|
Thanh Từ Toàn Tập 16 - Thiền Tông Trung Hoa 1
Cửa Thứ Hai - Phá Tướng Luận
Chánh văn: Hỏi: Nếu có người chí cầu Phật đạo phải tu pháp gì thật là tỉnh yếu? Đáp: Chỉ một pháp quán tâm tổng nhiếp tất cả pháp cho nên rất là tỉnh yếu. Hỏi: Sao nói một pháp hay nhiếp tất cả pháp? Đáp: Tâm là cội gốc của muôn pháp. Tất cả pháp chỉ do tâm mà sanh ra. Nếu hay liễu được tâm thì muôn pháp đều đầy đủ. Ví như cây to có những cành lá và hoa quả thảy đều y nơi gốc mà sanh ra. Nếu chặt cây bỏ rễ ắt cây phải chết. Nếu liễu tâm mà tu hành ít tốn công sức mà dễ thành. Nếu không liễu tâm mà tu đạo thì phí nhiều công mà vô ích. Cho nên tất cả pháp thiện ác đều do nơi tâm mình, ngoài tâm riêng cầu trọn không có lẽ ấy. Hỏi: Thế nào quán tâm gọi đó là liễu? Đáp: Bồ-tát ma-ha-tát khi hành sâu Bát-nhã ba-la-mật-đa, rõ bốn đại năm uẩn vốn là không, là vô ngã, thấy rõ tự tâm khởi dụng có hai thứ sai biệt. Sao gọi là hai? Một là tịnh tâm, hai là nhiễm tâm. Hai thứ tâm này pháp giới tự nhiên, xưa nay đều có. Tuy lìa giả duyên mà hợp nhau đối đãi. Tịnh tâm hằng ưa nhân lành. Nhiễm tâm thường nghĩ nghiệp ác. Nếu không nhận cái nhiễm huân vào tức gọi là thánh, liền xa lìa các khổ chứng được cái vui Niết-bàn. Nếu theo tâm nhiễm tạo nghiệp, chịu cảnh trói buộc tức gọi người đó là phàm, chìm đắm trong tam giới thọ các thứ khổ. Vì cớ sao? Do tâm nhiễm kia che lấp thể chân như. Cho nên kinh Thập Địa nói: “Trong thân chúng sanh có Phật tánh kim cương ví như vầng mặt trời thể sáng suốt tròn đầy, rộng lớn không có bờ mé, chỉ vì những lớp mây năm ấm che đậy, như ngọn đèn để ở trong bình, ánh sáng không thể hiển hiện.” Lại kinh Niết-bàn nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, vì vô minh che đậy nên không được giải thoát.” Phật tánh ấy tức là tánh giác vậy. Chỉ tự giác giác tha, trí giác sáng suốt rõ ràng tức gọi là giải thoát. Nên biết tất cả pháp lành lấy giác làm gốc. Nhân cội gốc giác này liền hay hiển hiện các cây công đức, quả Niết-bàn cũng nhân đây mà thành tựu. Quán tâm như thế gọi đó là liễu. Hỏi: Ở trên nói chân như Phật tánh, tất cả công đức nhân nơi gốc giác. Chưa biết cái tâm vô minh lấy gì làm gốc? Đáp: Tâm vô minh tuy có tám muôn bốn ngàn phiền não tình dục và hằng hà sa số các thứ ác đều lấy ba độc làm cội gốc. Ba độc ấy tức là tham sân si vậy. Ba thứ độc này tự hay đầy đủ tất cả cái ác. Ví như cây to gốc tuy là một mà sanh ra cành lá số nó vô biên. Ba gốc độc kia mỗi mỗi gốc lại sanh ra nghiệp ác trăm ngàn muôn ức gấp bội hơn trước không thể tỷ dụ được. Tâm ba độc như thế ở trong bản thể của nó ứng hiện ra sáu căn cũng gọi là “lục tặc” tức là sáu thức vậy. Do sáu thức này ra vào nơi các căn tham đắm muôn cảnh thành ra ác nghiệp, chướng ngăn thể chân như nên gọi là sáu giặc. Chúng sanh do ba độc và sáu giặc này mê loạn thân tâm chìm đắm trong sanh tử, luân hồi trong sáu đường chịu các thứ khổ não. Giống như các con sông lớn sông nhỏ đều do những nguồn suối nhỏ ngầm chảy mãi không dứt mới hay tràn đầy thành ra sóng ngòi muôn dặm. Nếu như có người chặn bít các nguồn suối kia, tức các dòng chảy đều theo đó mà dứt. Người cầu giải thoát nếu hay chuyển ba độc thành ba nhóm tịnh giới, chuyển sáu giặc thành sáu ba-la-mật, tự nhiên hằng lìa tất cả biển khổ. Hỏi: Lục thú tam giới rộng lớn vô biên, nếu chỉ quán tâm, do đâu được khỏi cái khổ vô cùng? Đáp: Nghiệp báo trong tam giới chỉ do tâm sanh. Gốc nếu không có tâm đối với trong tam giới thì liền ra khỏi tam giới. Tam giới đó tức là tam độc vậy. Tham là dục giới, sân là sắc giới, si là vô sắc nặng nhẹ quả báo chẳng đồng, phân chia về nơi sáu giới. Nên gọi là tam giới. Do ba độc này tạo nghiệp chỗ gọi là lục thú. Hỏi: Thế nào nặng nhẹ phân làm sáu đường? Đáp: Chúng sanh không rõ chánh nhân, mê tâm tu thiện, chưa khỏi tam giới, sanh trong ba cõi nhẹ. Thế nào là ba cõi nhẹ? Đó là mê tu thập thiện vọng cầu khoái lạc chưa khỏi tham giới, sanh trong cõi trời. Mê giữ năm giới, vọng khởi thương ghét chưa khỏi sân giới, sanh trong cõi người. Mê chấp hữu vi, tin tà cầu phước, chưa khỏi si giới, sanh vào cõi a-tu-la. Ba cõi như thế gọi là ba cõi nhẹ. Thế nào là ba cõi nặng? Đó là buông lung tâm tam độc, chỉ tạo nghiệp ác thì rơi vào ba cõi nặng. Nếu nghiệp tham nặng rơi vào cõi ngạ quỷ. Nghiệp sân nặng rơi vào cõi địa ngục. Nghiệp nặng rơi vào cõi súc sanh. Như thế là ba cõi nặng cùng với ba cõi nhẹ ở trước thành ra lục thú. Nên biết tất cả nghiệp khổ đều do tự tâm sanh, chỉ hay nhiếp tâm, lìa các tà ác thì cái khổ luân hồi trong ba cõi sáu đường tự nhiên tiêu diệt, liền được giải thoát. Hỏi: Như Phật đã nói “Ta ở trong ba a-tăng-kỳ kiếp vô lượng siêng năng khổ hạnh, mới thành Phật đạo”, tại sao nay nói chỉ duy quán tâm chế được ba độc gọi là giải thoát? Đáp: Lời Phật đã nói không có hư dối. A-tăng-kỳ kiếp tức là tâm tam độc vậy. Tiếng Ấn Độ nói a-tăng-kỳ, Trung Hoa gọi là bất khả sổ. Trong tâm tam độc này, có hằng sa niệm ác, ở trong mỗi mỗi niệm đều là một kiếp, như thế hằng hà sa số không thể kể hết nên nói là ba đại a-tăng-kỳ. Tánh chân như đã bị ba độc che đậy nếu không vượt qua được cái tâm của ba đại hằng sa ác độc ấy thì làm sao gọi là giải thoát? Nay nếu hay chuyển tham sân si... tâm tam độc này thành ba thứ giải thoát ấy gọi là qua được ba đại a-tăng-kỳ kiếp. Chúng sanh đời mạt pháp ngu si độn căn không hiểu lời nói bí mật của Như Lai về ba đại a-tăng-kỳ bèn nói thành Phật kiếp số như vi trần. Lời này đâu không làm nghi lầm những người tu hành khiến thối đạo Bồ-đề. Hỏi: Bồ-tát ma-ha-tát do trì ba nhóm tịnh giới, hành sáu ba-la-mật mới thành Phật đạo, nay bảo người chỉ có quán tâm không tu giới hạnh, làm sao mà thành Phật được? Đáp: Tam tụ tịnh giới tức là chế ngự tâm tam độc vậy, chế tâm tam độc thành ra vô lượng nhóm thiện, “tụ” là hội vậy. Vô lượng thiện pháp khắp nhóm hội ở nơi tâm nên gọi là tam tụ tịnh giới. Lục ba-la-mật tức là tịnh sáu căn vậy. Ấn Độ gọi là “ba-la-mật”, Trung Hoa gọi là “đáo bỉ ngạn”. Do sáu căn thanh tịnh, không nhiễm sáu trần liền qua được sông phiền não đến bờ giác ngộ nên nói là sáu ba-la-mật. Hỏi: Như kinh đã nói tam tụ tịnh giới là: thệ đoạn tất cả ác, thệ tu tất cả thiện, thệ độ tất cả chúng sanh. Nay chỉ nói chế tâm tam độc đâu không phải là văn nghĩa trái nhau? Đáp: Phật đã nói kinh đó là lời chân thật, Bồ-tát ma-ha-tát nhân đời quá khứ trong lúc tu hành vì để đối trị ba độc mà phát ra ba lời thề nguyện. Vì đoạn tất cả ác nên thường trì giới để đối trị tham độc. Vì nguyện tu tất cả thiện nên thường tập định để đối trị sân độc. Vì nguyện độ tất cả chúng sanh nên thường tu tuệ để đối trị si độc. Do trì giữ ba thứ pháp thanh tịnh giới định tuệ như thế nên vượt khỏi ba độc kia mà thành Phật đạo. Các ác tiêu diệt gọi đó là đoạn. Các thiện đều đủ gọi đó là tu. Do hay đoạn ác tu thiện tức vạn hạnh thành tựu, tự tha đều lợi, khắp cứu giúp quần sanh gọi đó là độ. Nên biết chỗ tu giới hạnh chẳng lìa nơi nếu tự tâm thanh tịnh tức tất cả Phật độ thảy đều thanh tịnh. Thế nên kinh nói:“Tâm cấu tức chúng sanh cấu, tâm tịnh tức chúng sanh tịnh, muốn được tịnh độ nên tịnh tâm mình, tùy tâm mình tịnh tức Phật độ tịnh.” Tam tụ tịnh giới tự nhiên thành tựu. Hỏi: Như kinh đã nói sáu ba-la-mật cũng gọi là lục độ, đó là: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Nay nói sáu căn thanh tịnh gọi là ba-la-mật làm sao thông hiểu? Vả lại “lục độ”, nghĩa ấy thế nào? Đáp: Muốn tu lục độ nên tịnh sáu căn trừ sáu giặc. Hay xả giặc mắt, lìa các cảnh sắc, gọi đó là bố thí. Hay cấm giặc tai, đối với thanh trần kia không để cho buông lung gọi là trì giới. Hay phục giặc mũi, bình đẳng với các mùi thơm thối, tự tại nhu nhuyến gọi đó là nhẫn nhục. Hay chế giặc lưỡi không tham các vị và các việc ca vịnh giảng thuyết..., gọi đó là tinh tấn. Hay hàng phục giặc thân, đối với cái dục ưa muốn xúc chạm, tâm vẫn lặng lẽ không động, gọi đó là thiền định. Hay điều giặc ý, không thuận theo vô minh, thường biết sáng suốt gọi đó là trí tuệ. Lục độ là vận chuyển, lục ba-la-mật giống như thuyền bè hay đưa chúng sanh đến bờ kia nên gọi là lục độ. Hỏi: Kinh nói đức Thích-ca Như Lai khi còn làm Bồ-tát đã từng uống ba đấu sáu thăng cháo sữa mới thành Phật đạo. Như vậy trước do uống sữa, sau mới chứng Phật quả, thì đâu phải chỉ do quán tâm mà được giải thoát? Đáp: Thật như chỗ ông nói không có hư dối, nhất định do dùng sữa rồi sau mới thành Phật. Nhưng nói dùng sữa đó có hai thứ. Thứ sữa Phật dùng không phải là thứ sữa bất tịnh của thế gian, đó chính là sữa pháp chân như thanh tịnh. Ba đấu chính là ba nhóm tịnh giới, sáu thăng