Thiền Tông Việt Nam
Luận Giải Thi Tụng Mười Bức Tranh Chăn Trâu Giảng Giải (1999)
Phần I - Nói Thẳng Về Mới Điều Phục (Giảng 1)

Tựa đề này là nói đến việc trước khi điều phục để vào mười mục chăn trâu của Thiền sư Quảng Trí đời Lê.

Một phép mới điều phục này, chính là bổn phận trong hàng tăng sĩ, chẳng can hệ gì đến việc thế tục. Theo Vĩnh Gia Tập nói: “Như muốn tu đạo, trước cần phải lập chí.” Lại nói rõ về cách lập chí mộ đạo, phép thờ thầy, trình bày việc dạy dỗ theo khuôn phép, kế đến là trừ bỏ ý kiêu xa, để dừng vọng tâm quấy động. Rồi tiếp là làm sạch ba nghiệp, kiểm trách kỹ càng, răn giữ thân khẩu ý, khiến cho lỗi thô chẳng sanh, mới hay điều phục được thân tâm vậy.

Đoạn này Ngài nói có tánh cách nghiêng về người xuất gia. Ở đây Ngài dẫn trong Vĩnh Gia Tập của Thiền sư Huyền Giác, lời chỉ dạy cho người tu thiền. Muốn tu thiền được tăng tiến trước phải lập chí. Người muốn tu đến nơi đến chốn phải lập chí cho thật vững chắc, không phải sáng thì cần mẫn, chiều lại lơ là, hoặc tháng này siêng năng, tháng sau bê trễ v.v... Phải kiên trì lập chí thật vững thì trên đường tu mới có thể thành công được. Đó là điều căn bản của người mới tu. Thứ đến dạy cách lập chí mộ đạo, tức là kính trọng đạo pháp mà mình đang tu học, kế dạy phép thờ thầy. Người học đạo trước tiên phải có người hướng dẫn, người hướng dẫn đó là bậc thầy thì chúng ta phải kính quí như thế nào để xứng với công của người đã chịu khó khổ, chỉ dạy cho chúng ta tu đến nơi đến chốn. Do đó công ơn này cũng sánh bằng với công ơn của cha mẹ. Vì vậy phải biết cung kính quí trọng thầy, đó là phép thờ thầy.

Trình bày việc dạy dỗ theo khuôn phép.

Nghĩa là người tu không phải chỉ biết học đạo, chỉ biết tu thôi mà phải có phương hướng, có cách thức để tu. Nói gần hơn là phải có thái độ, có tư cách, chớ không phải tu rồi tự do tự ý muốn làm gì thì làm, mà phải sống có khuôn phép đúng theo luật lệ của người tu.

Kế đến là trừ bỏ ý kiêu xa, để dừng vọng tâm quấy động.

Chữ kiêu là kiêu căng, ngạo mạn; xa là xa xỉ, là tiêu phí không chừng mực, không điều độ. Đây dạy chúng ta phải dẹp bỏ ý kiêu căng xa xỉ để cho tâm được thấp, được nhẹ nhàng và không có những phí tổn vô ích đối với sự sống. Như vậy muốn dừng được vọng tâm quấy động thì trước phải lập chí cho vững, hướng với đạo, lúc nào cũng thành kính tôn thờ, kế là thờ thầy, sau là giữ khuôn phép và trừ bỏ ý kiêu xa. Đó là phần căn bản ở bên ngoài. Phần căn bản bên trong là:

Rồi tiếp là làm sạch ba nghiệp, kiểm trách kỹ càng.

Luôn luôn kiểm tra trách cứ những điều dở, những thiếu sót của mình phải răn dè, nhắc nhở đừng để nó đi lệch, đi xa.

Răn giữ thân khẩu ý.

Luôn giữ ba nghiệp thân khẩu ý cho trong sạch.

Khiến cho lỗi thô chẳng sanh, mới hay điều phục được thân tâm vậy.

Người khéo giữ thân khẩu ý được yên tĩnh trong sạch thì không có những tội lớn, nhờ vậy mới điều phục thân tâm một cách dễ dàng.

Tóm lại, đoạn này Ngài dạy người muốn tu thiền, chẳng những tu thiền mà tất cả các pháp tu giải thoát của Phật dạy, điều căn bản là phải lập chí cho thật vững, kính trọng thầy, giữ đúng khuôn phép của người tu và trừ bỏ những ý kiêu xa; đó là phần bên ngoài. Bên trong về bản thân phải giữ gìn ba nghiệp thân khẩu ý cho trong sạch, như vậy bắt đầu điều phục tâm mới có kết quả tốt. Người tu nếu thiếu những điều kiện trên đây thì việc điều phục tâm khó thành công. Đó là lời dẫn chỉ dạy cho chúng ta chuẩn bị tiến vào đạo, chuẩn bị chăn trâu.

