   Mũi lưỡi hành điên đảo, 

   Tâm vương khiến quay về,

   Không lâu nơi sáu thức,

   Đốn ngộ hướng Như Lai.

Vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới, là không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới. Tức là sáu căn, sáu trần, sáu thức đều không thật có.

Sáu thức từ vọng khởi, y tha tánh tự khai, mắt tại cùng thân ý, ai có thể đo lường? Sáu thức đều do vọng tưởng khởi. Sáu thức này nương nơi sáu trần làm duyên mới có phân biệt nên nói y tha tánh tự khai. Mắt tai cùng thân ý là chỉ cho sáu căn. Sáu thức đã không thật, sáu căn cũng không thật thì ai có thể đo lường.

Mũi lưỡi hành điên đảo, tâm vương khiến quay về, không lâu nơi sáu thức, đốn ngộ hướng Như Lai. Mũi lưỡi là đại diện cho sáu căn. Sáu căn điên đảo chạy theo sáu trần khởi ra thức phân biệt không thật. Bởi không thật nên dùng tâm vương kéo sáu thức trở lại không cho chạy theo sáu trần, thì từ nơi sáu thức mà đốn ngộ trở về tự tánh Như Lai.

Ở đây nói mười tám giới nhưng Tổ chỉ giải thích về sáu thức. Bởi vì trước đã nói sáu căn sáu trần, bây giờ nói về sáu thức. Sáu thức xét kỹ đều là hư vọng, là biến kế và y tha khởi chứ không có thật.

Vô vô minh diệc vô vô minh tận nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận

   Mười hai nhân duyên có,

   Có sanh, lão liền theo,

   Có thân, vô minh đến,

   Hai tướng cùng sánh đôi. 

   Thân diệt, vô minh hết,

   Quả báo chẳng hẹn kỳ, 

   Biết thân như huyễn hóa,

   Gấp gấp ngộ vô vi.

Mười hai nhân duyên có, có sanh lão liền theo, có thân vô minh đến, hai tướng cùng sánh đôi. Căn cứ vào tánh chân như thì mười hai nhân duyên cũng là huyễn hóa không thật. Trong các kinh A-hàm, Phật dạy mười hai nhân duyên để hàng Nhị thừa theo đó mà tu hành được giác ngộ gọi là Duyên giác. Ở đây Tổ giải thích nếu nói mười hai nhân duyên là có thì sanh và lão liền theo; có lão thì có tử, có tử thì có sanh; có sanh tức có thân, mà có thân thì có vô minh; hai cái đó không rời nhau. Cái này có thì cái kia có.

Thân diệt vô minh hết, quả báo chẳng hẹn kỳ, biết thân như huyễn hóa, gấp gấp ngộ vô vi. Thân hết thì vô minh hết, không thân thì không có quả báo. Cho nên nếu biết thân huyễn hóa không thật thì hết vô minh, chóng ngộ được pháp vô vi.

Tóm lại, theo quan niệm của tổ Đạt-ma thì mười hai nhân duyên cũng không thật có, nếu thấy mười hai nhân duyên là thật có thì còn vô minh.

Vô khổ tập diệt đạo

   Tứ đế hưng ba cõi,

   Đốn giáo nghĩa rõ ràng, 

   Khổ đoạn tập đã diệt,

   Thánh đạo tự nhiên thành.

   Thanh văn dừng vọng tưởng,

   Duyên giác ý an bình,

   Muốn biết chỗ thành Phật,

   Trên tâm chớ giữ dừng.

Tứ đế hưng ba cõi, đốn giáo nghĩa rõ ràng, khổ đoạn tập đã diệt, thánh đạo tự nhiên thành. Tứ đế là nguyên nhân có ra ba cõi, bởi vì trong tứ đế có chia ra nhân quả thế gian và nhân quả xuất thế gian. Khổ đế tập đế là nhân quả thế gian, diệt đế đạo đế là nhân quả xuất thế gian. Có nhân quả thế gian và xuất thế gian là có niệm tam giới, nên nói tứ để làm nên tam giới. Nếu chúng ta theo đốn giáo thì nghĩa rất rành rẽ. Vì theo đốn giáo thì khổ không thật, tập đế cũng không thật. Nên nói khổ diệt thì tập đế cũng không còn. Khổ đế tập đế diệt hết thì thành thánh đạo.

