Luận Giải Thi Tụng Mười Bức Tranh Chăn Trâu Giảng Giải (1999)
Phần II - Vấn Đáp Về Các Tranh Chăn Trâu (Giảng 1)
Trong phần thứ nhất chỉ là những lời luận giải của ngài Quảng Trí trước khi vào đề, đến đây mới đi thẳng vào đề là Mười tranh chăn trâu. Ngài Quảng Trí trình bày rất rõ ràng thấu đáo chỗ thấy hiểu của Ngài, chúng ta ứng dụng tu sẽ có kết quả tốt. Sắp giải lời tụng Tranh chăn trâu nên ngài Quảng Trí đặt câu hỏi đáp để làm sáng tỏ. Kính nghe, Tổ đạo mới hưng, phần diệu Bồ-đề làm đổi mới cả hai cõi. Ngọn chân phong riêng hiển lộ, pháp Đạt-ma đầu tiên mở mang ở phương Đông. Mở đầu ngài Quảng Trí nói: Cung kính nghe được Tổ đạo. Tổ đạo tức là Thiền tông từ Tổ Đạt-ma truyền sang. “Mới hưng” là mới được hưng khởi hay mới được hưng thạnh. “Phần diệu Bồ-đề làm đổi mới cả hai cõi” là phần Bồ-đề mầu nhiệm này làm đổi mới cả Ấn Độ cũng như Trung Hoa. Đức Phật dạy đạo giác ngộ rất là sâu mầu, nhưng lúc đầu Ngài chỉ dạy các giáo lý nặng về phân chia đối đãi, còn phần sâu thẳm này Ngài chưa nói rõ. Chỉ từ Tổ Ca-diếp mãi đến Tổ Đạt-ma, hai mươi tám vị Tổ mới đem diệu Bồ-đề này làm cho hai nước Ấn Độ và Trung Hoa có một nguồn sinh lực kỳ đặc trong Phật pháp, vì vậy nói phần diệu Bồ-đề làm đổi mới cả hai cõi. Ngọn chân phong riêng hiển lộ, pháp Đạt-ma đầu tiên mở mang ở phương Đông. Ngọn gió chân được hiển bày thì Tổ Đạt-ma là người đầu tiên đem pháp này truyền đến Trung Quốc ở phương Đông. Ngưỡng trông Tổ đạo từ Tây sang, thầm bày ý chỉ riêng truyền. Cơ linh chợt gõ, tâm nguyên không vô Thánh. Bẻ cành lau thẳng ra biển, chín năm ngó vách công đức cao vời. Chiếc dép trở về Tây, ngàn năm đạo hưng thạnh mãi mãi. Ân thấm khắp nơi, rừng thiền gánh vác vun bồi. Gương tuệ treo cao, nơi học địa càng mới thêm giác chiếu. Bởi Tổ đạo tùy nghi, lại thuận theo đời mà trọn lặng. Chẳng bỏ lòng từ, mới đến nơi đây, ai hay kiêng tránh? “Ngưỡng trông Tổ đạo từ Tây sang” tức là Thiền tông từ Tổ Đạt-ma ở Ấn Độ Tây Thiên Trúc truyền sang Trung Quốc. “Thầm bày ý chỉ riêng truyền” là thầm chỉ bày ý chỉ biệt truyền. Giáo ngoại biệt truyền gọi là riêng truyền. Cơ linh chợt gõ, tâm nguyên không vô Thánh. Câu này mới nghe rất là khó hiểu. Tổ Đạt-ma khi đến phương Nam nước Trung Hoa, gặp vua Lương Võ Đế, Vua nghe Tổ đến liền cho người đón về triều. Khi Tổ vào triều, câu hỏi đầu tiên của nhà vua là: Bạch Ngài, tôi đã từng cất chùa, độ Tăng, cúng dường... như vậy có công đức nhiều ít? Tổ trả lời: Không công đức. Đó là tạt một gáo nước lạnh vào mặt nhà vua, Vua không vui mới hỏi tiếp: Thế nào là Đệ nhất Thánh đế? Tức là ở đây câu “tâm nguyên không”, nghĩa là tâm thể rỗng lặng, Tổ đáp ngay: Thênh thang không Thánh. Nói không Thánh làm cho vua Lương Võ Đế thất vọng. Vua hỏi thêm: Vậy đối trẫm là ai? Tổ trả lời: Không biết. Luôn ba câu đáp dường như là ba gáo nước lạnh tạt vào mặt nhà vua nên Vua không vui. Tổ biết cơ duyên không thuận, nhà vua không hiểu mình nên: Bẻ cành lau thẳng ra