Nguyên bởi, Chân tâm không vọng, Trí tánh sẵn sáng ngời, trong lặng nhiệm mầu không xen tạp; nhưng do vọng chợt khởi, thoạt đó liền mê mờ đánh mất tánh tinh nguyên, cái trong lặng bị dính khằn mà phát ra cái biết, nên chuyển trí thành thức. Vọng tâm ở trong thân gọi đó là thức, tâm vốn không biết, do thức nên biết. Tánh vốn không sanh, do thức nên sanh. Hạt giống sanh thân nảy mầm từ đó, rồi nở hoa hữu lậu, kết trái sanh tử. Người hiện nay vọng nhận trong tấc vuông (tâm) có vật sáng rỡ linh thông (chiêu chiêu linh linh), hồn nhiên cùng các vật đồng một thể, liền cho là nguyên thần ở đấy. Đâu chẳng biết, đây tức là thức thần tử tử sanh sanh, là chủng tử luân hồi kiếp kiếp. Nên Hòa thượng Cảnh Sầm nói:

Người nay học đạo chẳng tỏ chân,
Chỉ vì từ trước nhận thức thần.
Vô lượng kiếp rồi gốc sanh tử,
Kẻ si gọi đó bản lai nhân.

Đoạn này Ngài chỉ thẳng cho chúng ta biết được gốc của sự tu. Bởi vì nơi mỗi người chúng ta đều có sẵn Chân tâm, mà Chân tâm tự nó không có vọng, cho nên Chân tâm đứng về mặt sáng suốt gọi là Trí tánh, nó sẵn sáng ngời không lúc nào mờ tối, trong lặng nhiệm mầu không xen tạp. Như vậy diễn tả cho chúng ta biết nơi mỗi người ai cũng sẵn có Chân tâm, Chân tâm là Tánh giác sáng ngời, trong trẻo, lặng lẽ, nhiệm mầu không có gì xen tạp. Trong lặng, sáng suốt là thể Chân tâm của mỗi người, “nhưng do vọng chợt khởi, thoạt đó liền mê mờ đánh mất tánh tinh nguyên” của mình. Nghĩa là lỗi ban đầu từ Thể tánh trong sáng rạng ngời, bỗng có một niệm dấy khởi, từ có niệm vọng khởi liền quên mất tánh sáng đó, nên đánh mất tánh tinh nguyên của nó là trong sáng sẵn sàng.

Cái trong lặng bị dính khằn mà phát ra cái biết.

Cái trong lặng sáng suốt đó do dính với niệm khởi mà thành ra có cái biết. Cái biết đây tức là cái phân biệt, “nên chuyển trí thành thức”. Cái tánh sáng sẵn trong tinh nguyên gọi là trí, cái khởi phân biệt gọi là thức. Sở dĩ có thức là vì cái tinh nguyên đó do dấy niệm làm mê mờ, nó dính khằn với ngoại cảnh, rồi sanh ra vọng thức. Như vậy từ trí biến thành thức. Đây giống như trong kinh Lăng-già định nghĩa thế nào là thức? Thức là cái phân biệt sanh diệt, trí là cái sáng suốt không sanh diệt. Trí ở đây là Trí tánh, thức là thức tình phân biệt. Như vậy từ trí biến thành thức, nên nói:

Vọng tâm ở trong thân gọi là thức. Tâm vốn không biết, do thức nên biết.

Tâm là cái trong sáng không phân biệt, nhưng vì có vọng khởi nó biến thành thức rồi có phân biệt, nên chúng ta gọi là biết.

Tánh vốn không sanh, do thức nên sanh.

Tánh giác hay Trí tánh là sáng suốt không sanh diệt, nhưng do dấy động thành thức nên có sanh có diệt.

Hạt giống sanh thân nảy mầm từ đó.

Nghĩa là từ có niệm thức phân biệt do đó mới có hạt giống để sanh ra thân này. Như vậy từ có vọng thức là cái nhân để sanh tử, “rồi nở hoa hữu lậu, kết trái sanh tử” tức là nở hoa trong sanh diệt, vì hữu lậu là sanh diệt, nên kết thành quả là sanh tử. Do vậy nói đơn giản hơn, tất cả gốc sanh tử là từ vọng thức mà ra. Vọng thức là nhân để tạo nghiệp sanh tử. Vì vậy ngày nay chúng ta tu cốt làm sao lắng sạch vọng thức thì nghiệp sanh tử theo đó mà dừng. Không lắng dừng vọng thức thì nghiệp sanh tử liên tục không ngừng.

Người hiện nay vọng nhận trong tấc vuông (tâm) có vật sáng rỡ linh thông (chiêu chiêu linh linh), hồn nhiên cùng các vật đồng một thể, liền cho là nguyên thần ở đấy.

Nghĩa là người thời nay tu, nhất là tập tu thiền khi thấy ngồi yên có cái tâm sáng ở trong thân, lầm cho tâm đó là Tâm thể, nhưng sự thật nó là cái nguyên thần chớ chưa phải là Tâm thể. Bởi vì Tâm thể là tâm không giới hạn trong thân này, cũng không giới hạn trong hoàn cảnh nào, mà nó trùm khắp. Cho nên chúng ta chỉ thấy yên tịnh ở trong, tưởng đã đến nơi là sai. Yên tịnh ở trong chỉ là bước đầu. Theo kinh Lăng Nghiêm đây là mặt trăng thứ hai, chớ chưa phải là mặt trăng thật, nếu nhận lầm nó là sai.

Đâu chẳng biết, đây tức là thức thần tử tử sanh sanh, là chủng tử luân hồi kiếp kiếp.

Đây là thức phân biệt, chớ chưa phải là tâm trong sáng thanh tịnh, đó là nhân của sanh tử luân hồi. Dẫn bài kệ của ngài Trường Sa Cảnh Sầm nói:

Người nay học đạo chẳng tỏ chân.

Tức là người thời nay học đạo không thấu suốt được Chân tâm.

Chỉ vì từ trước nhận thức thần.