tức sáu ba-la-mật. Phật lúc thành đạo do dùng sữa pháp chân như thanh tịnh mới chứng Phật quả, nếu nói Như Lai dùng thứ sữa bò tanh hôi bất tịnh của thế gian hòa hợp thì đâu chẳng phải là phỉ báng làm nghi lầm lắm sao? Chân như vốn là pháp thân kim cang vô lậu bất hoại hằng lìa tất cả khổ của thế gian, đâu phải nhờ thứ sữa bất tịnh như thế khiến cho được no đủ khỏi sự đói khát! Như kinh đã nói: “Con trâu ấy, nó chẳng ở tại cao nguyên, chẳng ở nơi ẩm thấp. Nó chẳng ăn các thứ lúa gạo, lúa mạch hay những thứ có vỏ trấu... Nó chẳng cùng những con trâu đực hợp bầy. Thân con trâu ấy hiện ra sắc vàng tía.” Con trâu ấy tức chỉ cho Phật Tỳ-lô-giá-na vậy. Do lòng đại từ đại bi thương xót tất cả nên từ nơi pháp thể thanh tịnh lưu xuất ra tam tụ tịnh giới, sáu ba-la-mật, sữa pháp vi diệu như thế để nuôi dưỡng tất cả những người cầu giải thoát. Thứ sữa thanh tịnh của con trâu chân tịnh như thế không chỉ Như Lai uống nó được thành đạo, mà tất cả chúng sanh nếu hay uống sữa đó cũng đều được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Hỏi: Trong kinh đã nói Phật dạy chúng sanh tu tạo chùa chiền, đúc vẽ hình tượng, đốt hương rải hoa, thắp đèn sáng luôn, ngày đêm sáu thời, nhiễu tháp hành đạo, trai tịnh lễ bái... các thứ công đức, đều thành Phật đạo. Nếu chỉ quán tâm mà tổng nhiếp hết các hạnh, nói việc như thế có lẽ là hư dối vậy? Đáp: Phật nói kinh có vô lượng phương tiện, vì tất cả chúng sanh độn căn yếu kém không ngộ được ý nghĩa sâu xa, cho nên tạm mượn các pháp hữu vi để dụ cho vô vi. Nếu không tu hạnh bên trong, chỉ nhắm bên ngoài mà cầu, hy vọng được phước thì không có lẽ đó. Nói già-lam là tiếng Tây Vức, Trung Hoa dịch là thanh tịnh địa. Nếu vĩnh viễn đoạn trừ ba độc, thường tịnh sáu căn, thân tâm lặng lẽ, trong ngoài thanh tịnh, gọi đó là tu tạo già-lam. Nói đúc vẽ hình tượng, tức là nói tất cả chúng sanh cầu Phật đạo vậy. Nghĩa là tu các giác hạnh giống tuồng như chân dung diệu tướng của Như Lai, chứ đâu phải là làm việc đúc vẽ bằng đồng bằng vàng! Vì thế người cầu giải thoát lấy thân làm lò lấy pháp làm lửa, lấy trí tuệ làm thợ khéo, lấy tam tụ tịnh giới lục ba-la-mật làm khuôn mẫu, nấu luyện chân như Phật tánh ở trong thân. Biến nhập tất cả vào trong khuôn phép giới luật, như lời dạy mà hành trì, một cũng không thiếu sót, tự nhiên thành tựu hình tượng chân dung của Phật. Đó gọi là sắc thân vi diệu cứu cánh thường trụ, không phải là pháp hữu vi tan hoại. Nếu người cầu đạo không hiểu đúc vẽ chân dung như thế thì nương vào đâu mà nói công đức. Lại nói đốt hương cũng không phải là hương có tướng ở thế gian mà chính là hương vô vi chánh pháp vậy, hương này hun đốt các thứ vô minh ác nghiệp hôi dơ thảy đều khiến tiêu diệt. Hương chánh pháp kia có năm thứ: Một là hương giới, đó là hay đoạn các điều ác, tu các điều lành. Hai là hương định, đó là tin sâu Đại thừa tâm không thối chuyển. Ba là hương tuệ, là thường đối với thân tâm tự quán sát trở lại bên trong. Bốn là hương giải thoát, đó là hay đoạn tất cả vô minh trói buộc. Năm là hương giải thoát tri kiến, đó là quán chiếu thường sáng suốt, thông đạt không ngại. Năm thứ hương như thế gọi là hương tối thượng, thế gian không có gì sánh bằng. Phật khi còn tại thế dạy các đệ tử lấy lửa trí tuệ đốt hương báu vô giá như thế để cúng dường mười phương chư Phật. Thời nay chúng sanh không hiểu nghĩa chân thật của Như Lai chỉ lấy lửa bên ngoài đốt các thứ hương trầm của thế gian, hoặc hun đốt các thứ hương bằng chất liệu, hy vọng được phước báo thì làm sao có thể được. Lại tán hoa nghĩa cũng như thế. Đó là diễn nói chánh pháp các thứ hoa công đức lợi ích hữu tình, rải thấm tất cả, đối với tánh chân như khắp thí trang nghiêm. Hoa công đức này Phật khen ngợi là rốt ráo thường trụ không có thời kỳ tàn héo. Nếu lại có người rải hoa như thế thì được phước vô lượng. Nếu nói Như Lai khiến chúng sanh cắt rọc lụa là, thương tổn cỏ cây để làm hoa tán rải thì không có lẽ đó. Vì cớ sao? Vì người giữ giới thanh tịnh, đối với trời đất sum la vạn tượng còn không dám làm xúc phạm, nếu làm phạm còn mắc tội lớn huống là ngày nay cố tình hủy phạm tịnh giới, thương tổn vạn vật để cầu phước báo? Muốn lợi ích mà trở lại thành tổn hại há có thể được sao? Đèn thường sáng mãi tức là tâm chánh giác vậy. Tâm chánh giác sáng suốt rõ ràng, dụ đó là đèn. Vì thế tất cả những người cầu giải thoát lấy thân làm đài của đèn, lấy tâm làm tim đèn, lấy việc tăng trưởng giới hạnh làm việc châm dầu cho đèn. Trí tuệ thông sáng dụ như ngọn lửa của đèn thường cháy. Đem đèn chân chánh giác ngộ như thế chiếu soi tất cả vô minh si ám, hay lấy pháp luân này thứ lớp khai thị cho nhau, tức là từ một ngọn đèn mồi cho trăm ngàn ngọn đèn, đèn đèn nối tiếp nhau vô tận nên gọi là đốt đèn sáng mãi. Thuở quá khứ, có Phật hiệu là Nhiên Đăng nghĩa cũng như thế. Chúng sanh ngu si không hiểu lời nói phương tiện của Như Lai, chỉ chuyên làm các việc hư dối, chấp trước hữu vi bèn đốt thứ đèn dầu ở thế gian để chiếu soi nhà trống, cho đó là y nơi lời Phật dạy, đâu chẳng phải lầm sao? Vì cớ sao? Phật phóng một đạo hào quang giữa chặng mày có thể chiếu soi tám muôn bốn ngàn thế giới, đâu cần phải nhờ cái đèn tô dầu như thế để được lợi ích! Xét kỹ lý này thật không đúng vậy. Lại sáu thời hành đạo, đó là nói ở nơi sáu căn trong tất cả thời thường hành Phật đạo, tu hạnh giác ngộ, điều phục sáu căn thường thường không bỏ quên, gọi đó là sáu thời hành đạo. Nhiễu tháp hành đạo: Tháp đó là thân vậy. Phải tu giác hạnh nhiễu quanh thân tâm, niệm niệm không dừng, gọi là nhiễu tháp. Quá khứ chư thánh đều hành đạo này cho đến khi được Niết-bàn. Người đời nay không hiểu lý này, chẳng hướng bên trong tu hành, chỉ chấp bên ngoài mà cầu đem thân tứ đại nhiễu tháp thế gian, ngày đêm chạy quanh, luống tự nhọc nhằn mà đối với chân tánh trọn không một chút lợi ích. Lại trì trai cần phải hội được ý, nếu không thấu được lý này chỉ luống uổng công sức. “Trai” là “tề” vậy. Đó là tề chỉnh thân tâm không khiến cho tán loạn. “Trì” là “hộ” vậy, nghĩa là đối với các giới hạnh như pháp mà hộ trì. Ắt phải bên ngoài thì ngăn sáu tình, bên trong thì chế tam độc, siêng năng giác sát, thanh tịnh thân tâm. Rõ được nghĩa như thế gọi là trì trai. Về ăn có năm thứ: Một là pháp hỷ thực. Đó là y theo chánh pháp hoan hỷ phụng hành. Hai là thiền duyệt thực. Đó là trong ngoài lóng lặng, thân tâm vui vẻ. Ba là niệm thực. Đó là thường niệm chư Phật, tâm miệng tương ưng. Bốn là nguyện thực. Đó là đi đứng ngồi nằm thường cầu nguyện lành. Năm là giải thoát thực. Đó là tâm thường thanh tịnh không nhiễm trần tục. Năm thứ ăn này gọi là trì trai. Nếu lại có người không ăn năm thứ tịnh thực như thế mà tự nói là trì trai thì không có lẽ đó. Chỉ đoạn cái ăn ở trong vô minh, liền cho đó là đã hiểu thì gọi là phá trai, nếu cũng có phá thì làm sao được phước? Ở đời có người mê không hiểu được lý này, thân tâm buông lung làm các việc ác, tham dục phóng tâm không biết hổ thẹn, chỉ đoạn cái ăn ở bên ngoài tự cho là trì trai, ắt không có lẽ đó. Lại lễ bái là phải như pháp vậy, ắt phải sáng lý thể bên trong rồi sự mới theo đó mà quyền biến, hội được nghĩa như thế mới gọi là y pháp. Phàm lễ là kính vậy, bái là phục vậy. Đó là cung kính chân tánh khuất phục vô minh, gọi là lễ bái. Nếu hay ác tình hằng đoạn, thiện niệm hằng còn, tuy không có lý tướng mà vẫn gọi là lễ bái. Tướng ấy tức pháp tướng vậy. Thế Tôn muốn khiến người đời biểu hiện tâm khiêm hạ nên cũng dạy làm việc lễ bái, vì thế phải phủ phục cái thân ở bên ngoài, bày tỏ lòng cung kính bên trong. Ngoài giác, trong sáng, tánh tướng tương ưng. Nếu không thực hành theo lý pháp, chỉ chấp bên ngoài mà cầu, bên trong thì phóng túng tham sân si, thường làm các nghiệp ác, ngoài tức luống nhọc thân tướng, trá hiện oai nghi, không thẹn với thánh, luống dối với phàm, không khỏi luân hồi làm sao thành công đức! Hỏi: Như kinh đã nói chí tâm niệm Phật ắt được vãng sanh Tây phương tịnh độ. Do một môn này tức được thành Phật đâu cần nhờ quán tâm để cầu giải thoát? Đáp: Phàm niệm Phật thì phải chánh niệm liễu nghĩa là chánh, không liễu nghĩa là tà. Chánh niệm ắt được vãng sanh, tà niệm làm sao đến được cõi kia! Phật là giác vậy. Đó là giác sát thân tâm, không để cho khởi ác. Niệm là nhớ, tức là nhớ giữ giới hạnh, không quên tinh tấn, liễu nghĩa như thế gọi đó là niệm. Nên biết niệm là ở nơi tâm chẳng phải ở lời nói. Cũng như nhân nơm mà được cá, được cá phải quên nơm. Mượn lời để tìm ý, được ý phải quên lời. Đã xưng danh niệm Phật phải biết đạo niệm Phật. Nếu tâm không thật, miệng tụng danh