biển, chín năm ngó vách công đức cao vời. Do đó Ngài qua sông, nói cành lau qua biển nhưng thật ra là cành lau qua sông vì chỗ của vua Lương Võ Đế là đất Nam Kinh, ở gần bờ sông Trường Giang hay sông Dương Tử, nay muốn sang phương Bắc, Ngài đến bờ sông bẻ cành lau bỏ xuống làm như con thuyền đi qua sông. Ngài đi thẳng về phương Bắc đến chùa Thiếu Lâm, chín năm ngồi xây mặt vào vách. Như vậy đoạn này diễn tả khi Tổ Đạt-ma sang Trung Hoa, Ngài muốn truyền bá câu châm ngôn “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Vua Lương Võ Đế tuy hiểu kinh rất giỏi, rành rẽ kinh Kim Cang, kinh Bát-nhã, nhưng qua lý này nhà vua không lãnh hội được, nên khi hỏi về công đức cất chùa độ Tăng v.v... Tổ đáp không công đức, Vua thấy có một cái gì không ổn; Vua hỏi tiếp: thế nào là Đệ nhất Thánh đế, thì Tổ đáp rỗng thênh không Thánh, đó là điều thứ hai không ổn; đến câu thứ ba: vậy đối trẫm là ai, Tổ đáp không biết. Một mạch ba câu, không câu nào nhà vua chấp nhận, cho nên Tổ biết duyên chưa đến, liền ban đêm lén bỏ cung vua qua sông đi về phương Bắc đến chùa Thiếu Lâm. Đến đấy Tổ biết cơ duyên độ người chưa đến, Tổ mới chín năm ngồi xây mặt vào vách. Sau Thần Quang đến và Tổ hướng dẫn cho ngộ đạo rồi trao y bát cho Thần Quang, đổi tên là Huệ Khả. Từ đó Tổ mới quảy một “chiếc dép trở về Tây, ngàn năm đạo hưng thạnh mãi mãi”. Tổ quảy một chiếc dép trở về Ấn Độ, nhưng ở Trung Hoa cả ngàn năm sau, đạo Tổ hay là Thiền tông vẫn hưng thạnh. Ân thấm khắp nơi, rừng thiền gánh vác vun bồi. Ân đức của Tổ truyền bá, mọi nơi đều thấm nhuần, đều mang ân trọng. Trong rừng thiền, những người sau, các Thiền sư đều là người gánh vác vun bồi. Gương tuệ treo cao, nơi học địa càng mới thêm giác chiếu. Gương trí tuệ của Ngài chỉ cho mọi người nhận ra hiểu thấu chẳng khác nào gương sáng treo trên cao; mỗi người trên phương diện tu học tiến vào hàng học đạo cao siêu, càng ngày càng được lối đi sáng suốt, tỉnh giác chiếu soi rõ ràng. Đó là tán thán công đức của Tổ Đạt-ma. Bởi Tổ đạo tùy nghi, lại thuận theo đời mà trọn lặng. Đạo Thiền là đạo tùy theo trình độ, tùy theo hoàn cảnh của mỗi nơi, đó là tùy nghi; lại thuận theo đời, nơi nào xứ nào cũng tùy theo tâm tánh những người nơi đó mà khéo uốn nắn, khéo hướng dẫn cho họ đều trở thành hoàn toàn thanh tịnh. Chẳng bỏ lòng từ mới đến nơi đây, ai hay kiêng tránh? Tổ muốn đem chánh pháp nhãn tạng truyền bá ở phương Đông, đó là lòng từ bi lớn lao của Tổ, nên Ngài mới đến Trung Hoa. Như vậy Tổ là người có tấm lòng hi sinh cao cả, đem đạo truyền bá một nơi xa lạ, không ngại những khó khăn, nên nói “ai hay kiêng tránh” tức là không tránh né, không e sợ. Tổ xuống thuyền ra biển trải qua một thời gian khá dài mới đến Trung Hoa truyền đạo. Đó là chuyện hi hữu, phải là một con người can đảm kiên cường mới có thể làm được. Đây là phần tán thán công đức Tổ Đạt-ma đối với Thiền tông. Vả lại chánh pháp nhãn tạng là chỗ truyền bày của Phật Tổ. Cửa