Thanh văn dừng vọng tưởng, Duyên giác ý an bình, muốn biết chỗ thành Phật, trên tâm chớ giữ dừng. Hàng Thanh văn dứt vọng tưởng cho tâm yên lặng, chìm trong cái tịch mịch. Hàng Duyên giác thì ý được yên ổn. Nhưng hai vị đó vẫn còn kìm tâm. Người nào muốn hiểu Phật đạo thì không dùng phương pháp kìm để dừng tâm.

Nhưng nếu không kìm để tâm ý chạy lung tung thì sao? Tôi xin nhắc lại để quý vị biết mà ứng dụng tu. Giả sử khi nhìn cái đồng hồ, biết đồng hồ là huyễn hóa, nhìn cái gì cũng biết là huyễn hóa hết thì cười hoài không có gì buồn. Thân này huyễn hóa thì tất cả các pháp cũng huyễn hóa. Thấy rõ ràng như vậy thì không có gì phải kìm. Tất cả pháp đều huyễn hóa thì duyên cái gì, chạy đi đâu? Sở dĩ khi thấy cảnh thấy người cho là thật nên tâm duyên theo, nếu biết tất cả pháp không thật thì không có gì phải kìm, đó là cái thấy tỉnh sáng. Cho nên khi tu chúng ta phải hiểu rõ, không buông thả tâm ý chạy theo cảnh, cũng không kìm tâm để dừng vọng tưởng, mà chỉ cần nhìn thấy tất cả pháp đều là huyễn hóa thì tâm an ổn.

Vô trí diệc vô đắc

   Pháp gốc chẳng phải không,

   Trí tuệ khó xét lường,

   Tâm hoan hỷ, ly cấu,

   Phát quang khắp mười phương.

   Nan thắng, hiện tiền địa,

   Viễn hành đại đạo tràng,

   Bất động qua bờ ấy,

   Thiện tuệ, pháp trung vương.

Ở trước đã phá ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới là phá cái mê lầm của phàm phu, phá mười hai nhân duyên là phá cái lầm của Duyên giác, phá tứ đế là phá cái lầm của Thanh văn. Bồ-tát âm tiếng Phạn là Bồ-đề-tát-đỏa (Bodhisattva), Trung Hoa dịch là hữu tình giác hay giác hữu tình. Bồ-tát nặng về trí tuệ, nên nói tới Bồ-tát là nói tới trí tuệ giác. Ở đây nói vô trí diệc vô đắc để phá cái chấp của Bồ-tát, nghĩa là không có Bồ-tát thật cũng không được quả vị Bồ-tát.

Pháp gốc chẳng phải không, trí tuệ khó xét lường, tâm hoan hỷ, ly cấu, phát quang khắp mười phương. Pháp gốc là chỉ cho pháp thân thanh tịnh, pháp gốc chẳng phải không, nhưng dùng trí tuệ để lường xét thì không thể được. Hoan hỷ là Sơ địa Bồ-tát, Ly cấu là Nhị địa Bồ-tát. Phát quang là Phát quang địa là Tam địa Bồ-tát. Đến địa vị này thì soi sáng khắp cả mười phương.

Nan thắng, hiện tiền địa, viễn hành đại đạo tràng, bất động qua bờ ấy, thiện tuệ, pháp trung vương. Ở đây thiếu Diệm tuệ địa là Tứ địa Bồ-tát. Thứ năm là Nan thắng địa, thứ sáu là Hiện tiền địa, thứ bảy là Viễn hành địa. Thứ tám Bất động địa là siêu việt đến bờ kia. Thứ chín là Thiện tuệ địa. Thứ mười là Pháp vương địa hoặc Pháp vân địa, còn gọi Pháp trung vương tức là vua trong các pháp.