suông, ba độc bên trong lừng lẫy nhân ngã đầy bụng, đem cái tâm vô minh hướng bên ngoài cầu Phật, chỉ luống uổng công mà thôi. Vả lại, tụng cùng với niệm nghĩa lý khác nhau. Tại miệng gọi là tụng, tại tâm gọi là niệm. Nên biết niệm từ tâm khởi gọi là cửa giác hạnh. Tụng là từ nơi miệng phát ra, đó là tướng âm thanh, chấp bên ngoài cầu lý trọn không có lẽ đó. Nên biết quá khứ chư thánh chỗ tu niệm đều chẳng phải nói ở bên ngoài, chỉ xét ở trong tâm. Tâm là nguồn của tất cả pháp lành, tâm là chủ của muôn đức. Niết-bàn thường lạc đều do chân tâm mà sanh, ba cõi luân hồi cũng từ nơi tâm khởi. Tâm là cửa nẻo xuất thế, tâm là bến bờ giải thoát. Biết cửa rồi lo gì khó vào, rõ bến bờ rồi lo gì chẳng qua! Hỏi: Như kinh Ôn Thất nói “Tắm gội cho chúng tăng được phước vô lượng”. Đây tức nương nơi pháp sự, công đức mới thành, nếu làm việc “quán tâm” làm sao tương ưng? Đáp: Tắm gội chúng tăng, chẳng phải là việc hữu vi của thế gian. Đức Thế Tôn từng vì các đệ tử nói kinh Ôn Thất (cái nhà ấm) muốn khiến cho họ thọ trì pháp tắm gội. Cái nhà ấm kia tức là thân vậy. Vì thế cho nên đốt lửa trí tuệ, hâm nóng nước tịnh giới để tẩy rửa chân như Phật tánh trong thân, thọ trì bảy pháp để tự trang nghiêm. Thuở ấy các Tỳ-kheo thông minh thượng trí đều ngộ thánh ý, như lời Phật dạy mà tu hành, công đức thành tựu đều lên thánh quả. Ngày nay chúng sanh không lường được việc này, đem nước thế gian rửa cái thân tứ đại tự bảo là kinh, há chẳng phải là lầm sao! Vả lại chân như Phật tánh chẳng phải là thân phàm phu, phiền não trần cấu xưa nay không tướng, đâu thể đem nước chất ngại rửa cái thân vô vi! Sự đã chẳng tương ưng làm sao ngộ đạo? Nếu muốn thân được thanh tịnh phải quán thân này vốn do tham dục bất tịnh mà sanh, trong ngoài đầy dẫy nhơ nhớp hôi hám. Nếu muốn tẩy rửa thân này cầu cho được thanh tịnh giống như rửa cái đường hào bằng đất, đất hết mới sạch! Lấy lẽ này mà nghiệm rõ thì biết tẩy rửa cái thân bên ngoài chẳng phải là ý Phật nói. Thế nên tạm mượn việc thế gian để dụ cho chân tâm, ẩn nói bảy việc cúng dường công đức. Việc ấy có bảy. Thế nào là bảy việc? Một là nước sạch, hai là lửa đốt, ba là táo đậu, bốn là nhành dương, năm là tro sạch, sáu là cao tô, bảy là áo trong. Nêu bảy việc để dụ cho bảy pháp, tất cả chúng sanh do bảy pháp này tắm gội trang nghiêm hay trừ được tâm độc vô minh cấu uế. Bảy pháp đó là: Một là tịnh giới rửa sạch tội lỗi, giống như nước trong rửa sạch bụi dơ. Hai là trí tuệ quán sát trong ngoài, giống như củi lửa hay đun nóng nước sạch. Ba là phân biệt loại bỏ các ác, giống như táo đậu (xà bông) hay làm sạch cấu bẩn. Bốn là chân thật đoạn các vọng tưởng, giống như nhành dương làm tiêu mùi hôi trong miệng. Năm là chánh tín quyết định không nghi, giống như tro sạch xoa chà trên thân để ngăn gió. Sáu là nhu hòa nhẫn nhục cam chịu, giống như cao tô làm thông nhuận da ngoài. Bảy là hổ thẹn, hối các ác nghiệp, giống như áo trong để che đậy cái hình thể xấu xí. Bảy pháp như trên là nghĩa bí mật ở trong kinh, đều là vì những bậc đại thừa lợi căn mà nói chẳng phải vì phàm phu thiếu trí hạ liệt. Sở dĩ người thời nay không thể giải ngộ, vì trộm thấy thời này sự hiểu biết cạn cợt, chỉ lấy sự tướng làm công phu rồi rộng bày ra những việc phí tiền của, tốn kém nước nôi, dối lập tượng tháp, vọng sắp đặt phu dịch, chứa cây nhóm bùn, tô xanh vẽ lục, dốc tâm tận lực, tổn mình mê người, chưa biết hổ thẹn đâu từng giác ngộ. Thấy hữu vi thì siêng năng đắm mến, nghe nói vô vi thì ngờ nghệch như mê. Vả lại, ham một chút lòng từ của hiện đời đâu biết cái khổ lớn ở đời sau. Tu học như thế luống tự nhọc nhằn, trái với chánh theo về tà, ai nói là được phước? Chỉ hay quán tâm chiếu soi bên trong, giáo quán rõ ràng bên ngoài, đoạn dứt ba độc khiến cho vĩnh viễn tiêu mất, đóng cửa sáu giặc không cho nó quấy nhiễu, tự nhiên hằng sa công đức các thứ trang nghiêm, vô số pháp môn mỗi mỗi thành tựu siêu phàm chứng thánh trước mắt không xa, ngộ chỉ trong chốc lát đâu phiền đợi đến lúc bạc đầu. Cửa chân thật sâu kín, đâu thể trình bày cho đầy đủ tường tận được. Lược nói về quán tâm chỉ nói được chút ít, nên nói kệ rằng: Ta xưa cầu tâm tâm tự giữ, Cầu tâm không được đợi tâm biết, Phật tánh không từ ngoài tâm được, Tâm sanh bèn là lúc tội sanh. Ta xưa cầu tâm chẳng cầu Phật, Rõ biết tam giới không không vật, Nếu muốn cầu Phật chỉ cầu tâm, Chỉ tâm tâm tâm ấy là Phật. Giảng: Cửa thứ hai PHÁ TƯỚNG LUẬN Hỏi: Nếu có người chí cầu Phật đạo phải tu pháp gì thật là tỉnh yếu? Đáp: Chỉ một pháp quán tâm tổng nhiếp tất cả pháp cho nên rất là tỉnh yếu. Hỏi: Sao nói một pháp hay nhiếp tất cả pháp? Đáp: Tâm là cội gốc của muôn pháp. Tất cả pháp chỉ do tâm mà sanh ra. Nếu hay liễu được tâm thì muôn pháp đều đầy đủ. Ví như cây to có những cành lá và hoa quả thảy đều y nơi gốc mà sanh ra. Nếu chặt cây bỏ rễ ắt cây phải chết. Nếu liễu tâm mà tu hành ít tốn công sức mà dễ thành. Nếu không liễu tâm mà tu đạo thì phí nhiều công mà vô ích. Cho nên tất cả pháp thiện ác đều do nơi tâm mình, ngoài tâm riêng cầu trọn không có lẽ ấy. Phá tướng là dẹp bỏ những hình tướng bên ngoài để trở về bản tâm, ở đây nêu hai câu hỏi. Câu thứ nhất: Người cầu đạo phải tu phương pháp gì vừa đơn giản mà lại thiết yếu? Tổ chỉ một phương pháp vừa đơn giản lại thiết yếu là Quán tâm. Quán tâm không phải ngồi lại một chỗ để quán, mà nhìn kỹ tâm mình hay còn gọi là chăn trâu, thấy nó chạy đông chạy tây hay yên lặng, đó gọi là quán tâm. Pháp quán tâm là pháp cội nguồn. Câu thứ hai: Tại sao nói chỉ có một pháp đó mà trùm hết các pháp? Ngài đáp: Tâm là cội nguồn của muôn pháp. Ví như cây to có hoa quả, cành lá, hoa quả cành lá tuy nhiều nhưng đều từ cội gốc mà ra. Nếu chúng ta muốn cây chết, chặt gốc nó thì cành lá, hoa quả theo đó mà hết. Cũng vậy muôn pháp thiện ác đều từ tâm sanh, nếu ngay tâm mà chúng ta nhận được, liễu tri được thì muôn pháp cũng theo đó mà sạch. Không trở về tâm mà đi cầu những pháp khác bên ngoài thì không bao giờ đạt đạo. Hỏi: Thế nào quán tâm gọi đó là liễu? Đáp: Bồ-tát ma-ha-tát khi hành sâu Bát-nhã ba-la-mật-đa, rõ bốn đại năm uẩn vốn là không, là vô ngã, thấy rõ tự tâm khởi dụng có hai thứ sai biệt. Sao gọi là hai? Một là tịnh tâm, hai là nhiễm tâm. Hai thứ tâm này pháp giới tự nhiên, xưa nay đều có. Tuy lìa giả duyên mà hợp nhau đối đãi. Đoạn này nêu câu hỏi: Thế nào quán tâm gọi đó là liễu? Tổ đáp tâm nhiễm tâm tịnh xưa nay sẵn có bên mình chứ không phải đợi tạo mới có. Ngay nơi mỗi người đều có sẵn hai thứ tâm, nên gọi là pháp giới tự nhiên. Đứng về mặt tâm thể thì nó lìa giả duyên, nghĩa là tâm thể của chúng ta không dính với giả duyên bên ngoài, nhưng khi bên ngoài có cảnh bên trong có tâm, hai cái hợp lại trở thành đối đãi, nên nói tuy lìa giả duyên mà hợp nhau đối đãi. Tịnh tâm hằng ưa nhân lành. Nhiễm tâm thường nghĩ nghiệp ác. Nếu không nhận cái nhiễm huân vào tức gọi là thánh, liền xa lìa các khổ chứng được cái vui Niết-bàn. Nếu theo tâm nhiễm tạo nghiệp, chịu cảnh trói buộc tức gọi người đó là phàm, chìm đắm trong tam giới thọ các thứ khổ. Vì cớ sao? Do tâm nhiễm kia che lấp thể chân như. Cho nên kinh Thập Địa nói: “Trong thân chúng sanh có Phật tánh kim cương ví như vầng mặt trời thể sáng suốt tròn đầy, rộng lớn không có bờ mé, chỉ vì những lớp mây năm ấm che đậy, như ngọn đèn để ở trong bình, ánh sáng không thể hiển hiện.” Nói nhiễm nói tịnh là do khởi niệm, khởi niệm thì có lành có dữ. Tâm tịnh thì ưa nghĩ những điều lành, tâm nhiễm thường nghĩ những điều ác. Người nào tu hành không chấp nhận cảnh duyên bên ngoài huân vô làm ô nhiễm tâm mình thì gọi là thánh, là lìa khổ được vui Niết-bàn. Nếu theo tâm nhiễm tạo nghiệp thì phải chịu sự trói buộc, đó là phàm phu sẽ chìm đắm trong ba cõi, chịu các thứ khổ. Vì sao? Vì tâm nhiễm kia che lấp làm chướng ngại thể chân như. Cho nên kinh Thập Địa nói: “Trong thân chúng sanh có Phật tánh kim cương”, nghĩa là Phật tánh bất sanh bất diệt không gì phá hoại được, nên dụ như kim cương. Cũng như mặt trời sáng suốt tròn đầy, rộng lớn không ngằn mé, nhưng vì những đám mây che nên ánh sáng không tỏa khắp. Như trong bình sành để ngọn đèn sáng, ánh sáng của ngọn đèn không thể phát ra ngoài. Lại kinh Niết-bàn nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, vì vô minh che đậy nên không được giải thoát.” Phật tánh ấy tức là tánh giác vậy. Chỉ tự giác giác tha, trí giác sáng suốt rõ ràng tức gọi là giải thoát. Nên biết tất cả pháp lành lấy giác làm gốc. Nhân cội gốc giác này liền hay hiển hiện các cây công đức, quả Niết-bàn cũng nhân đây mà thành