lớn cam lồ, thật là chỗ ước mong của người học. Rộng tu nơi hệ quán, ai bảo là siêu phàm nhập Thánh? Dứt sạch không dấu vết, xưa nay thông suốt cả đất trời. Ý chỉ của đức Phật chúng ta, khó lường khó nghĩ. Công của tự tánh, trọn vẹn thủy chung. Như tâm cấu nhiễm chẳng thôi dứt, thôi dứt tức Bồ-đề. Tâm nhơ sạch đã sáng tỏ, thì xưa nay chính là Phật. Đến đây ngài Quảng Trí nói thẳng về Thiền tông, nói về chủ yếu của chánh pháp mà Tổ Đạt-ma đã truyền sang Trung Quốc và các nước sau này. “Chánh pháp nhãn tạng” nói theo nghĩa thường, chánh pháp là pháp chân chánh, tạng là kho, nhãn tạng là kho tàng con mắt, tức là cái chánh pháp mà đức Phật chỉ cho Tổ Ca-diếp, cũng như Tổ Đạt-ma truyền sang cho Tổ Huệ Khả. Chánh pháp nhãn tạng là kho con mắt của chánh pháp tức là cái gốc của sự giác ngộ, là chỗ truyền bày của Phật của Tổ. Cửa lớn cam lồ thật là chỗ ước mong của người học. Cam lồ có chỗ đọc là cam lộ, lòng từ bi của chư Phật thường dụ như nước cam lồ. Chánh pháp nhãn tạng này đem chỉ dạy cho mọi người, là lòng từ bi mở rộng của Phật của Tổ, nên nói cửa lớn cam lồ, tức là cửa lớn của từ bi, cũng là cửa lớn của chánh pháp. Thật là chỗ ước mong của người học. Ai học cũng mơ ước đến chỗ cứu kính mà đây là pháp cứu kính. Rộng tu nơi hệ quán, ai bảo là siêu phàm nhập Thánh? Trước khi Tổ Đạt-ma sang, ở Trung Hoa những vị tu thiền đều dùng pháp quán chiếu hoặc là quán về Tứ niệm xứ như các vị tu theo hệ A-hàm, hoặc quán các pháp là không theo hệ Bát-nhã v.v... Nhưng dù tu theo các hệ quán đó cũng chưa phải là siêu phàm nhập Thánh, vì còn có chỗ cột tâm. Quán là phải quán chiếu, thí dụ như hệ Bát-nhã quán các pháp như huyễn, lúc nào cũng thấy tướng huyễn hóa của các pháp mà không thấy được tướng chân thật, như vậy chưa phải là siêu phàm nhập Thánh. Dứt sạch không dấu vết, xưa nay thông suốt cả đất trời. Thiền tông là dứt sạch không còn hai bên, không còn huyễn cũng không còn thật, không còn có cũng không còn không, tức là dứt sạch hết không có dấu vết. Khi tâm mình không còn một vết nào thì đó là thông suốt cả đất trời. Ý chỉ của đức Phật chúng ta khó lường khó nghĩ. Thế nên chỗ đức Phật chú tâm lưu ý để dạy những đệ tử lớn là chỗ thật khó lường khó nghĩ. Công của tự tánh trọn vẹn thủy chung. Công của Tự tánh tức của Tánh giác mới thật là trọn vẹn thủy chung. Thủy là trước, chung là sau, nghĩa là Tánh giác của chúng ta là một cái từ xưa mãi đến sau này không bao giờ đổi thay, không bao giờ sanh diệt nên nói là trọn vẹn thủy chung. Như tâm cấu nhiễm chẳng thôi dứt, thôi dứt tức Bồ-đề. Trong tâm chúng ta hiện nay có những thói quen cấu nhiễm. Cấu nhiễm là nhơ bẩn. Những gì là nhơ bẩn? Tham, sân, si là nhơ bẩn, ngã mạn, kiêu căng ... là nhơ bẩn, tất cả đều là tâm cấu nhiễm. Phàm phu thì tâm cấu nhiễm chẳng thôi dứt, mà một khi thôi dứt tức là Bồ-đề, là giác ngộ chớ không có gì lạ, như để bàn tay úp, lật lại là ngửa. Đang nuôi dưỡng cấu nhiễm dụ như bàn tay úp, nay