Chỉ vì lầm nhận thức thần tức là cái yên yên ở trong làm tâm mình.

Vô lượng kiếp rồi gốc sanh tử.

Đó là gốc luân hồi sanh tử từ vô lượng kiếp.

Kẻ si gọi đó bản lai nhân.

Người si mê cho đó là người xưa nay, nhưng sự thật không phải vậy.

Trong đoạn này Ngài chỉ thẳng cho chúng ta biết mỗi người ai cũng có cái Chân tâm trong sáng, lặng lẽ, thanh tịnh sẵn có chớ không riêng người nào. Nhưng từ Chân tâm thanh tịnh vừa dấy niệm khởi nên nó dính khằn với vọng trần phát ra cái biết, từ cái phân biệt gọi là thức, từ thức dẫn đi tạo nghiệp, liên kết vô số lần sanh tử, tử sanh. Vì vậy gọi là luân hồi muôn kiếp. Ngày nay chúng ta muốn tu để thoát khỏi sanh tử luân hồi, thì phải lóng lặng cái vọng thức đang liên kết với ngoại duyên để nó dừng lặng xuống. Do nó dừng lặng mới trở lại gốc của Chân tâm. Khi trở lại được gốc Chân tâm thì dòng sanh tử ngang đó mới dừng. Ngài bảo chúng ta đừng lầm nơi tâm mình có cái cũng sáng rỡ, cũng linh thông, nhưng cái sáng rỡ linh thông đó chỉ ở bên trong thân chưa phải là Chân tâm. Nếu nhận lầm là Chân tâm thì chỉ là nhận thần thức, nên cũng còn ở trong sanh tử chưa dừng. Đó là lối chỉ dẫn tường tận của Ngài cho chúng ta thấy trên đường tu mình đã có sẵn cái gốc, nhưng do vọng thức tạo nên luân hồi sanh tử. Nếu khéo dừng vọng thức để trở về gốc là thoát ly sanh tử.

Than ôi! Người đời đem kẻ tớ cho là chủ mà không hay biết, nhận giặc làm con mà chẳng thức tỉnh. Do đó Thế Tôn dạy người, trước đoạn dứt cội gốc vô thủy luân hồi. Cội gốc này đã đoạn dứt, thì các thức không chỗ nương, trả lại Bản thể thường sáng tỏ từ thuở ban đầu của ta. Thế nhưng, đạo lớn thì mênh mông, phải tùy theo chỗ mà ra tay. Mới biết, muốn sửa vạt áo cho ngay bằng, hẳn phải kéo cổ áo lên. Muốn sửa lưới cho thẳng, cần lôi giềng lưới lên.