tựu. Quán tâm như thế gọi đó là liễu. Như đoạn trước nói phương pháp tỉnh yếu là quán tâm. Quán tâm bằng cách nào? Ngay nơi tâm mình có hai phần tịnh và nhiễm, nếu không để cái nhiễm làm ô uế tâm thì được giải thoát, gọi đó là thánh. Chạy theo tâm nhiễm tạo nghiệp khiến cho tâm mình mờ tối thì sẽ trầm luân sanh tử. Vì vậy nên nói quán tâm là liễu được tất cả. Hỏi: Ở trên nói chân như Phật tánh, tất cả công đức nhân nơi gốc giác. Chưa biết cái tâm vô minh lấy gì làm gốc? Đáp: Tâm vô minh tuy có tám muôn bốn ngàn phiền não tình dục và hằng hà sa số các thứ ác đều lấy ba độc làm cội gốc. Ba độc ấy tức là tham sân si vậy. Ba thứ độc này tự hay đầy đủ tất cả cái ác. Ví như cây to gốc tuy là một mà sanh ra cành lá số nó vô biên. Ba gốc độc kia mỗi mỗi gốc lại sanh ra nghiệp ác trăm ngàn muôn ức gấp bội hơn trước không thể tỷ dụ được. Tâm ba độc như thế ở trong bản thể của nó ứng hiện ra sáu căn cũng gọi là “lục tặc” tức là sáu thức vậy. Do sáu thức này ra vào nơi các căn tham đắm muôn cảnh thành ra ác nghiệp, chướng ngăn thể chân như nên gọi là sáu giặc. Chúng sanh do ba độc và sáu giặc này mê loạn thân tâm chìm đắm trong sanh tử, luân hồi trong sáu đường chịu các thứ khổ não. Giống như các con sông lớn sông nhỏ đều do những nguồn suối nhỏ ngầm chảy mãi không dứt mới hay tràn đầy thành ra sóng ngòi muôn dặm. Nếu như có người chặn bít các nguồn suối kia, tức các dòng chảy đều theo đó mà dứt. Người cầu giải thoát nếu hay chuyển ba độc thành ba nhóm tịnh giới, chuyển sáu giặc thành sáu ba-la-mật, tự nhiên hằng lìa tất cả biển khổ. Hỏi: Ở trên nói rằng chân như Phật tánh và tất cả công đức lấy giác làm gốc. Vậy không biết cái tâm vô minh lấy gì làm gốc? Đáp: Cội gốc của tất cả pháp ác là tham sân si. Tuy nói phiền não rất nhiều, trăm ngàn muôn ức nhưng gốc của nó chỉ là tham sân si. Bởi có tham sân si ở trong mới ứng hiện ra sáu căn, khiến sáu căn biến thành lục tặc tức là sáu tên giặc. Nếu không còn tham sân si thì sáu căn biến thành sáu ba-la-mật, hoặc là sáu thần thông. Ví dụ con mắt nếu không có tâm tham hợp tác thì không bị nhiễm sắc, chân tâm không bị ngăn che. Lỗ tai nếu không có tâm sân hợp tác thì không nổi giận khi nghe người ta nói nặng. Không nổi sân thì không có chướng ngại chân như. Như vậy tham sân si ẩn ở trong, rồi hợp với sáu căn biến thành sáu giặc, khi nào hết tham sân si thì sáu căn cũng thấy nghe hay biết, mà trở thành sáu ba-la-mật hay sáu thần thông. Cho nên, người cầu giải thoát nếu hay chuyển ba độc thành ba nhóm tịnh giới, chuyển sáu giặc thành sáu ba-la-mật, tự nhiên hằng lìa tất cả biển khổ. Ba nhóm tịnh giới là ba nhóm giới thuộc Đại thừa gồm có: nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới và nhiêu ích hữu tình giới. Sáu ba-la-mật là: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Như vậy cũng từ nơi sáu căn nếu hợp tác với ba độc thì thành sáu giặc, nếu không hợp tác với ba độc thì sáu căn chuyển thành sáu ba-la-mật. Tu là chuyển, chúng ta đang sống trong đau khổ mê lầm là do ba độc hoành hành, nếu chúng ta chuyển được ba độc thì đau khổ theo đó sạch hết. Hỏi: Lục thú tam giới rộng lớn vô biên, nếu chỉ quán tâm, do đâu được khỏi cái khổ vô cùng? Đáp: Nghiệp báo trong tam giới chỉ do tâm sanh. Gốc nếu không có tâm đối với trong tam giới thì liền ra khỏi tam giới. Tam giới đó tức là tam độc vậy. Tham là dục giới, sân là sắc giới, si là vô sắc giới. Nên gọi là tam giới. Do ba độc này tạo nghiệp nặng nhẹ quả báo chẳng đồng, phân chia về nơi sáu chỗ gọi là lục thú. Hỏi: Lục thú tam giới rộng lớn vô biên, nếu chỉ quán tâm thì làm sao khỏi cái khổ trong tam giới lục thú? Tổ đáp: Tam giới là tam độc tham sân si. Tham là dục giới, sân là sắc giới, si là vô sắc giới. Nghĩa là còn tham sân si thì còn ở trong tam giới, hết tham sân si thì ra khỏi tam giới. Nói tham là dục giới thì dễ hiểu rồi, nhưng còn sân sao gọi là sắc giới? Vì khi tâm nổi sân thì tướng sân hiện ra, lúc đó tướng trạng hiện thế nào thì nhìn thấy liền nên nói là sắc giới. Còn tâm si ẩn ở trong lờ mờ khó thấy, nó không có tướng trạng nên nói là vô sắc giới. Như vậy tam giới gốc từ tam độc mà ra chứ không có gì hết. Hỏi: Thế nào nặng nhẹ phân làm sáu đường? Đáp: Chúng sanh không rõ chánh nhân, mê tâm tu thiện, chưa khỏi tam giới, sanh trong ba cõi nhẹ. Thế nào là ba cõi nhẹ? Đó là mê tu thập thiện vọng cầu khoái lạc chưa khỏi tham giới, sanh trong cõi trời. Mê giữ năm giới, vọng khởi thương ghét chưa khỏi sân giới, sanh trong cõi người. Mê chấp hữu vi, tin tà cầu phước, chưa khỏi si giới, sanh vào cõi a-tu-la. Ba cõi như thế gọi là ba cõi nhẹ. Chúng ta xét rõ nhân tu thế nào, kết quả ra sao để rồi kiểm lại mình coi đang tu nhân gì? Mê tâm tu thiện nghĩa là không nhận được bản tâm của mình mà ưa làm các việc từ thiện. Tu như vậy cũng chưa ra khỏi tam giới mà sanh ở ba cõi nhẹ. Thế nào là ba cõi nhẹ? Nếu tu mười điều lành mà không nhận được bản tâm, chỉ cầu đời sau được an vui, như vậy là còn lòng tham nên sanh ở cõi trời Dục giới. Tuy giữ năm giới mà lòng yêu ghét vẫn còn, còn yêu ghét là còn sân giận, vì vậy không ra khỏi sân giới, nên sanh ở cõi người. Còn người mê chấp hữu vi, tin tà cầu phước, chưa khỏi si giới, sanh vào cõi a-tu-la. Tin tà cầu phước là sao? Nghĩa là có những người chỉ lo cúng thành hoàng, thổ địa, ông táo... Cúng rồi vái, nghe ai bị tai nạn cũng vái cho họ được tai qua nạn khỏi. Như vậy là thiện quá rồi! Nhưng chấp tà mà làm thiện thì cũng được phước, có phước mà còn ở trong si mê, chưa ra khỏi si giới thì sanh trong cõi a-tu-la. Như thế cõi trời, cõi người, cõi a-tu-la gọi là ba cõi nhẹ. Thế nào là ba cõi nặng? Đó là buông lung tâm tam độc, chỉ tạo nghiệp ác thì rơi vào ba cõi nặng. Nếu nghiệp tham nặng rơi vào cõi ngạ quỷ. Nghiệp sân nặng rơi vào cõi địa ngục. Nghiệp si nặng rơi vào cõi súc sanh. Như thế là ba cõi nặng cùng với ba cõi nhẹ ở trước thành ra lục thú. Nên biết tất cả nghiệp khổ đều do tự tâm sanh, chỉ hay nhiếp tâm, lìa các tà ác thì cái khổ luân hồi trong ba cõi sáu đường tự nhiên tiêu diệt, liền được giải thoát. Đoạn này ngài chỉ rõ, nếu chúng ta bỏ quên tâm mà tu thì chỉ lẩn quẩn ở trong lục thú tam giới. Nếu nhận tâm thể thanh tịnh mà tu thì ra khỏi luân hồi được giải thoát, đó là gốc của sự tu hành. Hiện giờ chúng ta thấy người tu làm việc thiện rất nhiều. Thấy ai bệnh hoạn thì thương, tìm đủ mọi cách cứu giúp, nhiều khi dùng cả bùa chú để chữa trị. Vì thương người mà làm việc thiện với tất cả lòng tốt, nhưng kết quả vẫn nằm trong tà si, chưa tới chỗ giải thoát. Hoặc người làm mười nghiệp lành nhưng không nhận được bản tâm, chỉ mong đời sau được sung sướng thì sau khi chết sẽ được sanh về cõi trời. Vì vậy tùy theo sự tu hành của chúng ta mà sanh trong lục đạo luân hồi. Nếu ngộ tâm mà tu thì dứt hết mầm sanh tử, ra khỏi tam giới gọi là giải thoát. Hỏi: Như Phật đã nói “Ta ở trong ba a-tăng-kỳ kiếp vô lượng siêng năng khổ hạnh, mới thành Phật đạo”, tại sao nay nói chỉ duy quán tâm chế được ba độc gọi là giải thoát? Đáp: Lời Phật đã nói không có hư dối. A-tăng-kỳ kiếp tức là tâm tam độc vậy. Tiếng Ấn Độ nói a-tăng-kỳ, Trung Hoa gọi là bất khả sổ. Trong tâm tam độc này, có hằng sa niệm ác, ở trong mỗi mỗi niệm đều là một kiếp, như thế hằng hà sa số không thể kể hết nên nói là ba đại a-tăng-kỳ. Tánh chân như đã bị ba độc che đậy nếu không vượt qua được cái tâm của ba đại hằng sa ác độc ấy thì làm sao gọi là giải thoát? Nay nếu hay chuyển tham sân si... tâm tam độc này thành ba thứ giải thoát ấy gọi là qua được ba đại a-tăng-kỳ kiếp. Chúng sanh đời mạt pháp ngu si độn căn không hiểu lời nói bí mật của Như Lai về ba đại a-tăng-kỳ bèn nói thành Phật kiếp số như vi trần. Lời này đâu không làm nghi lầm những người tu hành khiến thối đạo Bồ-đề. Trong kinh Phật nói ngài trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp siêng năng khổ hạnh, cực khổ nhọc nhằn sau mới được thành Phật. Nay nói chỉ có quán tâm, chế được tam độc là giải thoát thì thấy sao đơn giản quá! Tổ giải thích: Phật đã nói ra thì không hư dối. A-tăng-kỳ kiếp tức là tâm tam độc vậy. Trong tâm chứa ba độc thì có hằng sa niệm ác, mỗi niệm ác là một kiếp, như thế hằng hà sa số không thể tính hết, cho nên nói ba đại a tăng-kỳ. Từ tam độc biến ra hằng hà sa số ác niệm, mỗi ác niệm là một kiếp, như vậy dứt hết ba vô số kiếp của tham sân si thì gọi là qua ba a-tăng-kỳ kiếp. Giải thích như vậy chúng ta thấy hơi gượng ép, nhưng đó là một lẽ thật mà nhiều khi chúng ta chấp trên ngôn ngữ nên không thấy được. Thật sự tu hành muốn thành Phật thì phải hết ba