buông bỏ cấu nhiễm là như bàn tay lật ngửa lại, dễ hay khó? xa hay gần? Cấu nhiễm cũng nơi đó, Bồ-đề cũng nơi đó, không có hai. Đó là mục tiêu, chủ yếu mà đức Phật và chư Tổ chỉ cho chúng ta tu, tu là dứt sạch những cấu nhiễm, cấu nhiễm dứt thì Bồ-đề hiện. Tâm nhơ sạch đã sáng tỏ thì xưa nay chính là Phật. Tâm nhơ, tâm sạch mình đã biết, đã thấy tường tận thì cái thấy tường tận tâm nhơ tâm sạch chính là tâm Bồ-đề, tâm chư Phật. Cho nên chúng ta đừng đi tìm Phật ở đâu mà chính chúng ta phải sạch hết những tâm đối đãi tức là tâm chấp nhơ, tâm chấp sạch đều thấu rõ tường tận thì Phật ngay chúng ta chớ không ở đâu xa. Bởi Phật Tổ tùy nghi lập giáo, nên những người tu trước, hoặc sau đều nhận được ân huệ. Song theo tánh tu thân để đạt đạo trong hoàn vũ. Vui với lý thiên nhiên biết rõ tánh mạng là thiền siêu vật ngoại. Khóa vàng chóng mở, thì không luận mình hay người đều giải thoát. Khối nghi đã vỡ, cần gì phải trù tính kia đây? Nên nói: “Về nguồn không hai lối, phương tiện có nhiều môn.” Bởi tranh này chính là tranh chỉ thẳng, vốn vì hàng sơ cơ trung hạ mà lập bày; còn bậc căn khí Đại thừa trí bén, thì chẳng ở lời này. “Bởi Phật Tổ tùy nghi lập giáo, nên những người tu trước, hoặc sau đều nhận được ân huệ.” Đức Phật và chư Tổ tùy theo hoàn cảnh, phương tiện mà lập ra giáo pháp chỉ dạy mọi người, nên những người tu trước hoặc những người tu sau đều nhận được ân huệ của Phật, Tổ. Như trong kinh A-hàm, đức Phật dạy tu thiền quán Tứ niệm xứ là quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Đức Phật nói rõ người nào nơi Tứ niệm xứ, trụ tâm không dời đổi trong vòng bảy năm thì người đó sẽ chứng quả từ Tu-đà-hoàn đến Cứu kính trí hoặc A-na-hàm. Rồi Phật bớt dần xuống còn bảy tháng, bảy ngày bảy đêm nếu trụ tâm không dời đổi nơi Tứ niệm xứ thì sẽ chứng Cứu kính trí hoặc A-na-hàm. Vậy tu khó hay dễ? Bảy ngày không có nhiều, chỉ trong vòng bảy ngày thì chứng quả, chớ đâu có nói mười năm, hai mươi năm, một kiếp, hai kiếp. Nhưng chúng ta trụ tâm được không? Chỉ có khoảng một giờ mà nó còn chạy tứ tung, ngồi ngó xuống chăm chăm mà nó còn chạy ngược chạy xuôi, huống nữa là đến một ngày! Đó là nói về Thiền. Về Tịnh độ thì trong kinh dạy rất rõ: Hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày hoặc bốn ngày cho đến bảy ngày niệm danh hiệu Phật A-di-đà, nhất tâm bất loạn thì khi nhắm mắt được về cõi Phật. Nghĩa là hoặc một ngày, hoặc hai ngày... đến bảy ngày trụ nơi danh hiệu đức Phật A-di-đà không dời đổi, tức là không có niệm nào chen vào thì khi nhắm mắt nhất định được về cõi Phật. Như vậy cả hai cũng giống nhau, đó là phương tiện. Người thích niệm Phật thì dạy niệm Phật, người thích thiền quán thì dạy thiền quán, đều phải trụ tâm bảy ngày không dời đổi mới thành công. Nay tôi chỉ yêu cầu một giờ thôi, người nào một giờ mà tâm không dời đổi thì người đó cũng là khá rồi, là hàng thiện tri thức bậc một đó. Một giờ nghe gần quá, nhưng chưa hẳn một