Đây là lời nhắc nhở chỉ dạy chúng ta phải tu như thế nào? Vì lâu nay chúng ta lầm nhận kẻ tớ cho là chủ, hay nhận giặc cho là con. Vậy hiện nay tất cả chúng ta có nhận tớ làm chủ, nhận giặc làm con không? Như chúng ta đã biết nơi mình có Tâm chân thật, trong sáng, thanh tịnh không từng dấy động đó là Chân tâm. Rồi từ vọng thức dấy lên duyên với ngoại trần, kết thành nghiệp tạo ra bao nhiêu kiếp luân hồi sanh tử liên tục không dừng. Như vậy Chân tâm và vọng thức, hiện chúng ta đang nhận cái nào là mình? Nhận Chân tâm là mình hay vọng thức là mình? Chắc mọi người đều nghĩ cái khôn ngoan, lanh lợi là mình, còn Chân tâm trong sáng không dấy động thì không bao giờ mình nhận. Đó chính là chỗ chúng ta nhận giặc làm con. Như khi ngồi chơi dưới cội cây, trên tảng đá, bất thần không nghĩ suy, không phân biệt gì hết, thì lúc đó chúng ta thấy có mình không? Khi không phân biệt, không nghĩ suy chúng ta tưởng như mất mình, rồi bất chợt nhớ nghĩ đến việc gì lại cho là có mình. Như vậy nhớ cái suy nghĩ, tính toán lại nói là mình hiện tiền, còn mất cái suy nghĩ tính toán lại cho là không có mình. Vậy cái suy nghĩ, tính toán đó là chủ hay tớ? Là tớ sao lại nói là mình, quên nó, vắng mặt nó nói là mất mình. Còn cái hằng sáng, tai nghe tiếng, mắt thấy hình dáng, da xúc chạm gió mát v.v... nó hiện tiền mà không nhớ, chỉ nhớ có cái nghĩ suy; có nghĩ suy gọi là có mình, quên nghĩ suy gọi là mất mình. Như vậy rõ ràng chúng ta đã nhận tớ làm chủ, nhận giặc làm con. Đã nhận giặc làm con thì sự nghiệp đời mình tan nát không còn gì hết, không biết đến bao giờ mới dừng được. Vì vậy chúng ta tu là phải sáng suốt, giặc biết là giặc, tớ biết là tớ để nhận ra Ông chủ hay con thật không bị lầm, đó là chúng ta giác. Nếu nhận giặc làm con, nhận tớ làm chủ là chúng ta mê. Mê, giác đã có sẵn ở tất cả mỗi người, nhưng chúng ta thích cái nào hơn, thích mê hay thích giác? Thường thường có suy nghĩ mới vui, không suy nghĩ thì buồn. Ngồi yên không suy nghĩ gì cảm thấy buồn quá, nên muốn có suy nghĩ để thả nó chạy đầu non, góc núi, thành này, thị kia, dạo khắp các nơi thì vui ngồi quên giờ, còn ngồi mà không cho nó nghĩ, sao thấy lâu quá thời gian dài thăm thẳm. Đó là do thói quen của chúng ta đã thuần rồi, phải cho nó chạy nó nhảy mới vui, nếu dừng lại cảm thấy buồn, như ù lì không có gì hay, gì vui hết. Nhưng không ngờ chính cái chạy nhảy đó là tướng hư dối sanh diệt, còn cái yên lặng trong sáng là cái thật của mình, chỉ cần chúng ta nhận ra nó thì bao nhiêu nghiệp sanh tử ngang đây được dừng. Nếu chạy theo cái lăng xăng sanh diệt thì chúng ta cứ tiếp tục trôi lăn trong sanh tử, mà sanh tử là khổ đau. Như khi chúng ta tắm biển, ở chỗ nước phẳng lặng không chịu vì buồn, thích đến chỗ có sóng để nhồi với sóng mới vui, đó là do con người không thích bình yên chỉ thích cái gì động, cái hơi nguy hiểm mới chịu. Thế nên nói chúng ta đang an lại cầu nguy. Vì vậy đời này sanh tử, đời sau lại tiếp tục sanh tử. Ở đây chúng ta tu cốt dứt hết sanh tử, đó là nhân căn bản phải dừng sanh tử, nhưng các vị Bồ-tát có chịu dừng sanh tử không? Các ngài chưa chịu dừng sanh tử lại thích đi trong luân hồi. Như vậy đối với người tu là phải biết rõ gốc ngọn cho tường tận. Chúng ta tu là phải biết rõ mầm sanh tử phát xuất từ đâu, khi biết được mầm sanh tử phát xuất ở chỗ nào, rồi phải nhận trước khi mầm đó nảy ra, cái gì là gốc chân thật phải nhận ra cái gốc chân thật đó. Biết rõ nắm vững được gốc ngọn rồi, nếu không muốn sanh tử nữa thì mầm sanh tử chúng ta phải tiêu diệt, là dứt được gốc sanh tử. Nếu mầm sanh tử không tiêu diệt thì không dứt được sanh tử. Như vậy người tu chúng ta có hai hạng: một là biết được nhân sanh tử rồi chán ngán muốn dứt sạch mầm để thoát ly sanh tử, tức là để giải thoát sanh tử; hai là cũng biết được nhân sanh tử và gốc trước khi chưa có sanh tử. Biết rõ sanh tử là ảo tưởng, hư dối không thật, lẽ ra phải dứt các mầm đó để được giải thoát, nhưng các ngài không chịu dứt. Không chịu dứt để làm gì? Để còn sanh tử, để lăn lộn trong sanh tử giáo hóa cho mọi người được thức tỉnh. Nếu các ngài biết được gốc sanh tử ở chỗ nào, rồi tiêu diệt nó để hết sanh tử, như vậy phần mình được yên, nhưng còn bao nhiêu người khác mê thì làm sao? Vì thế các ngài không dứt mầm sanh tử, vẫn nuôi sanh tử nhưng không mê lầm. Nghĩa là các ngài đi trong sanh tử, mà danh từ chuyên môn trong nhà Phật gọi nhập du hí tam-muội, hay dạo chơi trong chánh định, dạo chơi trong lục đạo luân hồi mà vẫn ở trong chánh định. Bởi thấy sanh tử là trò ảo hóa không thật, không quan trọng và chúng sanh còn mê nên các ngài phải đi trong đó để đánh thức họ. Như vậy đi trong sanh tử có hai hạng người:

1. Vì mê chạy theo vọng thức tạo nghiệp luân hồi  nên tiếp tục đi trong sanh tử.

2. Do biết sanh tử là hư dối, từ vọng thức mà ra, nhưng vì chúng sanh mê nên các ngài chấp nhận đi trong sanh tử với bản nguyện đánh thức mọi người được tỉnh, được giác để thoát ly sanh tử, đó là hạnh nguyện của Bồ-tát.