độc. Bởi vì từ ba độc biến ra muôn ngàn phiền não. Ba độc có thể có tế, thô có ngàn thứ thô, tế cũng có nhiều lớp tế. Nói về tham không biết bao nhiêu thứ mà tính hết. Tai tham nghe tiếng hay, mắt tham sắc đẹp, mũi tham ngửi mùi thơm, lưỡi tham nếm vị ngon, thân tham xúc chạm những gì nó ưa thích. Trong tham sắc lại có bao nhiêu thứ khác nhau: sắc đẹp con người, nhà cửa, xe cộ, bông hoa... Giả sử thấy sắc đẹp của con người, chúng ta tự nhắc tham sắc là một tội lỗi, người tu không được tham đắm nữ sắc. Nhưng khi thấy bông hoa đẹp mình còn thích ngắm. Như vậy tham sắc đẹp của hoa tế hơn tham sắc đẹp của người, đó cũng là tham. Đến tham tiền, do tham nên thấy tiền của ai để sơ hở là lấy cắp. Bây giờ tu rồi chúng ta biết lấy của người không cho là phạm giới, là tội lỗi nên không dám lấy. Nhưng thấy tiền hoặc đồng hồ của ai làm rơi giữa đường thì lượm bỏ túi xài luôn. Lẽ ra khi nhặt được của rơi chúng ta phải tìm cách trả lại cho chủ nhân, nhưng vì nghĩ của này do mình nhặt được chứ không phải ăn cắp thì đâu có lỗi gì! Nghĩ vậy nên giữ làm của, đó cũng là còn tham. Hoặc khi chúng ta tình cờ lượm được một túi tiền hay món đồ quý, không nỡ cất xài nên đem gửi cảnh sát trả lại cho người bị mất. Nhưng khi gửi trả trong lòng cảm thấy tiếc, còn tiếc thì còn tham vi tế. Đến tham tiếng, trong tiếng thì có trăm ngàn thứ tiếng: tiếng khen, tiếng êm dịu, tiếng đàn ca... Mũi thích ngửi mùi cũng có trăm ngàn thứ mùi. Như vậy tham có rất nhiều thứ, nó phát ra sáu căn chỗ nào cũng tham được hết, mỗi cái tham lại có trăm ngàn muôn ức cái tham vi tế. Như vậy tham có thiên hình vạn trạng từ thô đến tế không thể kể hết. Sân cũng có nhiều mức độ. Khi chưa biết tu nghe ai nói trái tai thì nổi giận la hét. Đến khi biết tu rồi, nghe ai nói trái tai chúng ta không nổi giận la lối, mà giận ngầm trong bụng, thấy người đó muốn bỏ đi chỗ khác, không muốn nhìn mặt, như vậy cũng còn sân. Tu khá hơn một chút, khi nghe người nói trái tai, mình vẫn nhìn mặt vẫn tiếp xúc nhưng trong lòng cũng còn hơi bực bội không vui. Chừng nào người ta làm trái ý, nói trái tai mà tâm mình vẫn bình thường không chướng ngại gì cả thì tâm hết sân. Như vậy để thấy rằng sân giận đi dần từ thô đến tế. Cả trăm ngàn thứ tham sân si, cho nên gọi là vô lượng vô biên, hằng hà sa số không thể tính được. Nếu dứt sạch ba độc thì thành Phật. Chúng ta thử tính xem bao lâu thì dứt hết ba độc? Nói nghe thì đơn giản, tưởng chừng như một sớm một chiều có thể làm được, nhưng thật sự dứt hết tham sân si từ thô đến tế thì phải qua một thời gian dài đăng đẳng. Ba độc biến hình biến trạng quá nhiều, ở trong mỗi niệm ác là một kiếp. Vì thế dứt bao nhiêu niệm ác gọi là qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp. Tuy nhiên, nếu nghe nói tu phải trải qua số kiếp như vi trần thì ngán quá, không biết chừng nào mới xong. Nếu nói tu trừ ba độc tham sân si là qua ba vô số kiếp, như vậy có ngán không? Ví dụ tháng trước chúng ta sân giận mười phần, hôm nay giảm còn tám chín là đã qua được một chút, như vậy là có tiến bộ. Nếu nói trải qua vô số kiếp nhiều như cát bụi thì thấy như mình vô phần rồi thối Bồ-đề tâm. Nên biết ba vô số kiếp tức là tam độc, trừ sạch ba độc thì thành Phật, đó là một sự thật ở ngay nơi tâm mỗi người. Chúng ta hy vọng tuy ngày nay còn tham sân si, nhưng nếu nỗ lực làm cho suy giảm từ từ thì con đường thành Phật ngày càng gần. Nếu trừ hết ba độc thì thành Phật, chính điều này khiến chúng ta phấn chấn nỗ lực tu hành. Tổ đã khéo chuyển tất cả trở về tự tâm. Trở về tự tâm thì thấy thực tế, gần gũi dễ thực hành. Nếu kẹt trên ngôn ngữ văn tự thì dễ chán nản thối chí. Tuy nhiên muốn dứt bỏ ba độc phải trải qua thời gian rất dài, điều đó không phải ngoài khả năng của chúng ta. Phần này gọi là phá tướng, không còn mắc kẹt hình tướng bên ngoài, mà quy hướng về tự tâm. Hỏi: Bồ-tát ma-ha-tát do trì ba nhóm tịnh giới, hành sáu ba-la-mật mới thành Phật đạo, nay bảo người chỉ có quán tâm không tu giới hạnh, làm sao mà thành Phật được? Đáp: Tam tụ tịnh giới tức là chế ngự tâm tam độc vậy, chế tâm tam độc thành ra vô lượng nhóm thiện, “tự” là hội vậy. Vô lượng thiện pháp khắp nhóm hội ở nơi tâm nên gọi là tam tu tịnh giới. Lục ba-la-mật tức là tịnh sáu căn vậy. Ấn Độ gọi là "ba-la-mật”, Trung Hoa gọi là “đáo bỉ ngạn”. Do sáu căn thanh tịnh, không nhiễm sáu trần liền qua được sông phiền não đến bờ giác ngộ nên nói là sáu ba-la-mật. Bồ-tát có đầy đủ sáu ba-la-mật mới thành Phật. Nhưng Tổ nói sáu ba-la-mật là tịnh sáu căn vậy. Sáu căn của chúng ta khi xưa nhiễm với sáu trần, bây giờ tịnh sáu căn tức không cho nhiễm sáu trần thì qua được sông phiền não, đã qua sông phiền não là đến bờ Niết-bàn. Như vậy ba a-tăng-kỳ hay sáu ba-la-mật đều ngay nơi tâm và sáu căn của chúng ta chứ không ở đâu xa cả. Hỏi: Như kinh đã nói tam tụ tịnh giới là: thệ đoạn tất cả ác, thệ tu tất cả thiện, thệ độ tất cả chúng sanh. Nay chỉ nói chế tâm tam độc đâu không phải là văn nghĩa trái nhau? Đáp: Phật đã nói kinh đó là lời chân thật, Bồ-tát ma-ha-tát nhân đời quá khứ trong lúc tu hành vì để đối trị ba độc mà phát ra ba lời thề nguyện. Vì đoạn tất cả ác nên thường trì giới để đối trị tham độc. Vì nguyện tu tất cả thiện nên thường tập định để đối trị sân độc. Vì nguyện độ tất cả chúng sanh nên thường tu tuệ để đối trị si độc. Do trì giữ ba thứ pháp thanh tịnh giới định tuệ như thế nên vượt khỏi ba độc kia mà thành Phật đạo. Các ác tiêu diệt gọi đó là đoạn. Các thiện đều đủ gọi đó là tu. Do hay đoạn ác tu thiện tức vạn hạnh thành tựu, tự tha đều lợi, khắp cứu giúp quần sanh gọi đó là độ. Nên biết chỗ tu giới hạnh chẳng lìa nơi tâm, nếu tự tâm thanh tịnh tức tất cả Phật độ thảy đều thanh tịnh. Thế nên kinh nói: “Tâm cấu tức chúng sanh cấu, tâm tịnh tức chúng sanh tịnh, muốn được tịnh độ nên tịnh tâm mình, tùy tâm mình tịnh tức Phật độ tịnh.” Tam tụ tịnh giới tự nhiên thành tựu. Như vậy để cho thấy tuy trong kinh nói tam tụ tịnh giới là thệ đoạn tất cả ác, thệ tu tất cả thiện, thệ độ tất cả chúng sanh, nhưng cũng không ngoài ba độc. Đoạn tất cả ác là đoạn tham. Tu tất cả thiện là trừ sân. Độ tất cả chúng sanh là diệt si. Tham sân si hết thì đó là thành tựu được tam tụ tịnh giới, được sanh về cõi Phật thanh tịnh. Hỏi: Như kinh đã nói sáu ba-la-mật cũng gọi là lục độ, đó là: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Nay nói sáu căn thanh tịnh gọi là ba-la-mật làm sao thông hiểu? Vả lại “lục độ”, nghĩa ấy thế nào? Đáp: Muốn tu lục độ nên tịnh sáu căn trừ sáu giặc. Hay xả giặc mắt, lìa các cảnh sắc, gọi đó là bố thí. Hay cấm giặc tai, đối với thanh trần kia không để cho buông lung gọi là trì giới. Hay phục giặc mũi, bình đẳng với các mùi thơm thối, tự tại nhu nhuyến gọi đó là nhẫn nhục. Hay chế giặc lưỡi không tham các vị và các việc ca vịnh giảng thuyết..., gọi đó là tinh tấn. Hay hàng phục giặc thân, đối với cái dục ưa muốn xúc chạm, tâm vẫn lặng lẽ không động, gọi đó là thiền định. Hay điều giặc ý, không thuận theo vô minh, thường biết sáng suốt gọi đó là trí tuệ. Lục độ là vận chuyển, lục ba-la-mật giống như thuyền bè hay đưa chúng sanh đến bờ kia nên gọi là lục độ. Ngay nơi sáu căn của chúng ta mà tu thì đã tu lục độ ba-la-mật. Như mắt thấy sắc không nhiễm sắc là tu bố thí. Tai nghe tiếng không buồn thương giận ghét là trì giới. Mũi ngửi mùi thơm hôi đều thấy bình đẳng như nhau là nhẫn nhục. Tới bữa ăn lưỡi nếm vị ngon vị dở mà không ưa không chán, cũng không thích ca ngâm xướng vịnh, đó là tinh tấn... Nếu quy lục độ về sáu căn thì lúc nào chúng ta cũng tu được hết. Nếu nói lục độ là pháp bên ngoài, như bố thí thì phải có tiền, đợi khi nào có người cần giúp đỡ chúng ta mới bố thí, nếu không có cơ hội thì không tu bố thí được. Đoạn này ngài dạy tu lục độ là chuyển sáu căn ô nhiễm thành sáu căn thanh tịnh, tu như vậy thì giờ phút nào chúng ta cũng tu được. Khi sáu căn thanh tịnh thì giác ngộ ra khỏi bờ mê. Hỏi: Kinh nói đức Thích-ca Như Lai khi còn làm Bồ-tát đã từng uống ba đấu sáu thăng cháo sữa mới thành Phật đạo. Như vậy trước do uống sữa, sau mới chứng Phật quả, thì đâu phải chỉ do quán tâm mà được giải thoát? Đáp: Thật như chỗ ông nói không có hư dối, nhất định do dùng sữa rồi sau mới thành Phật. Nhưng nói dùng sữa đó có hai thứ. Thứ sữa Phật dùng không phải là thứ sữa bất tịnh của thế gian, đó chính là sữa pháp chân như thanh tịnh. Ba đấu chính là ba nhóm tịnh giới, sáu thăng tức sáu ba-la-mật. Phật lúc thành đạo do dùng sữa pháp chân như thanh tịnh mới chứng Phật quả, nếu nói Như Lai dùng thứ sữa bò tanh hôi bất tịnh của thế