giờ chúng ta trụ tâm nổi vì chúng ta quen chạy ngược chạy xuôi, chạy đông chạy tây, không biết chạy để làm gì! Nhiều niệm vô lý vô cớ mà cũng cứ nghĩ, đó là cái tâm dao động không làm chủ được. Nhưng khi chúng ta làm chủ được thì nó sẽ dừng lại rồi từ đó chúng ta mới có sức mạnh điều khiển hoặc dẹp được nó. Còn nếu chúng ta chạy theo nó thì suốt kiếp chạy theo tâm vọng tưởng. Vọng tưởng là nhân tạo nghiệp, chạy theo nó là chạy theo nghiệp, nên khi nhắm mắt nó dẫn chúng ta chạy hết chỗ này đến chỗ kia, gặp chỗ đúng thì ở lâu, chỗ không đúng thì năm ba năm, hai ba tháng lại bỏ đi kiếm chỗ khác, cứ như thế mà chạy nên nói nó dẫn chúng ta đi trong luân hồi, tức là trầm luân trong sanh tử. Nay muốn hết luân hồi thì phải làm chủ nó. Chuyện rất đơn giản. Tại sao chúng ta luân hồi? Vì vọng tưởng tạo thành nghiệp dẫn chúng ta đi, nay muốn dừng nghiệp thì chúng ta phải làm chủ vọng tưởng. Khi nào vọng tưởng lặng hết, chỉ còn một tâm sáng rỡ, thì lúc đó hết luân hồi, đó là giác ngộ là giải thoát, nói hơi to một chút thì đó là Phật. Như vậy việc tu dường như khó mà không phải khó, không phải khó tức là dễ, mà cũng không phải dễ. Phải là người gan dạ can đảm lắm mới làm mau, còn người nào nhút nhát yếu đuối thì không thể thành tựu. Đó là chỗ chân thật Phật Tổ đã dạy. Dầu cho quán Tứ niệm xứ hay niệm Phật được nhiếp tâm đều có lợi ích. Song theo tánh tu thân để đạt đạo trong hoàn vũ. Vui với lý thiên nhiên biết rõ tánh mạng là thiền siêu vật ngoại. Những pháp tùy nghi lập giáo là những pháp ai tu cũng đều có lợi ích. Nhưng ngay trong cõi đời này, chúng ta nhận ra Bản tánh của mình để tu ngay nơi thân mình, sống với lý thiên nhiên, biết rõ tánh mạng, không phải là tánh mạng theo Nho, mà là biết rõ được nơi mình có Tánh giác bất sanh bất diệt, đó là người tu thiền siêu vật ngoại, vượt ngoài tất cả các hiện tượng đối đãi sanh diệt. Đó là lối tu thiền cao siêu hơn cả, không phải là tùy nghi lập giáo, mà là chỉ thẳng tâm tánh của chính mình. Nhận được Tánh giác hằng nhiên bất sanh bất diệt, ngay nơi đó mình tu, thì đó là thiền siêu vật ngoại. Khóa vàng chóng mở, thì không luận mình hay người đều giải thoát. Khóa vàng là dịch chữ kim tỏa, trong nhà thiền là chỉ chúng ta bị những vòng dây xích bằng vàng xiềng lại. Những dây xích bằng sắt, bằng chì, kẽm với dây xích bằng vàng xiềng mình thì chúng ta chịu cái nào hơn? Dây xích bằng sắt, chì, kẽm xem xấu quá, khổ quá, nếu xích bằng vàng thì khổ không? Người ta tưởng xích bằng vàng là đẹp vì con người thích những gì quí giá, nhưng thật ra xích bằng vàng mới là đáng sợ hơn. Ở thế gian người ta thường sợ những cảnh trái nghịch mà thích những cảnh tốt thuận. Người tu thì ngược lại. Thí dụ như có một Phật tử hâm mộ tu hành, nếu Phật tử đó bị anh em ghét bỏ, cha mẹ không ưa thì đi tu rất dễ. Gia đình không thương, đó là nghịch cảnh nhưng đối với sự tu hành lại rất là thuận. Trái lại có người thích đi tu mà cha mẹ thương không