Như vậy trọng tâm của sự tu không phải chỉ một bề cầu giải thoát sanh tử mà có người gấp rút lo giải thoát sanh tử, nhưng cũng có người chấp nhận đi trong sanh tử. Tôi nói có nhiều khi người ta tưởng tôi tham. Tại sao tham? Bởi vì tôi muốn làm sao cho ai cũng được thức tỉnh, mà muốn được như vậy có phải tham không? Người ta chưa chịu tỉnh mà tôi muốn họ phải tỉnh tức nhiên là tham rồi. Vì muốn mọi người đều tỉnh nên lúc nào tôi cũng sẵn sàng nhắc nhở, khuyến khích cho họ tỉnh. Nhưng thế thường của con người là khi vô minh nhè nhẹ, phơn phớt, vừa nhắc liền tỉnh, nếu lúc vô minh dày quá khi nhắc thì tỉnh, qua cơn lại mê. Vì vậy đôi khi tôi thấy cũng hơi bận rộn. Nếu hiểu được đường lối mình chỉ chăm chú lo tu thì khỏe biết mấy, phần mình tự lo đâu có gì phiền hà. Còn biết được đường lối tu, không chịu lo tu, lo kêu người này, gọi người kia nhắc họ tỉnh, nhưng họ không tỉnh còn làm những điều lôi thôi làm mình cũng hơi buồn. Bởi vì nếu tôi không biết mỗi người đều có hòn ngọc quí thì tôi không dại gì đi kêu đi chỉ. Nếu người ta không có, hoặc người đó không biết cũng như tôi không biết họ có hòn ngọc quí thì tôi kêu họ để chỉ cái gì. Ngược lại tôi biết người đó có hòn ngọc quí cũng như tôi có hòn ngọc quí, biết rõ không nghi ngờ. Nếu tôi biết rồi tự ráng phủi dẹp để lấy hòn ngọc, còn người khác biết có mà không chịu lấy, cứ lo chạy ngược chạy xuôi bỏ quên nó thì mình nghĩ sao? Trách nhiệm của mình thế nào, chẳng lẽ làm thinh để họ ôm hòn ngọc quí đi ăn mày lang thang, đành chịu vậy sao? Vì vậy tôi phải ráng nói, ráng chỉ, dù họ có tin hay không tin cũng được, nhưng tôi có chỉ rồi thì lòng mới an. “Anh có hòn ngọc quí thật đó, tôi chỉ cho anh thấy rõ, còn chuyện tin hay không là quyền của anh.” Tôi nói thật như vậy là bổn phận của tôi đã xong. Nếu tôi biết mà không chỉ để họ lang thang khổ sở là tôi ích kỷ không tròn bổn phận; đó là điều thứ nhất. Điều thứ hai là biết mọi người ai tạo nghiệp lành, nghiệp dữ đều được hưởng vui hoặc phải chịu khổ. Nhưng ở thế gian ai cũng sợ khổ, thích vui thì nỡ lòng nào mình để cho người ta tạo khổ mà phải đánh thức cho họ tìm cái vui. Vì vậy phải chỉ cho họ biết nhân nào đau khổ, nhân nào an vui để họ tránh khổ được vui. Biết mà không chỉ là mình cũng có tội, nên phải ráng chỉ. Đó là phần thông thường mà tôi sử dụng hằng ngày, còn phần thâm trầm hơn là nhận được hòn ngọc quí.

Bởi vậy tôi nghĩ đời tôi có lẽ chừng nào không đủ sức để nói nữa mới thôi, chớ đâu nỡ làm thinh. Vì biết rõ chắc chắn không nghi ngờ nên tôi phải ráng nói ráng chỉ, còn tin và làm theo hay không là quyền của mỗi người, miễn sao nói được thì lòng tôi cảm thấy nhẹ đi phần nào. Nhưng đôi khi cũng có phản ứng ngược lại, là mình thấy hay thấy tốt, mà nói họ không nghe mình cũng hơi buồn, chớ lý đáng tôi nói ra là làm hết bổn phận rồi, nghe hay không là chuyện của họ. Đây là nhân việc của người xưa mà tôi nhắc đến việc hiện tại, như ngài Quảng Trí đã chỉ cho chúng ta thấy được nguồn gốc tường tận rõ ràng, Ngài mới nói:

Thế nhưng, đạo lớn thì mênh mông, phải tùy theo chỗ mà ra tay.

Đạo lớn mênh mông không thể nào chỉ ra hay diễn đạt cho người ta tường tận, nên phải tùy theo phương tiện mà mình ra tay được phần nào. Thí như biết cái áo lệch, nắm cổ áo kéo lên cho bằng, sửa cổ áo đó là chỗ ra tay. Giềng lưới không thẳng bị dùn hoặc chinh phải kéo lên cho thẳng cho ngay. Như vậy đạo quá lớn quá rộng, người ta không thể một sớm một chiều mà làm được, nên cái gì gần có thể làm được chỉ cho họ làm trước, còn cái thênh thang từ từ chỉ sau. Thế nên tôi nói có hai điều:

1. Biết mỗi người đều có hòn ngọc quí nên phải chỉ cho họ, tôi mới an lòng. Nhưng nói họ lại không tin vì tự cho mình là kẻ bần hàn làm sao có ngọc quí được, nên nghe nói họ chỉ lắc đầu tưởng như là trò chơi.

2. Vì biết họ thích vui sợ khổ, thôi thì dạy cho họ làm những việc tránh khổ để được vui trong đời này và những đời sau là tốt rồi. Như vậy điều gì sửa được thì sửa ngay giùm, chỉ những cái căn bản cho họ làm trước. Đó là phần thứ hai chỉ nghiệp thiện, nghiệp ác, nhân quả rõ ràng để cho người tu biết mà tránh cũng là điều tốt.

Trước kia, dưới cửa Tổ sư chỉ ra một con đường chánh tu hành, dạy người từ ngay đầu nguồn mà khởi công. Nếu đầu nguồn đã trong sạch, thì lý thật luôn luôn hiện tiền, thức và niệm tự nhiên ô nhiễm chẳng được. Ví như mặt trời đã lên cao giữa hư không, thì ma quái đều bặt dấu. Một pháp môn tâm địa này, chính là đạo của ngàn Thánh xưa nay chẳng đổi. Cho nên, trái với nó thì phàm, thuận với nó thì Thánh, mê nó thì sanh tử bắt đầu, ngộ nó thì luân hồi ngừng dứt.