Tóm lại, pháp bổn là chỉ cho pháp thân. Pháp thân này chẳng phải không, nhưng dùng trí tuệ để lường xét thì không thể được. Chỉ có Bồ-tát từ Sơ địa đến Thập địa mới từ từ nhận ra pháp thân. Đến Thập địa là sắp được viên mãn. Nếu còn chấp có trí có đắc là còn dùng trí tuệ lường xét, mà còn lường xét thì không thể thấy được pháp thân. Như vậy là đã phá hết cái chấp của phàm phu và thánh hiền.

Dĩ vô sở đắc cố

   Thể tịch diệt không được, 

   Chân không chẳng níu vin, 

   Xưa nay không tướng mạo, 

   Phương tiện lập ba đàn. 

   Tứ trí mở pháp dụ,

   Lục độ cửa tạm thôi,

   Hàng tam thừa, thập địa,

   Chúng thánh khó nghĩ bàn.

Thể tịch diệt không được, chân không chẳng níu vin, xưa nay không tướng mạo, phương tiện lập ba đàn. Thể tịch diệt hay pháp thân thanh tịnh không có tướng mạo nên không có gì để được. Tánh chân không thì bặt dứt tâm vin theo, nhưng phương tiện quyền biến tạm lập ba bậc gọi là tam thân.

Tứ trí mở pháp dụ, lục độ cửa tạm thôi, hàng tam thừa, thập địa, chúng thánh khó nghĩ bàn. Tứ trí là một lối mở ra Ví dụ về pháp. Lục độ là phương tiện dẫn đường vào cửa. Hàng tam thừa và thập địa trở xuống muốn lượng xét pháp thể tịch diệt rất khó. Vì pháp thể không tướng mạo, không năng sở, không thể nắm bắt, không có chỗ được, cho nên nói Vô sở đắc.

Bồ-đề-tát-đỏa

   Phật đạo thật khó biết,

   Bồ-tát là phàm phu,

   Chúng sanh muốn thấy tánh,

   Kính Phật chớ phụ tâm.

   Trong đời thiện tri thức,

   Nói bàn pháp tế thô,

   Đốn ngộ tâm bình đẳng,

   Trong đây chấp tướng trừ.

Phật đạo thật khó biết, Bồ-tát là phàm phu, chúng sanh muốn thấy tánh, kính Phật chớ phụ tâm. Phật đạo là chỗ chân thật khó biết. Bồ-tát là phàm phu. Tại sao vậy? Vì Bồ-đề-tát-đỏa dịch là hữu tình giác hay giác hữu tình. Hữu tình tức là phàm phu. Phàm phu mà an phận trôi theo dòng luân hồi thì gọi là phàm phu, phàm phu mà giác ngộ bản tâm đó là Bồ-tát. Phàm phu muốn thấy tánh thì không phải chỉ trông cậy vào đức Phật bên ngoài, phải ngay tâm mình mà thấy.

Trong đời thiện tri thức, nói bàn pháp tế thô, đốn ngộ tâm bình đẳng, trong đây chấp tướng trừ. Những vị thiện tri thức ở thế gian nói bàn về các pháp khi thì tế khi thì thô. Còn người đốn ngộ được tâm bình đẳng thì hết chấp tướng, không cần phải nói bàn gì cả.

Y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố

   Bát-nhã ấy trí tuệ,

   Ba-la không chỗ nương, 

   Tâm không tánh rộng lớn, 

   Trong ngoài thảy vô vi. 

   Tánh không biện vô ngại,

   Ba cõi hiếm ai bì,

   Ngộ lớn sáng đại pháp,

   Khen ngợi bất tư nghì.

Bát-nhã là trí tuệ, ba-la không chỗ nương, tâm không tánh rộng lớn, trong ngoài thảy vô vi. Bát-nhã là trí tuệ, ba-la là không chỗ nương. Tâm không thì tánh được rộng lớn, trong ngoài thảy đều vô vi.