nỡ rời một ngày, anh em cũng quí trọng thì người đó rất khó đi tu. Đó là cái khóa vàng. Dây xích bằng kẽm, bằng sắt, bằng chì chúng ta sợ, chúng ta tránh, còn khóa vàng thấy đẹp quá nên thích thành ra bị khóa lại mở không được. Nói thẳng, người tu khi vào đạo được thầy thương bạn quí muốn gì cũng được như ý, người đó tu khó tiến. Còn người tu bị những trận rầy quở, rồi phiền não v.v... mà vượt qua được thì tu mới tiến. Cho nên đừng đòi hỏi vào đạo phải được mọi điều như ý. Chính những điều bất như ý là cơ hội tốt để mình tiến lên, còn những việc như ý là những khóa vàng làm chúng ta dính kẹt mãi. Khóa sắt mở ra, được giải thoát là chuyện thường, khóa vàng mở chúng ta cũng được giải thoát. Người ta trói mình bằng dây xích sắt hay trói mình bằng dây xích vàng thì hai cái khổ cũng giống nhau, vì đều là bị trói. Cho nên đây nói khi thoát được khóa vàng thì không luận mình hay người đều được giải thoát. Khối nghi đã vỡ, cần gì phải trù tính kia đây? Nếu người tu thiền mà khối nghi nát rồi thì đừng nói là kia là đây, tức là không còn thấy hai nữa, đều đi tới giải thoát. Nên nói: “Về nguồn không hai lối, phương tiện có nhiều môn.” Về nguồn là trở về cội gốc, nguồn chỉ là một thôi nhưng phương tiện thì dường như có nhiều thứ nên nói có nhiều môn. Bởi tranh này chính là tranh chỉ thẳng. Mười bức tranh chăn trâu là mười bức tranh chỉ thẳng theo tánh cách Thiền tông. Vốn vì hàng sơ cơ trung hạ mà lập bày. Vì người tu còn bậc hạ căn, bậc trung căn nên lập ra để chỉ cho họ tu. Còn bậc căn khí Đại thừa trí bén, thì chẳng ở lời này. Ai thuộc về hạng thượng căn thượng trí Đại thừa thì nhìn liền hiểu khỏi cần phải học từng bức tranh. Vậy những bức tranh này dành cho người trung căn, hạ căn muốn tu thiền. Quí vị nhắm mình thuộc hạng nào? Nếu thượng căn thì xếp lại, nếu trung hạ căn thì phải học kỹ. Mục Lục
|
Luận Giải Thi Tụng Mười Bức Tranh Chăn Trâu Giảng Giải (1999)
|
Phần II - Vấn Đáp Về Các Tranh Chăn Trâu (Giảng 1)
Phần II - Luận Giải Các Bài Tụng Tranh Chăn Trâu Của Thiền Sư Phổ Minh (Bài Tụng I - Chưa Chăn)
Phần II - Luận Giải Các Bài Tụng Tranh Chăn Trâu Của Thiền Sư Phổ Minh (Bài Tụng II - Mới Điều Phục)
Phần II - Luận Giải Các Bài Tụng Tranh Chăn Trâu Của Thiền Sư Phổ Minh (Bài Tụng III - Chịu Phục)
Phần II - Luận Giải Các Bài Tụng Tranh Chăn Trâu Của Thiền Sư Phổ Minh (Bài Tụng IV - Quày Đầu)
Phần II - Luận Giải Các Bài Tụng Tranh Chăn Trâu Của Thiền Sư Phổ Minh (Bài Tụng V - Thuần Phục)
Phần II - Luận Giải Các Bài Tụng Tranh Chăn Trâu Của Thiền Sư Phổ Minh (Bài Tụng VI - Không Ngại)
Phần II - Luận Giải Các Bài Tụng Tranh Chăn Trâu Của Thiền Sư Phổ Minh (Bài Tụng VIII - Cùng Quên)
Phần II - Luận Giải Các Bài Tụng Tranh Chăn Trâu Của Thiền Sư Phổ Minh (Bài Tụng IX - Soi Một Mình)
Phần II - Luận Giải Các Bài Tụng Tranh Chăn Trâu Của Thiền Sư Phổ Minh (Bài Tụng X - Dứt Bặt Cả Hai)
Phần II - Tổng Luận Về Tướng Viên Giác Tịch Quang Và Thể Chân Không Diệu Hữu