Bởi vì người tu có khi đi từ những phương tiện này sang phương tiện khác, lần lần đến chỗ cuối cùng, còn đối với Thiền tông đi thẳng ngay đầu nguồn chớ không dùng phương tiện. Như câu chuyện tôi thường nhắc nhiều lần về việc Tổ Đạt-ma chỉ cho Tổ Huệ Khả, có phải đầu nguồn không? - Thưa: Tâm con không an, xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm. Nếu không phải chỉ thẳng đầu nguồn thì khi dạy nói: Ngươi niệm Phật đi rồi lần lần tâm ngươi an. Hoặc: Ngươi trì chú đi, rồi tâm ngươi sẽ an. Hay: Ngươi dùng câu gì đó để đàn áp cho tâm an. Còn ở đây Tổ Đạt-ma bảo: Đem tâm ra ta an cho. Ngay cái bất an tìm lại nó ở đâu? Tìm một lúc nó mất tiêu. Như vậy tìm tận cùng cái bất an đó không nguồn gốc, không nơi chốn. Khi tìm lại không được, Tổ mới dạy: Ta đã an tâm cho ngươi rồi. Ngay cái bất an phăng tìm tận gốc nó không có, như vậy có phải là trở về gốc không? Đường lối tu của Tổ sư là chỉ thẳng tìm tận gốc. Chúng ta nói bất an thì cái gì là bất an? Là cái nghĩ suy tính toán làm cho mình bất an, là tâm mình phải không? Khi tìm lại tường tận không có gì hết là đi thẳng vào gốc, không phải dùng một phương tiện nào để đè. Đó là ý ở đây nói “dưới cửa Tổ sư chỉ ra một con đường chánh tu hành, dạy người từ ngay đầu nguồn mà khởi công”. Như vậy chúng ta xét kỹ mọi tội lỗi tham sân si gốc từ đâu ra, cũng từ dấy niệm mà ra; dấy niệm nên có tham, sân v.v... Vì vậy muốn dứt tham, sân, si thì ngay niệm khởi phải dừng. Niệm khởi dừng thì tham sân si đâu còn. Đây cũng thẳng từ gốc mà dẹp, nên tôi nói là đi tận đến chỗ nảy mầm dẹp sạch nó hay bóp chết từ trong trứng nước không đợi nó thành hình. Đó là ý nghĩa chúng ta phải nhớ nắm vững để tu hành.

Nếu đầu nguồn đã trong sạch, thì lý thật luôn luôn hiện tiền, thức và niệm tự nhiên ô nhiễm chẳng được.

Bởi thức và niệm không dấy khởi được thì làm gì có ô nhiễm, là trở về Tâm thể thanh tịnh. Vì vậy Ngài mới ví dụ:

Ví như mặt trời đã lên cao giữa hư không, thì ma quái đều bặt dấu.

Khi tâm mình không còn một niệm vọng thức dấy động, đó là mặt trời lên cao. Cho nên ngài Vô Ngôn Thông ngộ câu: “Tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu.” Nghĩa là đất tâm nếu không thì mặt trời trí tuệ liền soi. Không có niệm khởi, không có vọng thức thì mặt trời trí tuệ sáng lên rất rõ ràng, nên nói ma quái đều bặt dấu. Còn chúng ta ma quái hiện lên luôn luôn vì đất tâm còn bụi rậm um tùm, nên có chỗ cho nó ẩn núp.

Một pháp môn tâm địa này, chính là đạo của ngàn Thánh xưa nay chẳng đổi. Cho nên, trái với nó thì phàm, thuận với nó thì Thánh, mê nó thì sanh tử bắt đầu, ngộ nó thì luân hồi ngừng dứt.

Thật đơn giản làm sao! Nếu trái với đất tâm trong sạch là phàm, thuận với nó là Thánh. Nghĩa là chúng ta trở về đất tâm thanh tịnh thì dòng luân hồi không còn nữa. Nếu quên nó đi, cứ nuôi vọng thức lăng xăng đó là gốc luân hồi sanh tử.

 Vậy muốn dừng luân hồi không gì bằng thể nhận “chí đạo”. Muốn thể nhận chí đạo, không gì bằng quán chiếu Bản tâm. Muốn quán chiếu Bản tâm, cần mở rộng mắt rỗng soi xét. Luôn khiến cho trăng tỏ rọi sáng ngời, thường ở trong định mà trí tuệ chiếu soi. Luôn luôn giữ được trong chỗ thất tình chưa phát này. Luôn luôn bảo tồn được thể bát thức chưa nhiễm này. Thì, ngoài dừng các duyên, trong bặt các vọng. Gồm thu ánh sáng nơi mắt, lắng đọng âm vận nơi tai, điều hòa hơi thở nơi mũi, bịt kín khí vị nơi lưỡi, tay chân chẳng động. Khiến cho năm thức: mắt, tai, mũi, lưỡi và thân, mỗi thứ trở lại căn của nó, thì năm thứ linh: tinh, thần, hồn, phách và ý, mỗi thứ yên nơi vị của nó. Trong hai mươi bốn giờ thường xem kỹ bên trong sự chạy rong của con trâu này, lẫn với thường lắng nghe ngược lại sự thuần thục hay buông lung của nó. Cả đến mọi cử chỉ hành động, niệm niệm chẳng rời nó. Cũng như, đi đứng nằm ngồi, tâm tâm luôn ở ngay con trâu này. Không thể một sát-na quên mất chiếu soi hay thoáng chốc trái nhau. Thần quang vừa phóng ra liền thu lại. Trong lúc vội vàng vẫn không tách rời. Thường ở ngay đây mà luôn để ý chiếu soi. Như ông Tử Tư nói: “chẳng thể rời trong giây lát”, là đấy.