Tánh không biện vô ngại, ba cõi hiếm ai bì, ngộ lớn sáng đại pháp, khen ngợi bất tư nghì. Khi đạt được tánh không thì được biện tài vô ngại. Nhưng ở trong ba cõi, người đạt được tánh không rất hiếm có. Ngộ lớn là nhận ra pháp thể rộng lớn. Pháp thể rộng lớn chính là tánh không vô ngại. Nhận được tánh không vô ngại, nên mới khen ngợi pháp thể là bất tư nghì.

Tâm vô quái ngại

   Giải thoát tâm không ngại, 

   Ý tợ như thái hư,

   Bốn phương không một vật, 

   Trên dưới thảy đều đồng. 

   Qua lại tâm tự tại,

   Nhân pháp chẳng tương can,

   Hỏi đạo đừng thấy vật,

   Mặc nhiên thoát lồng phiền.

Giải thoát tâm không ngại, ý tợ như thái hư, bốn phương không một vật, trên dưới thảy đều đồng. Tâm vô quái ngại là tâm giải thoát, không còn ngăn ngại, tâm ý rộng lớn thênh thang như hư không, bốn phía trên dưới đều rỗng rang, cho nên nói đều không một vật.

Qua lại tâm tự tại, nhân pháp chẳng tương can, hỏi đạo đừng thấy vật, mặc nhiên thoát lồng phiền. Qua lại tâm đều tự tại, nhân pháp không còn dính dáng. Nếu hỏi đạo thì không thấy có một vật, vượt qua khỏi phiền não gọi là tâm vô quái ngại.

Vô quái ngại cố vô hữu khủng bố

   Sanh tử tâm lo sợ,

   Vô vi tánh tự an,

   Cảnh quên tâm cũng diệt, 

   Biển tánh lặng thênh thang. 

   Ba thân về tịnh độ,

   Tám thức lìa nhân duyên,

   Sáu thông theo thật tướng,

   Về gốc trở lại nguồn.

Sanh tử tâm lo sợ, vô vi tánh tự an, cảnh quên tâm cũng diệt, biển tánh lặng thênh thang. Sanh tử là điều mà con người kinh sợ. Sở dĩ chúng ta sợ là vì còn ở trong sanh tử, nếu đạt tánh vô vi thì tự nhiên an nhàn. Quên cảnh thì tâm cũng theo đó mà hết, đối cảnh biết là không thật thì tâm duyên cảnh không còn, biển tánh lặng lẽ mênh mông.

Ba thân về tịnh độ, tám thức lìa nhân duyên, sáu thông theo thật tướng, về gốc trở lại nguồn. Khi tâm không chạy theo cảnh bên ngoài, không theo vọng tưởng bên trong thì không còn kinh sợ. Do không kinh sợ nên ba thân hằng ở trong tịnh độ, tám thức không theo cảnh duyên. Chứng được thật tướng nên liền được sáu thần thông tự tại. Đó là trở về nguồn cội của chính mình.

Viễn ly điên đảo mộng tưởng

   Hai bên trọn chớ lập, 

   Trung đạo đừng tâm tu, 

   Thấy tánh hết sanh tử, 

   Bồ-đề không chỗ cầu.

   Ngoài thân tìm Phật thật, 

   Điên đảo một đời thôi, 

   Ngồi yên thân an lạc, 

   Quả vô vi khắp nơi.

Hai bên trọn chớ lập, trung đạo đừng tâm tu, thấy tánh hết sanh tử, Bồ đề không chỗ cầu. Muốn xa lìa mộng tưởng điên đảo thì đừng kẹt vào hai bên, không dấy niệm tưởng trung đạo mới kiến tánh và thoát ly sanh tử, Bồ-đề chẳng cần cầu mà tự đến.

Ngoài thân tìm Phật thật, điên đảo một đời thôi, ngồi yên thân an lạc, quả vô vi khắp nơi. Ngoài thân tìm Phật thật thì chỉ điên đảo một đời thôi. Ngay nơi thân mình ngồi lại tâm yên lặng an ổn thì quả vô vi tự đến không cần tìm ở đâu xa.

Cứu cánh Niết-bàn

   Vô sanh tức cứu cánh, 

   Thanh tịnh ấy Niết-bàn, 

   Phàm phu chớ lường thánh,

   Chưa đến thật khó bàn.

   Hữu học cùng vô học,

   Trí Phật càng sâu mầu,

   Lý vô tâm cốt hội,

   Chớ chấp dứt nguồn tâm.

Vô sanh tức cứu cánh, thanh tịnh ấy Niết-bàn, phàm phu chớ lường thánh, chưa đến thật khó bàn. Niết-bàn là chỉ cho tâm thể thanh tịnh, chỗ này phàm phu khó mà lường được. Người chưa đến quả thánh hay chưa chứng Niết-bàn thì cũng khó biết được cảnh giới Niết-bàn.

Hữu học cùng vô học, trí Phật càng sâu mầu, lý vô tâm cốt hội, chớ chấp dứt nguồn tâm. Hàng hữu học và vô học đối với trí tuệ Phật, thấy rất là sâu xa huyền diệu. Người tu cốt nhận ra lý vô tâm, nhưng khi nhận được lý vô tâm không nên lầm tưởng vô tâm là phải dứt nguồn tâm.

Đây là chỗ người tu phần nhiều mắc kẹt. Chúng ta cứ nghĩ rằng kìm chế được vọng tưởng là trở về nguồn, nhưng sự thật dứt vọng tưởng chưa chắc là đã trở về nguồn. Nhiều người cho rằng dứt vọng thì chân, nhưng khi dứt vọng tưởng rồi không biết cái gì là chân. Cho nên phải nhận ra nguồn tâm thì mới trở về nguồn. Ví dụ có một chén nước đục, chúng ta biết trong nước đục có nước trong, nên để yên cho nước từ từ lắng xuống. Khi phần đục lắng xuống, chúng ta lọc nước trong riêng ra để dùng. Vì biết trong nước đục có nước trong nên chúng ta mới chịu khó lọc. Nếu không biết trong nước đục có nước trong, bảo lóng bỏ phần đục dơ họ sẽ chán, chỉ muốn hất đổ chén nước vì nghĩ rằng nước dơ không dùng được.

Cũng vậy, trong lúc dụng công tu chúng ta phải nhận ra bản tánh. Khi vọng tưởng hết bản tánh hiện tiền. Nếu không nhận ra bản tánh, khi hết vọng tưởng chúng ta không biết ngay đó là gì. Tuy nhiên khi hết vọng tưởng rồi không phải ai cũng giống nhau. Có người hết vọng tưởng, nhận ra bản tánh thì ngay đó an vui. Có người khi hết vọng tưởng không nhận ra bản tánh liền hoảng hốt, không biết phải làm sao, nên chán nản không muốn tu.

Ở đây nói cứu cánh Niết-bàn để chỉ cho chúng ta khi tu phải nhận được lý vô tâm là trở về nguồn tâm, chứ không phải dứt bỏ tâm. Chúng ta phải hiểu rành rẽ để ứng dụng tu không lầm lẫn.

Tam thế chư Phật

   Quá khứ không lời thật,

   Vị lai chẳng phải chân, 

   Hiện tại mầm giác ngộ, 

   Không pháp cửa diệu huyền.

   Ba thân đồng về một,

   Một tánh biến khắp thân,

   Đạt lý ba thời mất,

   Một pháp cũng không nhân.

Quá khứ không lời thật, vị lai chẳng phải chân, hiện tại mầm giác ngộ, không pháp cửa diệu huyền. Theo quan niệm của ngài quá khứ đã qua nên không thật, vị lai chưa đến cũng không thật, chỉ có giác ngộ ngay nơi hiện tại. Tại sao nói hiện tại là mầm giác ngộ? Hiện tại là chỉ cho hiện tiền tâm thể của chúng ta không lúc nào thiếu vắng. Nếu tâm vắng mặt thì chết mất rồi! Nhưng thật sự tâm thể không một phút giây nào vắng mặt, nếu vắng mặt thì những niệm sanh diệt chỗ đâu mà trú. Cũng như cái nhà kho mà bị đốt cháy thì những đồ đạc biết để vào đâu. Thành ra cái tâm thể hiện tiền của chúng ta không bao giờ vắng mặt, lỗi tại chúng ta vô tình bội bạc với y. Cái không hề thiếu vắng mà người không biết là bội bạc chứ gì! Bây giờ nếu trong tâm chúng ta không nghĩ quá khứ vị lai, không chạy theo sự vật thì lúc đó giác ngộ hiện tiền nên nói hiện tại là hạt giống giác ngộ, không pháp là cửa diệu huyền.

Ba thân đồng về một, một tánh biến khắp thân, đạt lý ba thời mất, một pháp cũng không nhân. Ba thân đồng về một thể tánh, một tánh trùm khắp hết cả thân. Người đạt lý này rồi thì thấy ba thời quá khứ hiện tại vị lai là không thật. Ba thời không thật, một pháp không thật, không có nhân nào thật cả. Ở đây Tổ muốn chỉ cho chúng ta ngay trong hiện tại, sống với phút giây hiện tại đừng bao giờ bỏ quên.

Tóm lại, ba thời không thật nhưng vì muốn chỉ cho chúng ta sống với hiện tiền nên Tổ nói hiện tại là hạt giống giác ngộ. Người đạt lý rồi thì thấy ba thời đều không thật, là con người giác ngộ.

Y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-bồ-đề.

   Trí Phật sâu khó lường, 

   Tuệ giải rộng vô biên, 

   Tâm vô thượng biến khắp, 

   Từ quang chiếu đại thiên.

   Tâm tịch diệt khéo léo, 

   Dựng lập ngàn vạn môn, 

   Bồ-tát nhiều phương tiện,

   Rộng cứu độ nhân thiên.

Trí Phật sâu khó lường, tuệ giải rộng vô biên, tâm vô thượng biến khắp, từ quang chiếu đại thiên. Trí tuệ Phật sâu xa rộng lớn khó lường biết được, tuệ giải của ngài cũng không ngằn mé. Tâm vô thượng biến khắp, ánh sáng từ bi của Phật chiếu khắp tam thiên đại thiên.

Tâm tịch diệt khéo léo, dựng lập ngàn vạn môn, Bồ-tát nhiều phương tiện, rộng cứu độ nhân thiên. Từ tâm thể tịch diệt khởi ra diệu dụng khéo léo, dựng lập muôn ngàn thứ phương tiện để cứu độ khắp người trời.

Cố tri Bát-nhã ba-la-mật-đa thị đại thần chú thị đại minh chú.

   Bát-nhã là thần chú,

   Hay trừ năm uẩn nghi, 

   Phiền não thảy đoạn dứt, 

   Thanh tịnh tự phân ly.

   Sóng tứ trí vô tận,

   Bát thức hiển thần uy,

   Đèn tâm sáng pháp giới,

   Chính đó là Bồ-đề.

Bát-nhã là thần chú, hay trừ năm uẩn nghi, phiền não thảy đoạn dứt, thanh tịnh tự phân ly. Tại sao gọi Bát-nhã là đại thần chú? Bát-nhã là đại thần chú vì hay trừ cái nghi của năm uẩn, đoạn dứt các phiền não, đem lại sự thanh tịnh cho chúng ta.

Sóng tứ trí vô tận, bát thức hiển thần uy, đèn tâm sáng pháp giới, chính đó là Bồ-đề. Khi trở về với trí Bát-nhã thì hiển phát tứ trí như sóng vô tận, tám thức hiện uy lực thần thông, đèn tâm sáng rỡ khắp pháp giới, nên nói là đại thần chú là đại minh chú.

Thị vô thượng chú

   Trí vô thượng tối thắng,

   Cứu độ chúng sanh mê, 

   Tuệ lớn chủ ba cõi, 

   Nguyện rộng khởi đại bi. 

   Hay thuận chúng sanh ý, 

   Theo dòng dẫn kẻ mê, 

   Người người lên bờ giác,

   Do mình chẳng do ai.

Trí vô thượng tối thắng, cứu độ chúng sanh mê, tuệ lớn chủ ba cõi, nguyện rộng khởi đại bi. Trí tuệ Bát-nhã vô thượng không gì hơn, nên gọi là tối thắng. Sao gọi là tối thắng? Vì trí tuệ Bát-nhã hay cứu tất cả mê lầm của chúng sanh, nó là chủ của tam giới. Người đạt được trí tuệ thì tâm nguyện rộng lớn, hay khởi đại từ đại bi cứu độ chúng sanh.

Hay thuận chúng sanh ý, theo dòng dẫn kẻ mê người người lên bờ giác, do mình chẳng do ai. Tùy thuận chúng sanh để dẫn dắt họ thoát khỏi mê lầm, giác ngộ hay mê lầm là do mình chứ chẳng do ai. Như vậy vô thượng chú ở đây không phải là thần chú của thần thánh ở ngoài mà chính là chỉ cho tâm mình rộng lớn. Tâm rộng lớn thanh tịnh có công năng cứu giúp tất cả chúng sanh, dìu dắt chúng sanh ra khỏi mê lầm đưa lên bờ giác. Vô thượng chú là chính nơi mình chứ không phải nơi ai khác. 

Thị vô đẳng đẳng chú

   Phật đạo nên ngàn thánh,

   Pháp lực không gì hơn, 

   Chân không diệt pháp có, 

   Thị hiện hóa thân nhiều. 

   Đến vì chúng sanh khổ, 

   Đi vì thế gian ma,

   Kiếp thạch đều về hết,

   Còn Ta tại Ta-bà.

Phật đạo nên ngàn thánh, pháp lực không gì hơn, chân không diệt pháp có, thị hiện hóa thân nhiều. Do Phật đạo mà thành cả ngàn vị thánh, pháp lực nhiệm mầu không có gì hơn. Sống bằng thể chân không tịch diệt thì không còn tất cả pháp sanh diệt. Tuy không còn các pháp sanh diệt nhưng không phải chẳng có gì cả, mà chư Phật vẫn thị hiện hóa thân rất nhiều.

Đến vì chúng sanh khổ, đi vì thế gian ma, kiếp thạch đều về hết, còn Ta tại Ta-bà. Chư Phật đến vì cứu khổ chúng sanh, đi vì để hàng phục chúng ma, chứ không phải chư Phật thật có tử có sanh. Kiếp thạch hết rồi, pháp thân Phật vẫn còn ở cõi Ta-bà.

Kiếp thạch là theo điển tích sau: Có một tảng đá to, cứ một trăm năm có người dùng tay áo phất nhẹ qua một lần, như thế cho đến khi tảng đá mòn hết gọi là một kiếp thạch. Tảng đá hết nhưng Ta vẫn còn ở cõi Ta-bà. Ta là chỉ pháp thân Phật. Chúng ta cứ tưởng Phật nhập Niết-bàn là hết, nhưng sự thật ngài vẫn có mặt ở đây chứ không mất đi đâu. Cho nên nói rằng ngài đến vì chúng sanh khổ mà đến, đi là vì hàng phục chúng ma mà đi, sự thật ngài không chết, vì pháp thân thường hằng không hoại diệt.

Năng trừ nhất thiết khổ chân thật bất hư

   Phật nguyện từ bi lớn,

   Đời đời độ chúng sanh, 

   Hoằng pháp nói chân lý, 

   Khắp khuyên gấp tu hành. 

   Hồi tâm thấy lẽ thật,

   Khổ hết thấy vô sanh,

   Hằng dứt ba đường ác,

   Thanh thản trong kia vui.

Phật nguyện từ bi lớn, đời đời độ chúng sanh, hoằng pháp nói chân lý, khắp khuyên gấp tu hành. Lòng từ bi của Phật thật rộng lớn, nguyện đời đời độ khắp chúng sanh, hoằng dương chánh pháp, khuyên mọi người gấp rút tu hành.