gian hòa hợp thì đâu chẳng phải là phỉ báng làm nghi lầm lắm sao? Chân như vốn là pháp thân kim cang vô lậu bất hoại hằng lìa tất cả khổ của thế gian, đâu phải nhờ thứ sữa bất tịnh như thế khiến cho được no đủ khỏi sự đói khát! Như kinh đã nói: “Con trâu ấy, nó chẳng ở tại cao nguyên, chẳng ở nơi ẩm thấp. Nó chẳng ăn các thứ lúa gạo, lúa mạch hay những thứ có vỏ trấu... Nó chẳng cùng những con trâu đực hợp bầy. Thân con trâu ấy hiện ra sắc vàng tía.” Con trâu ấy tức chỉ cho Phật Tỳ-lô-giá-na vậy. Do lòng đại từ đại bi thương xót tất cả nên từ nơi pháp thể thanh tịnh lưu xuất ra tam tụ tịnh giới, sáu ba-la-mật, sữa pháp vi diệu như thế để nuôi dưỡng tất cả những người cầu giải thoát. Thứ sữa thanh tịnh của con trâu chân tịnh như thế không chỉ Như Lai uống nó được thành đạo, mà tất cả chúng sanh nếu hay uống sữa đó cũng đều được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sử nói Phật sau khi uống bát sữa do nàng mục nữ dâng cúng, ngài thấy trong người khỏe khoắn, bèn xuống sông tắm rồi lên cội bồ-đề trải cỏ ngồi thiền bốn mươi chín ngày cho đến khi đắc đạo. Do đó kết luận rằng Phật nhờ uống sữa mà được thành Phật thì thật vô lý. Ở đây Tổ giải thích tu thành Phật đạo là do uống sữa pháp thanh tịnh mới chứng được Phật quả. Ba đấu là chỉ cho tam tụ tịnh giới, sáu thăng là chỉ cho lục ba-la-mật, phát xuất từ pháp thân thanh tịnh của Như Lai. Nếu nói Như Lai uống sữa bò tanh hôi bất tịnh của thế gian mà thành Phật là chê bai đức Phật. Vì tự tánh chân như tợ kim cang bất hoại, pháp thân vô lậu hằng lìa tất cả khổ thế gian, không phải dùng thứ sữa bất tịnh như thế để mà nuôi dưỡng. Như vậy sữa tam tụ tịnh giới, lục ba-la-mật, chẳng phải chỉ có đức Như Lai uống thứ sữa thanh tịnh này được thành Phật đạo, mà tất cả chúng sanh nếu hay uống cũng đều thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Hỏi: Trong kinh đã nói Phật dạy chúng sanh tu tạo chùa chiền, đúc vẽ hình tượng, đốt hương rải hoa, thắp đèn sáng luôn, ngày đêm sáu thời, nhiễu tháp hành đạo, trai tịnh lễ bái... các thứ công đức, đều thành Phật đạo. Nếu chỉ quán tâm mà tổng nhiếp hết các hạnh, nói việc như thế có lẽ là hư dối vậy? Đáp: Phật nói kinh có vô lượng phương tiện, vì tất cả chúng sanh độn căn yếu kém không ngộ được ý nghĩa sâu xa, cho nên tạm mượn các pháp hữu vi để dụ cho vô vi. Nếu không tu hạnh bên trong, chỉ nhắm bên ngoài mà cầu, hy vọng được phước thì không có lẽ đó. Nói già-lam là tiếng Tây Vức, Trung Hoa dịch là thanh tịnh địa. Nếu vĩnh viễn đoạn trừ ba độc, thường tịnh sáu căn, thân tâm lặng lẽ, trong ngoài thanh tịnh, gọi đó là tu tạo già-lam. Nói đúc vẽ hình tượng, tức là nói tất cả chúng sanh cầu Phật đạo vậy. Nghĩa là tu các giác hạnh giống tuồng như chân dung diệu tướng của Như Lai, chứ đâu phải là làm việc đúc vẽ bằng đồng bằng vàng! Vì thế người cầu giải thoát lấy thân làm lò lấy pháp làm lửa, lấy trí tuệ làm thợ khéo, lấy tam tụ tịnh giới lục ba-la-mật làm khuôn mẫu, nấu luyện chân như Phật tánh ở trong thân. Biến nhập tất cả vào trong khuôn phép giới luật, như lời dạy mà hành trì, một cũng không thiếu sót, tự nhiên thành tựu hình tượng chân dung của Phật. Đó gọi là sắc thân vi diệu cứu cánh thường trụ, không phải là pháp hữu vi tan hoại. Nếu người cầu đạo không hiểu đúc vẽ chân dung như thế thì nương vào đâu mà nói công đức. Hỏi: Trong kinh Phật dạy chúng sanh phải tu tạo già-lam, đúc vẽ tượng Phật, đốt hương rải hoa, thắp đèn lưu ly sáng luôn đêm ngày, làm các thứ công đức như thế mới thành Phật đạo. Nếu dạy chỉ có quán tâm, bỏ hết những chuyện hình tướng thì có phải nói hư dối không? Đáp: Trong kinh Phật dạy như vậy là ngài dùng phương tiện, vì những người độn căn không ngộ được nghĩa lý sâu xa, nên phải mượn pháp hữu vi để chỉ cái vô vi. Chúng ta tu phải lo dẹp phiền não trong tâm, nếu chỉ hướng bên ngoài mong cầu phước báo thì không thể được. Tu tạo già-lam là hằng trừ ba độc, thân tâm lặng lẽ, trong ngoài thanh tịnh. Như vậy hằng ngày giữ sáu căn thanh tịnh là chúng ta đã cất không biết bao nhiêu già-lam. Nếu không lo gìn giữ sáu căn, chỉ lo tìm đất cho rộng, cất chùa cho lớn rồi cho là tu tạo già-lam, thì đã trái với lời Tổ dạy. Nói đúc tạc hình tượng Phật hay vẽ hình tượng Bồ-tát là chúng ta phải tu tập hạnh giác ngộ giống như diệu hạnh, diệu tướng của các ngài. Đó là chúng ta đúc tượng vẽ hình Phật, chứ không phải đúc tượng bằng đồng, vẽ bằng giấy. Nên nói người cầu giải thoát lấy thân làm lò lấy pháp làm lửa, lấy trí tuệ làm thợ khéo, lấy tam tụ tịnh giới lục ba-la-mật làm khuôn mẫu, nấu luyện chân như Phật tánh ở trong thân. Biến nhập tất cả vào trong khuôn phép giới luật, như lời dạy mà hành trì, một cũng không thiếu sót, tự nhiên thành tựu hình tượng chân dung của Phật. Đó gọi là sắc thân vi diệu cứu cánh thường trụ, không phải là pháp hữu vi tan hoại. Nếu không chịu đúc tả chân dung Phật giống như ở đây dạy, thì nương vào đâu mà nói công đức. Lại nói đốt hương cũng không phải là hương có tướng ở thế gian mà chính là hương vô vi chánh pháp vậy, hương này hun đốt các thứ vô minh ác nghiệp hội do thảy đều khiến tiêu diệt. Hương chánh pháp kia có năm thứ: Một là hương giới, đó là hay đoạn các điều ác, tu các điều lành. Hai là hương định, đó là tin sâu Đại thừa tâm không thối chuyển. Ba là hương tuệ, là thường đối với thân tâm tự quán sát trở lại bên trong. Bốn là hương giải thoát, đó là hay đoạn tất cả vô minh trói buộc. Năm là hương giải thoát tri kiến, đó là quán chiếu thường sáng suốt, thông đạt không ngại. Năm thứ hương như thế gọi là hương tối thượng, thế gian không có gì sánh bằng. Phật khi còn tại thế dạy các đệ tử lấy lửa trí tuệ đốt hương báu vô giá như thế để cúng dường mười phương chư Phật. Thời nay chúng sanh không hiểu nghĩa chân thật của Như Lai chỉ lấy lửa bên ngoài đốt các thứ hương trầm của thế gian, hoặc hun đốt các thứ hương bằng chất liệu, hy vọng được phước báo thì làm sao có thể được. Nếu người chỉ hướng bên ngoài cầu phước, thắp hương hết cây này đến cây khác, cho là có phước thì làm sao có được. Hằng ngày phải đốt năm thứ hương chánh pháp như trên, mới được phước báo vô lượng vô biên. Lại tán hoa nghĩa cũng như thế. Đó là diễn nói chánh pháp các thứ hoa công đức lợi ích hữu tình, rải thấm tất cả, đối với tánh chân như khắp thí trang nghiêm. Hoa công đức này Phật khen ngợi là rốt ráo thường trụ không có thời kỳ tàn héo. Nếu lại có người rải hoa như thế thì được phước vô lượng. Nếu nói Như Lai khiến chúng sanh cắt rọc lụa là, thương tổn cỏ cây để làm hoa tán rải thì không có lẽ đó. Vì cớ sao? Vì người giữ giới thanh tịnh, đối với trời đất sum la vạn tượng còn không dám làm xúc phạm, nếu làm phạm còn mắc tội lớn huống là ngày nay cố tình hủy phạm tịnh giới, thương tổn vạn vật để cầu phước báo? Muốn lợi ích mà trở lại thành tổn hại há có thể được sao? Diễn nói chánh pháp cho mọi người nghe hiểu ứng dụng tu hành, đó là tán hoa. Hoa này là hoa công đức. Nếu cắt hoa đem cắm trong bình là làm thương tổn cây cỏ. Cắm trong bình nhiều ngày nước hôi hoa héo, mà nói là cúng dường Phật được phước thì không đúng. Thành ra nhiều khi chúng ta làm trái với ý Phật tổ dạy mà không biết. Như vậy tán hoa là đem giáo lý của Phật chỉ dạy lại cho mọi người nghe lãnh hội tu hành. Hoa này không héo rụng úa tàn. Như tôi đang giảng đây cũng là tán hoa vậy. Đèn thường sáng mãi tức là tâm chánh giác vậy. Tâm chánh giác sáng suốt rõ ràng, dụ đó là đèn. Vì thế tất cả những người cầu giải thoát lấy thân làm đài của đèn, lấy tâm làm tim đèn, lấy việc tăng trưởng giới hạnh làm việc châm dầu cho đèn. Trí tuệ thông sáng dụ như ngọn lửa của đèn thường cháy. Đem đèn chân chánh giác ngộ như thế mà chiếu soi tất cả vô minh si ám, hay lấy pháp luân này thứ lớp khai thị cho nhau, tức là từ một ngọn đèn mồi cho trăm ngàn ngọn đèn, đèn đèn nối tiếp nhau vô tận nên gọi là đốt đèn sáng mãi. Thuở quá khứ, có Phật hiệu là Nhiên Đăng nghĩa cũng như thế. Chúng sanh ngu si không hiểu lời nói phương tiện của Như Lai, chỉ chuyên làm các việc hư dối, chấp trước hữu vi bèn đốt thứ đèn dầu ở thế gian để chiếu soi nhà trống, cho đó là y nơi lời Phật dạy, đâu chẳng phải lầm sao? Vì cớ sao? Phật phóng một đạo hào quang giữa chặng mày có thể chiếu soi tám muôn bốn ngàn thế giới, đâu cần phải nhờ cái đèn tô dầu như thế để được lợi ích! Xét kỹ lý này thật không đúng vậy. Nhiều người cho rằng đốt đèn lưu ly trên bàn Phật cả ngày đêm để được sáng suốt, được phước vô lượng vô biên, điều đó chưa hợp lý. Lại nói nhờ thắp đèn sáng, người ở ngoài trông vào thấy tượng Phật trang nghiêm mà