Muốn dừng luân hồi không gì bằng thể nhận “chí đạo”: Đây là một từ khác, chữ “chí đạo” này là từ của Tổ Tăng Xán nói: “Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch.” Chí đạo tức là chỗ tột cùng của đạo, là Chân tâm.

Muốn thể nhận chí đạo, không gì bằng quán chiếu Bản tâm.

Tức là soi sáng từng niệm, từng phút giây nó có chạy, có rong ruổi hay không?

Muốn quán chiếu Bản tâm, cần mở rộng mắt rỗng soi xét.

Phải nhìn nó với tánh cách rỗng rang, không nên hẹp hòi kềm chế.

Luôn khiến cho trăng tỏ sáng ngời, thường ở trong định mà trí tuệ chiếu soi. Luôn luôn giữ được trong chỗ thất tình chưa phát này.

Phải dùng trí soi sáng rõ ràng, không nên để định mà quên tuệ. Chỗ thất tình luôn luôn gìn giữ không cho dấy lên. Thất tình là: mừng, giận, sợ, yêu, buồn, ghét, muốn. Nghĩa là làm sao giữ không cho bảy thứ này dấy lên. Nếu tâm không dấy niệm thì có thất tình hay không? Nếu nó dấy niệm thì không niệm thương thì niệm ghét, không niệm mừng thì niệm giận. Vì vậy phải giữ được chỗ lặng yên của nó chưa dấy niệm thì thất tình không có.

Luôn luôn bảo toàn được thể bát thức chưa nhiễm này. Thì, ngoài dừng các duyên, trong bặt các vọng.

Nếu giữ cho thất tình không dấy động, hay nói cách khác, chỗ không nhiễm tức là thức thứ tám không nhiễm thì ngoài dừng các duyên, trong bặt các vọng. Câu này nghe khó hiểu, các duyên bên ngoài làm sao dừng được. Mắt mình đang mở sáng có người đi qua là có duyên, nên chận họ lại không cho đi qua mắt mình hay phải làm sao? Như vậy cảnh đến đi mình dừng nó bằng cách nào? Dừng không có nghĩa là trốn, đuổi, hay xây mặt vào vách không nhìn đến ai. Dừng các duyên có nghĩa là mọi cảnh, mọi duyên đối diện trước mắt mình không cho dính, kẹt. Người đi qua biết người, vật đi qua biết vật, giống như gương cái nào hiện cái ấy, qua rồi thôi. Có người vật nào đi qua rồi còn dính bóng trong gương không? Còn gương mắt mình tại sao bị dính? Nó không có keo mà sao qua rồi lại dính? Đó là điều mà tất cả chúng ta tu phải khéo như cái gương trong sáng, người vật đến thì hiện hình, qua rồi thì mất bóng. Mắt chúng ta cũng phải như cái gương vậy. Như vậy chúng ta không trốn cảnh, không đuổi mọi sự vật đến với chúng ta mà cái khéo là người đến hiện người, vật đến hiện vật, qua rồi thôi đừng để dính nhiễm. Muốn không dính nhiễm thì khi người qua đừng vọng khởi về người, vật qua không vọng khởi về vật. Không vọng khởi thì không nhiễm. Nếu có người qua khen là đẹp, vật qua cho là xấu đó là dính rồi. Cho nên người thì biết người, vật thì biết vật, không có một niệm nào để phân biệt về người vật đó thì không có dính khằn; nếu có niệm phân biệt đây là đẹp, kia là xấu là có khằn dính. Vì vậy xấu hay đẹp qua rồi mà bóng cứ lảng vảng ở mình mãi làm mất thì giờ tu, hết chướng này lại sanh chướng khác. Lý đáng giờ ngồi thiền rảnh rang biết mấy, mọi sự việc ở ngoài đều gác qua một bên, đóng cửa Thiền đường lại vô ngồi thì còn chuyện gì nữa đâu. Vậy mà có yên không? Bởi vì chúng ta tránh được duyên tiếp xúc bên ngoài, nhưng bóng dáng bên trong vẫn còn chưa mất hết; sở dĩ nó không mất là vì khi tiếp xúc với duyên mình vọng khởi phân biệt nhiều, từ vọng khởi phân biệt nên có dính mắc. Khi dính mắc rồi tuy cảnh ngoài không có, mà từ trong tâm bóng dáng hiện ra quấy nhiễu, làm mất thì giờ tu của mình. Vì vậy chúng ta tu phải làm sao đối cảnh, đối duyên mà tâm vẫn như như trong sáng không để cho dính mắc. Thế nên Cổ đức có nói:

Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tung chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.

Nghĩa là:

Nhạn bay trong không
Bóng chìm đáy nước
Nhạn không có ý để dấu
Nước không có tâm giữ bóng.

Nghĩa là nhạn bay qua bóng chìm dưới nước, mà nhạn có ý để bóng, nước có ý lưu dấu lại không? - Không, qua rồi mất, còn có ý thì có bóng có dấu. Vì vậy không dấy niệm thì ý không chen vào, còn dấy niệm thì ý mới chen vào được. Thế nên biết tu là làm sao trước cảnh duyên chúng ta không tiêu cực để trốn tránh, nhưng đừng để cho vọng thức quá lăng xăng, quá phân biệt rồi dính khằn, khiến cho sự tu bị thối thất. Được như vậy thì giờ ngồi thiền là giờ rất thánh thiện, nhàn hạ, thảnh thơi, khỏi phải dẹp bỏ gì hết. Lâu lâu tôi có nhìn lén những người ngồi thiền, có người ngồi rất tươi tỉnh, có người ngồi gục gặc đầu, có người nhăn mặt trông khổ sở lắm. Những hiện tượng đó là do ở trong đang có niềm vui hay có cái gì không được thảnh thơi thoải mái. Làm sao khi chúng ta ngồi thiền có nét mặt như ông Phật ngồi trên bàn, tươi vui cười mỉm trông thật nhàn hạ, còn ngồi bặm môi, trợn mắt, hay gục gặc đầu thật là khổ sở. Vì vậy chúng ta phải khéo tu làm sao cho có kết quả tốt thì sự tu mới được lợi ích thiết thực.