Hồi tâm thấy lẽ thật, khổ hết thấy vô sanh, hằng dứt ba đường ác, thanh thản trong kia vui. Khiến chúng sanh thấy lẽ thật, nhận ra lý vô sanh, hằng dứt được cái khổ trong ba đường ác, tâm được rỗng rang thanh thản an vui. Đó là hay trừ tất cả khổ, chân thật không dối.

Cố thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa chú

   Nên nói lý chân thật, 

   Chưa ngộ gấp hồi tâm,

   Sáu giặc mười ác diệt,

   Núi ma gốc đổ nhào.

   Thần chú trừ ba độc,

   Tâm hoa năm cánh khai,

   Quả chín cội rễ chắc,

   Bước bước thấy Như Lai.

Nên nói lý chân thật, chưa ngộ gấp hồi tâm, sáu giặc mười ác diệt, núi ma gốc đổ nhào. Thần chú là chỉ cho lý chân thật, nếu người chưa ngộ thì nên chóng hồi tâm trở về. Trở về chân như thì sáu giặc, mười ác liền diệt, cả núi ma đều tan nát.

Thần chú trừ ba độc, tâm hoa năm cánh khai, quả chín cội rễ chắc, bước bước thấy Như Lai. Lý chân thật là thần chú. Chú này trừ được ba độc, ba độc hết thì tâm hoa nở ra, chứng đạo sâu mầu, nơi nơi đều thấy Như Lai.

Tức thuyết chú viết: yết-đế yết-đế, ba-la yết đế, ba-la-tăng yết-đế bồ-đề tát-bà-ha

   Yết-đế gốc tông thiền, 

   Phương tiện dựng cờ pháp, 

   Như Lai bậc tối thắng,

   Phàm tâm chớ xét lường.

   Không bên không ở giữa,

   Không ngắn cũng không dài,

   Bát-nhã ba-la-mật,

   Muôn kiếp xưa nay thường.

Yết-đế gốc tông thiền, phương tiện dựng cờ pháp, Như Lai bậc tối thắng, phàm tâm chớ xét lường. Chữ yết-đế là chỉ cho bản tông cương. Bản tông cương là cương lĩnh của tông thiền. Tuy nhiên, thiền dùng phương tiện dựng cờ pháp, mục đích là dạy người trở về chỗ tối thắng của Như Lai. Chỗ đó không thể dùng tâm lượng của phàm phu mà xét được.

Không bên không ở giữa, không ngắn cũng không dài, Bát-nhã ba-la-mật, muôn kiếp xưa nay thường. Tông thiền vượt ra ngoài tất cả đối đãi hai bên và chặng giữa, cũng không có dài ngắn. Đó là cứu cánh viên mãn, là Bát-nhã ba-la-mật.

Tóm lại, Bát-nhã ba-la-mật-đa Tâm kinh là chỉ cho chân tâm. Khi chúng ta vào cửa thứ nhất là phải nhận ra ngay nơi mình có chân tâm thường hằng bất biến. Vì vậy mỗi khi tụng Bát-nhã chúng ta phải nhớ mình có tâm chân thật. Tâm chân thật này không phải là các pháp thế gian hay xuất thế gian, mà đầy đủ diệu dụng, đầy đủ uy lực. Trở về tâm chân thật là hết khổ, là an lành tự tại.

Người tu thiền muốn bước vào cửa thiền thì phải từ cửa thứ nhất là cửa Bát-nhã mà vào. Lâu nay chúng ta cứ tưởng Bát-nhã là phá chấp không, phá chấp có, nhưng thật ra ở đây Tổ nói Bát-nhã là chỉ thẳng chân tâm. Không có tất cả pháp sanh diệt của thế gian và xuất thế gian, mà chân tâm là chỗ miên viễn an lành. Ai biết trở về chân tâm thì chứng quả thành Phật. Nếu không biết trở về thì dù có tu pháp gì cũng không đạt được đạo.

Mục Lục