phát tâm nên có phước, như vậy nghe cũng có lý mà nhẹ lắm! Ở đây ngài nói thắp đèn sáng là phải lấy thân mình làm đài của đèn, lấy tâm làm tim đèn, lấy giới hạnh làm dầu. Đèn này đốt lên là đem trí tuệ chiếu phá vô minh si ám, đèn này mồi cho đèn kia, mồi hoài không dứt, đèn đèn truyền sáng, gọi là vô tận đăng. Không phải đốt thứ đèn dầu thô ở thế gian gọi là cúng dường chư Phật, là làm theo lời Phật dạy. Phật phóng một đạo hào quang giữa chặng mày có thể chiếu soi muôn ngàn thế giới, đâu cần cái đèn dầu thô thiển của thế gian làm gì. Thế nên chúng ta phải hiểu kỹ chỗ này mà dụng tâm tu hành, đừng lầm trên sự tướng, lo đốt đèn dầu cúng dường Phật mà không lo thắp sáng đèn trí tuệ để chiếu phá vô minh. Lại sáu thời hành đạo, đó là nói ở nơi sáu căn trong tất cả thời thường hành Phật đạo, tu hạnh giác ngộ, điều phục sáu căn thường thường không bỏ quên, gọi đó là sáu thời hành đạo. Ở các chùa thường chia ra sáu thời, tý ngọ mẹo dậu... mỗi giờ tụng một thời kinh hoặc lễ bái, gọi là sáu thời hành đạo. Tổ dạy sáu thời hành đạo là ở nơi sáu căn thường dùng giác hạnh chiếu soi. Như vậy hai cách hành đạo khác nhau. Một bên là ngày đêm sáu thời tụng kinh lễ bái, một bên là điều phục sáu căn, lúc nào cũng thường tỉnh giác không quên. Như vậy tu theo thời khóa thì đúng giờ mới đi tụng kinh, tu nơi sáu căn thì giờ phút nào cũng tu, tất cả thời đều hành Phật đạo. Nhiễu tháp hành đạo: Tháp đó là thân vậy. Phải tu giác hạnh nhiễu quanh thân tâm, niệm niệm không dừng, gọi là nhiễu tháp. Quá khứ chư thánh đều hành đạo này cho đến khi được Niết-bàn. Người đời nay không hiểu lý này, chẳng hướng bên trong tu hành, chỉ chấp bên ngoài mà cầu đem thân tứ đại nhiễu tháp thế gian, ngày đêm chạy quanh, luống tự nhọc nhằn mà đối với chân tánh trọn không một chút lợi ích. Có những người tu đi quanh tháp Phật ngày đêm, cho là nhiễu tháp hành đạo. Nhưng ở đây Tổ nói tuần hành nơi sáu căn của mình, tức là ngay nơi thân tâm này luôn luôn dùng cái giác hạnh chiếu soi không lơ là, gọi đó là nhiễu tháp hành đạo. Lại trì trai cần phải hội được ý, nếu không thấu được lý này chỉ luống uổng công sức. “Trai” là “tề” vậy. Đó là tề chỉnh thân tâm không khiến cho tán loạn. “Trừ” là “hộ” vậy, nghĩa là đối với các giới hạnh như pháp mà hộ trì. Ắt phải bên ngoài thì ngăn sáu tình, bên trong thì chế tam độc, siêng năng giác sát, thanh tịnh thân tâm. Rõ được nghĩa như thế gọi là trì trai. Về ăn có năm thứ: Một là pháp hỷ thực. Đó là y theo chánh pháp hoan hỷ phụng hành. Hai là thiền duyệt thực. Đó là trong ngoài lóng lặng, thân tâm vui vẻ. Ba là niệm thực. Đó là thường niệm chư Phật, tâm miệng tương ưng. Bốn là nguyện thực. Đó là đi đứng ngồi nằm thường cầu nguyện lành. Năm là giải thoát thực. Đó là tâm thường thanh tịnh không nhiễm trần tục. Năm thứ ăn này gọi là trì trai. Nếu lại có người không ăn năm thứ tịnh thực như thế mà tự nói là trì trai thì không có lẽ đó. Chỉ đoạn cái ăn ở trong vô minh, liền cho đó là đã hiểu thì gọi là phá trai, nếu cũng có phá thì làm sao được phước? Ở đời có người mê không hiểu được lý này, thân tâm buông lung làm các việc ác, tham dục phóng tâm không biết hổ thẹn, chỉ đoạn cái ăn ở bên ngoài tự cho là trì trai, ắt không có lẽ đó. Nhiều người tự khoe tôi từ bé đến lớn trì trai thanh tịnh, mà thật sự họ không hiểu thế nào là trì trai. Tưởng rằng không ăn thịt cá là trì trai. Ở đây ngài dạy chữ trai là tề, tức là tề chỉnh thân tâm không cho tán loạn. Chữ trì là hộ tức giữ gìn giới hạnh. Ở ngoài ngăn sáu tình, ở trong chế ngự tam độc tham sân si. Siêng năng giác sát, thân tâm thanh tịnh gọi là trì trai. Nói trì trai là phải hội được lý này, nếu không hiểu mà trì trai thì chỉ uổng công thôi chứ không được phước. Lại trì trai là phải ăn năm thứ: pháp hỷ thực, thiền duyệt thực, niệm thực, nguyện thực, giải thoát thực. Ăn năm thứ thức ăn này thì gọi là trì trai, nếu không như thế thì chưa phải trì trai. Vì sao? Vì thiếu gì người ăn hoa quả rau trái mà động tới thì nổi sân, rồi cũng mưu này kế kia để gạt thiên hạ, trì trai như vậy có nghĩa gì đâu. Trong đoạn này có một câu hỏi khó hiểu: Chỉ đoạn cái ăn ở trong vô minh, liền cho đó là đã hiểu, gọi là phá trai. Cái ăn ở trong vô minh là cái ăn vật chất thịt cá phân biệt ngon dở. Nếu chỉ đoạn cái ăn này mà cho là đã thực hành trì trai thì chưa đủ. Nên nói nếu cũng có phá trai thì làm sao được phước? Theo Tổ ăn năm thứ tịnh thực kể trên để đoạn trừ vô minh, mới gọi là trì trai. Có người không hiểu được lý này, thân tâm thường buông lung làm các việc ác, phóng tâm tham dục, không biết hổ thẹn, chỉ dứt món ăn bên ngoài như không ăn thịt cá, tự cho là trì trai ắt không có lẽ đó. Lại lễ bái là phải như pháp vậy, ắt phải sáng lý thể bên trong rồi sự mới theo đó mà quyền biến, hội được nghĩa như thế mới gọi là y pháp. Phàm lễ là kính vậy, bái là phục vậy. Đó là cung kính chân tánh khuất phục vô minh, gọi là lễ bái. Nếu hay ác tình hằng đoạn, thiện niệm hằng còn, tuy không có lý tướng mà vẫn gọi là lễ bái. Tướng ấy tức pháp tướng vậy. Thế Tôn muốn khiến người đời biểu hiện tâm khiêm hạ nên cũng dạy làm việc lễ bái, vì thế phải phủ phục cái thân ở bên ngoài, bày tỏ lòng cung kính bên trong. Ngoài giác, trong sáng, tánh tướng tương ưng. Nếu không thực hành theo lý pháp, chỉ chấp bên ngoài mà cầu, bên trong thì phóng túng tham sân si, thường làm các nghiệp ác, ngoài tức luống nhọc thân tướng, trá hiện oai nghi, không thẹn với thánh, luống dối với phàm, không khỏi luân hồi làm sao thành công đức! Đoạn này Tổ dạy lễ bái là phải như pháp. Thế nào là như pháp? Bên ngoài thì luôn luôn cung kính đem thân phủ phục trước Phật. Trong tâm thì hàng phục vô minh, cung kính chân tánh, như vậy gọi là lễ bái. Nếu hằng ngày chúng ta đoạn dứt các niệm ác, giữ gìn và tăng trưởng các niệm thiện thì tuy không có hình thức lễ bái cũng gọi là lễ bái. Tuy nhiên có những người không hiểu như vậy, chỉ cầu hình thức bên ngoài, tới giờ lạy Phật thì lạy lấy lệ, trong tâm thì buông lung tham sân si làm các nghiệp ác, thật là hổ thẹn với Phật, luống dối với chính mình. Người đó không khỏi bị luân hồi, làm sao có công đức! Ở đây Tổ chỉ thẳng vào lý tánh, không đặt nặng sự tướng. Lý tánh là chỗ giác ngộ, sự tướng chỉ là phương tiện bên ngoài. Cho nên hằng ngày chúng ta chưa sống được với lý tánh như ngài dạy, thì ít ra cũng mượn tướng mà hiển tánh. Nếu chỉ chấp tướng lạy Phật mà trong tâm không biết tu thì không có lợi ích gì. Nếu lạy Phật bên ngoài để nhận ra tánh Phật bên trong thì không có lỗi. Cho nên chúng ta có thể mượn sự tướng để hiển bày tâm tánh, nếu nặng về tướng mà không hiển được tánh thì còn si mê. Hỏi: Như kinh đã nói chí tâm niệm Phật ắt được vãng sanh Tây phương tịnh độ. Do một môn này tức được thành Phật đâu cần nhờ quán tâm để cầu giải thoát? Đáp: Phàm niệm Phật thì phải chánh niệm, liễu nghĩa là chánh, không liễu nghĩa là tà. Chánh niệm ắt được vãng sanh, tà niệm làm sao đến được cõi kia! Phật là giác vậy. Đó là giác sát thân tâm, không để cho khởi ác. Niệm là nhớ, tức là nhớ giữ giới hạnh, không quên tinh tấn, liễu nghĩa như thế gọi đó là niệm. Nên biết niệm là ở nơi tâm chẳng phải ở lời nói. Cũng như nhân nơm mà được cá, được cá phải quên nơm. Mượn lời để tìm ý, được ý phải quên lời. Đã xưng danh niệm Phật phải biết đạo niệm Phật. Nếu tâm không thật, miệng tụng danh suông, ba độc bên trong lừng lẫy nhân ngã đầy bụng, đem cái tâm vô minh hướng bên ngoài cầu Phật, chỉ luống uổng công mà thôi. Vả lại, tụng cùng với niệm nghĩa lý khác nhau. Tại miệng gọi là tụng, tại tâm gọi là niệm. Nên biết niệm từ tâm khởi gọi là cửa giác hạnh. Tụng là từ nơi miệng phát ra, đó là tướng âm thanh, chấp bên ngoài cầu lý trọn không có lẽ đó. Nên biết quá khứ chư thánh chỗ tu niệm đều chẳng phải nói ở bên ngoài, chỉ xét ở trong tâm. Tâm là nguồn của tất cả pháp lành, tâm là chủ của muôn đức. Niết-bàn thường lạc đều do chân tâm mà sanh, ba cõi luân hồi cũng từ nơi tâm khởi. Tâm là cửa nẻo xuất thế, tâm là bến bờ giải thoát. Biết cửa rồi lo gì khó vào, rõ bến bờ rồi lo gì chẳng qua! Hiện giờ có nhiều người hiểu lầm, nghe nói niệm Phật được vãng sanh rồi miệng cứ niệm Nam-mô A-di-đà Phật, như vậy là niệm hay đọc? Niệm là tâm niệm, đọc là tụng ở miệng. Ở đây miệng chúng ta nói Nam-mô A-di-đà Phật là đọc tụng chứ không phải niệm. Niệm Phật như Tổ dạy là phải nhớ cái giác hạnh của Phật, rồi xét nét lại tâm mình không cho lầm lẫn, không cho khởi niệm ác. Niệm là ở nơi tâm, không phải do lời nói, niệm là nhớ giữ giới hạnh, nhớ tinh tấn. Cho nên niệm Phật là phải chánh niệm, có chánh niệm thì ắt được vãng sanh. Hỏi: Như kinh Ôn Thất nói “Tắm gội cho chúng tăng được phước vô lượng”. Đây tức nương nơi pháp sự, công đức mới thành, nếu làm việc “quán tâm” làm sao tương ưng? Đáp: Tắm gội chúng tăng, chẳng phải là việc hữu vi của thế gian. Đức Thế Tôn từng vì các đệ tử nói kinh Ôn Thất (cái nhà ấm) muốn khiến cho họ thọ trì pháp tắm gội. Cái nhà ấm kia tức là thân vậy. Vì thế cho nên đốt lửa trí tuệ, hâm nóng nước tịnh giới để tẩy rửa chân như Phật tánh trong thân, thọ trì bảy pháp để tự trang nghiêm. Thuở ấy các Tỳ-kheo thông minh thượng trí đều ngộ thánh ý, như lời Phật dạy mà tu hành, công đức thành tựu đều lên thánh quả. Ngày nay chúng sanh không lường được việc này, đem nước thế gian rửa cái thân tứ đại tự bảo là y kinh, há chẳng phải là lầm sao! Vả lại chân như Phật tánh chẳng phải là thân phàm phu, phiền não trần cấu xưa nay không tướng, đâu thể đem nước chất ngại rửa cái thân vô vi! Sự đã chẳng tương ưng làm sao ngộ đạo? Nếu muốn thân được thanh tịnh phải quán thân này vốn do tham dục bất tịnh mà sanh, trong ngoài đầy dẫy nhơ nhớp hôi hám. Nếu muốn tẩy rửa thân này cầu cho được thanh tịnh giống như rửa cái đường hào bằng đất, đất hết mới sạch! Lấy lẽ này mà nghiệm rõ thì biết tẩy rửa cái thân bên ngoài chẳng phải là ý Phật nói. Thế nên tạm mượn việc thế gian để dụ cho chân tâm, ẩn nói bảy việc cúng dường công đức. Việc ấy có bảy. Thế nào là bảy việc? Một là nước sạch, hai là lửa đốt, ba là táo đậu, bốn là nhành dương, năm là tro sạch, sáu là cao tô, bảy là áo trong. Nêu bảy việc để dụ cho bảy pháp, tất cả chúng sanh do bảy pháp này tắm gội trang nghiêm hay trừ được tâm độc vô minh cấu uế. Bảy pháp đó là: Một là tịnh giới rửa sạch tội lỗi, giống như nước trong rửa sạch bụi dơ. Hai là trí tuệ quán sát trong ngoài, giống như củi lửa hay đun nóng nước sạch. Ba là phân biệt loại bỏ các ác, giống như táo đậu (xà bông) hay làm sạch cấu bẩn. Bốn là chân thật đoạn các vọng tưởng, giống như nhành dương làm tiêu mùi hôi trong miệng. Năm là chánh tín quyết định không nghi, giống như tro sạch xoa chà trên thân để ngăn gió. Sáu là nhu hòa nhẫn nhục cam chịu, giống như cao tô làm thông nhuận da ngoài. Bảy là hổ thẹn, hối các ác nghiệp, giống như áo trong để che đậy cái hình thể xấu xí. Bảy pháp như trên là nghĩa bí mật ở trong kinh, đều là vì những bậc đại thừa lợi căn mà nói chẳng phải vì phàm phu thiếu trí hạ liệt. Sở dĩ người thời nay không thể giải ngộ, vì trộm thấy thời này sự hiểu biết cạn cợt, chỉ lấy sự tướng làm công phu rồi rộng bày ra những việc phí tiền của, tốn kém nước nôi, đối lập tượng tháp, vọng sắp đặt phu dịch, chứa cây nhóm bùn, tô xanh vẽ lục, dốc tâm tận lực, tổn mình mê người, chưa biết hổ thẹn đâu từng giác ngộ. Thấy hữu vi thì siêng năng đắm mến, nghe nói vô vi thì ngờ nghệch như mê. Vả lại, ham một chút lòng từ của hiện đời đâu biết cái khổ lớn ở đời sau. Tu học như thế luống tự nhọc nhằn, trái với chánh theo về tà, ai nói là được phước? Chỉ hay quán tâm chiếu soi bên trong, giác quán rõ ràng bên ngoài, đoạn dứt ba độc khiến cho vĩnh viễn tiêu mất, đóng cửa sáu giặc không cho nó quấy nhiễu, tự nhiên hằng sa công đức các thứ trang nghiêm, vô số pháp môn mỗi mỗi thành tựu, siêu phàm chứng thánh trước mắt không xa, ngộ chỉ trong chốc lát đâu phiền đợi đến lúc bạc đầu. Cửa chân thật sâu kín, đâu thể trình bày cho đầy đủ tường tận được. Đoạn này nêu câu hỏi: Như kinh Ôn Thất nói tắm gội cho chúng tăng được phước vô lượng. Đây tức nương nơi pháp sự, công đức mới thành, nếu làm việc quán tâm làm sao tương ưng? Theo ngài, chúng tăng tắm gội chẳng phải là việc hữu vi của thế gian. Phép tẩy dục ở đây là đốt lửa trí tuệ, hâm nóng nước tịnh giới, tắm gội chân như Phật tánh chứ không phải tắm gội thân tứ đại này. Nhưng chân như Phật tánh xưa nay không tướng đâu thể đem nước thế gian mà gội rửa. Như vậy phép tẩy dục theo ngài là tẩy rửa bụi dơ che lấp Phật tánh chứ không phải tắm gội thân tứ đại. Thân này vốn là bất tịnh, chúng ta tắm gội sạch rồi một lát nó cũng bất tịnh. Nguyên thể của nó là bất tịnh, muốn tịnh cũng không được. Do đây mà nghiệm xét ý Phật muốn nói thì không phải tắm gội bên ngoài thân, mà Phật muốn mượn việc thế gian để nói bảy việc công đức cúng dường. Bảy việc này dụ cho bảy pháp, tất cả chúng sanh dùng bảy pháp này tắm gội trang nghiêm, trừ sạch tâm độc vô minh cấu uế. Như vậy gọi là tắm gội. Bảy pháp đó là: Một là tịnh giới rửa sạch tội lỗi, giống như nước trong rửa sạch bụi dơ. Hai là trí tuệ quán sát trong ngoài, giống như củi lửa hay đun nóng nước sạch. Ba là phân biệt loại bỏ các ác, giống như táo đậu (xà bông) hay làm sạch cấu bẩn. Bốn là chân thật đoạn các vọng tưởng, giống như nhành dương làm tiêu mùi hôi trong miệng. Người Ấn Độ sáng thức dậy lấy nhành dương nhai là để trừ hơi hôi trong miệng, cũng như bây giờ chúng ta đánh răng buổi sáng bằng kem vậy. Năm là chánh tín quyết định không nghi, giống như tro sạch xoa chà trên thân để ngăn gió. Sáu là nhu hòa nhẫn nhục cam chịu, giống như cao tô làm thông nhuận da ngoài. Bảy là hổ thẹn, hối các ác nghiệp, giống như áo trong để che đậy cái hình thể xấu xí. Bảy pháp như trên là nghĩa bí mật ở trong kinh, đều vì những bậc đại thừa lợi căn mà nói chẳng phải vì phàm phu thiếu trí hạ liệt. Sở dĩ người thời nay không thể giải ngộ, vì hiểu biết cạn cợt, chỉ lấy sự tướng làm công phu rồi rộng bày ra những việc phí tiền của, tốn kém nước nôi, dối lập tượng tháp, vọng sắp đặt phu dịch, chứa cây nhóm bùn, tô xanh vẽ lục, dốc tâm tận lực, tổn mình mê người, chưa biết hổ thẹn đâu từng giác ngộ. Thấy hữu vi thì siêng năng đắm mến, nghe nói vô vi thì ngờ nghệch như mê. Lược nói về quán tâm chỉ nói được chút ít, nên nói kệ rằng: Ta xưa cầu tâm tâm tự giữ, Cầu tâm không được đợi tâm biết, Phật tánh không từ ngoài tâm được, Tâm sanh bèn là lúc tội sanh. Ta xưa cầu tâm chẳng cầu Phật, Rõ biết tam giới không không vật, Nếu muốn cầu Phật chỉ cầu tâm, Chỉ tâm tâm tâm ấy là Phật. Lược nói về quán tâm chỉ nói được chút ít, nên nói kệ rằng: Ta xưa cầu tâm tâm tự giữ, Cầu tâm không được đợi tâm biết, Phật tánh không từ ngoài tâm được, Tâm sanh bèn là lúc tội sanh. Bài kệ này Tổ kết thúc cho chúng ta thấy một pháp môn tu. Ý bốn câu đầu Tổ dạy người tu hành xưa nay chủ yếu là cầu được tâm. Ở đây Tổ nói cầu tâm không được đợi tâm biết. Tại sao? Khi mình cầu tâm thì đã mất tâm rồi, lấy gì mà cầu. Đã là tâm mà còn cầu tức là có hai cái tâm, vì vậy nói cầu tâm không được. Không cần cầu tâm, mà chỉ hết vọng tưởng thì nhận ra tâm thanh tịnh, tạm gọi là biết tâm. Đợi tâm biết nguyên chữ Hán là đãi tâm tri, tức là hết đối đãi thì biết được tâm. Phật tánh không phải từ ngoài tâm mà được. Nếu tâm vừa khởi niệm thì tội đã sanh. Như vậy ai muốn hết tội thì đừng khởi niệm. Ta xưa cầu tâm chẳng cầu Phật, Rõ biết tam giới không không vật, Nếu muốn cầu Phật chỉ cầu tâm, Chỉ tâm tâm tâm ấy là Phật. Chúng ta cứ đi tìm Phật ngoài tâm mà không biết tâm mình chính là Phật. Ngoài tâm ra không có một vật gì thật, nên nói rõ biết tam giới không không vật. Muốn cầu Phật cứ ngay nơi tâm mình mà cầu, cầu mà không cầu, chỉ trở về với bản tâm thì đó là cầu Phật. Cho nên ngài nhấn mạnh chỉ tâm tâm tâm ấy là Phật chứ không có gì khác. Cửa thứ hai Tổ nói về Phá Tướng, là muốn chúng ta phải dẹp bỏ tất cả hình thức bên ngoài để nhận ra bản tâm. Mục đích chúng ta tu là để giác ngộ thành Phật, nếu còn nặng về hình tướng thì không giác ngộ. Con người sống có hai hướng, một là hướng nội hai là hướng ngoại. Nếu nặng về hướng ngoại thì quên hướng nội, nếu hướng nội thì quên bên ngoài. Do đó muốn trở về tâm thì không thể hướng ngoại. Vì vậy nếu nặng về hình tướng bên ngoài thì không thể nhận ra bản tâm. Cho nên Tổ mới phá hết tất cả sự tướng bên ngoài để chỉ thẳng bản tâm. Muốn nhận ra bản tâm thì phải bớt hình thức, vì hình thức nhiều sẽ chướng ngại cho việc hướng nội. Có nhiều người không hiểu cho rằng Tổ chỉ nói lý mà bỏ sự, nhưng sự thật muốn đạt lý thì phải quên sự, nếu chấp sự làm sao đạt lý. Tóm lại, cửa này gọi là phá tướng, nghĩa là phá những hình tướng để chúng ta đạt được lý, mà lý là tâm, trở về tâm là đạt lý. Mục Lục
|
Thanh Từ Toàn Tập 16 - Thiền Tông Trung Hoa 1
Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất Giảng Giải
Tín Tâm Minh Giảng Giải
Tối Thượng Thừa Luận Giảng Giải
Chứng Đạo Ca Giảng Giải
|
Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất Giảng Giải
Cửa Thứ Hai - Phá Tướng Luận
Tín Tâm Minh Giảng Giải
Tối Thượng Thừa Luận Giảng Giải
Chứng Đạo Ca Giảng Giải