Gồm thu ánh sáng nơi mắt, lắng đọng âm vận nơi tai, điều hòa hơi thở nơi mũi, bịt kín khí vị nơi lưỡi, tay chân chẳng động. Khiến cho năm thức: mắt, tai, mũi, lưỡi và thân, mỗi thứ trở lại căn của nó, thì năm thứ linh: tinh, thần, hồn, phách và ý, mỗi thứ yên nơi vị của nó.

Ở đây Ngài chỉ cho chúng ta thấy rõ, khi ngồi thiền là gồm thu ánh sáng nơi mắt, lắng đọng âm vận nơi tai. Bởi vì người tu thiền có hai căn bén nhạy nhất là mắt và tai, nên khi ngồi phải thu ánh sáng trở lại mắt, không cho phóng chạy ra ngoài, thu âm vận nơi tai cho lắng đọng, “điều hòa hơi thở nơi mũi, bịt kín khí vị nơi lưỡi, tay chân chẳng động. Khiến cho năm thức: mắt, tai, mũi, lưỡi và thân, mỗi thứ trở lại căn của nó”. Tức là nó y nguyên: Mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, mũi vẫn ngửi, lưỡi vẫn nếm bình thường nhưng không bị dấy động, không bị nhiễm nhơ bởi ngoại trần; đó là mình thu nó trở về. Nếu năm thức trở về được năm căn của nó thì ở đây Ngài nói theo Nho là tinh, thần, hồn, phách và ý, còn chúng ta chỉ nói gọn là ý mới được yên nơi vị của nó. Như vậy trong năm căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân nếu không phóng ra thì ý không có cơ hội chạy, nên nó dừng được ý; còn năm căn phóng ra thì ý theo đó mà chạy. Như chúng ta đang ngồi thiền nghe có những tiếng người nói chuyện bên ngoài, nếu nghe mà mình không dấy niệm thì ý có chạy không? Còn nghe mà khởi nghĩ ai đó nói gì ở ngoài, lắng nghe rồi thì ý chạy lung tung. Như vậy gốc của sự tu là làm sao giữ năm căn mỗi cái phải ở ngay bản vị của nó, đừng để cho ý chen vào gây ra chuyện rối rắm bên ngoài.

Trong hai mươi bốn giờ thường xem kỹ bên trong sự chạy rong của con trâu này, lẫn với thường lắng nghe ngược lại sự thuần thục hay buông lung của nó.

Như vậy chăn trâu là chăn bằng cách nào? Nghĩa là trong hai mươi bốn giờ giữ con trâu của mình (con trâu ở đây Ngài nói là nơi sáu căn của mình) không cho nó chạy ra, trái lại phải nhìn thấu vô trong xem nó đang thuần thục hay buông lung để kềm chế nó.

Cả đến mọi cử chỉ hành động, niệm niệm chẳng rời nó. Cũng như, đi đứng nằm ngồi, tâm tâm luôn ở ngay con trâu này.

Khi đi, đứng, nằm, ngồi lúc nào cũng chăn giữ sáu căn không cho nó chạy, không để nó dính với ngoại cảnh.

Không thể một sát-na quên mất chiếu soi hay thoáng chốc trái nhau.

Nghĩa là một phút, một giây cũng phải thấy biết rõ, không để cho nó tung hoành ra ngoài.

Thần quang vừa phóng ra liền thu lại. Trong lúc vội vàng vẫn không tách rời. Thường ở ngay đây mà luôn để ý chiếu soi. Như ông Tử Tư nói: “chẳng thể rời trong giây lát”, là đấy.

Ở đây Ngài dẫn theo Nho để làm chứng rằng người khéo tu dù theo Nho hay Phật đều phải khéo giữ gìn, không để cho nó buông lung dù trong một phút một giây.

Lại trước còn giữ nó để cho trống hết tâm kia. Kế quên nó để mở rộng cái lượng kia. Tùy chỗ, tùy thời đều tự tại vô ngại.

Đây Ngài chỉ hai cách đễ giữ. "Trước còn giữ nó để cho trống tâm kia." Giữ nó tức là giữ cho sáu căn đừng đấy niệm thì tâm mới trống rỗng, thênh thang. "Kế quên nó để mở rộng cái lượng kia": Nghĩa là giữ cho sáu căn không dấy niện tức là sáu căn thanh tịnh. Sau đó quên không còn kềm giữ sáu căn nữa thì tâm mình mới rộng thênh thang.

Tùy chỗ tùy thời đều tự tại vô ngại.

Như vậy tùy chỗ tùy thời tâm mình không còn gì trở ngại hết.

Mục Lục
Luận Giải Thi Tụng Mười Bức Tranh Chăn Trâu Giảng Giải (1999)
Danh sách chương: