Thiền Tông Việt Nam
Kinh Pháp Hoa Giảng Lục - Tập III
Phẩm 27 Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự

Qua tới phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự, đến đây là chuyển thức thành trí, chuyển tà về chánh. Tức đến đây là Như Lai tạng xuất triền, ra khỏi các nhiễm ô.

CHÁNH VĂN:

Lúc bấy giờ, Phật bảo hàng đại chúng rằng: “Về thuở xưa, cách đây vô lượng vô biên bất khả tư nghì a-tăng-kỳ kiếp, có Đức Phật hiệu là Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri v.v... Nước đó tên là Quang Minh Trang Nghiêm, kiếp tên Hỷ Kiến.

Trong pháp hội của Phật đó có vị vua tên Diệu Trang Nghiêm, phu nhân của vua tên Tịnh Đức, có hai người con, một tên Tịnh Tạng hai tên Tịnh Nhãn. Hai người con đó có sức thần thông lớn, phước đức trí tuệ, từ lâu tu tập đạo hạnh của Bồ-tát, những là: thí Ba-la-mật, giới Ba-la-mật, nhẫn nhục Ba-la-mật, tinh tấn Ba-la-mật, thiền định Ba-la-mật, trí tuệ Ba-la-mật, phương tiện Ba-la-mật, từ bi hỷ xả nhẫn đến ba mươi bảy phẩm trợ đạo thảy đều rành rẽ suốt thấu.

Lại đặng các môn tam-muội của Bồ-tát như là: Nhật Tinh Tú tam-muội, Tịnh Quang tam-muội, Tịnh Sắc tam-muội, Tịnh Chiếu Minh tam-muội, Trường Trang Nghiêm tam-muội, Đại Oai Đức Tạng tam-muội, ở nơi các môn tam-muội này cũng đều thấu suốt.

GIẢNG:

Đến đây Đức Phật mới thuật lại về thuở xa xưa các đây tới vô lượng vô biên bất khả tư nghì a-tăng-kỳ kiếp. Tức là chỗ mà chúng sanh bất giác từ lâu, ở đây không có tính kể hết nổi. Có Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Trí, trong pháp hội đó có vị vua tên là Diệu Trang Nghiêm, ông vua này có vị phu nhân và hai người con. Nhưng đặc biệt là hai người con này lại tu hành trước, tu hành trước tức là có tu tập theo những đạo hành Bồ-tát là các Ba-la-mật, rồi các phẩm trợ đạo cho đến được các tam-muội. Còn vị vua này ban đầu chưa có tin Phật, còn theo tà kiến; hai người con này giác ngộ trước để rồi sau đó mới dẫn dắt ông vua cha. Cho nên đây mới tiếp, nói rõ thêm:

CHÁNH VĂN:

Lúc đó, Đức Phật kia vì muốn dẫn dắt vua Diệu Trang Nghiêm cùng thương tưởng hàng chúng sanh nên nói kinh Pháp Hoa này.

Bấy giờ, Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn, hai người con đến chỗ của mẹ, chắp tay thưa với mẹ rằng: "Mong mẹ đến nơi chỗ Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, chúng con cũng sẽ theo hầu gần gũi cúng dường lễ lạy. Vì sao? Vì Đức Phật đó ở trong tất cả chúng Trời người mà nói kinh Pháp Hoa, nên phải nghe và tin nhận”. 

Người mẹ mới bảo con rằng: "Cha con tin theo ngoại đạo, rất ham pháp Bà-la-môn, các con nên qua thưa với cha để cùng nhau đồng đi". 

Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn chắp tay thưa với mẹ: "Chúng con là Pháp Vương Tử mà lại sanh vào nhà tà kiến này". 

Mẹ mới bảo con rằng: "Các con nên thương tưởng cha các con, mà vì đó hiển phép thần thông biến hóa, nếu cha con đặng thấy thì lòng ắt thanh tịnh, hoặc là chịu cho chúng ta qua đến chỗ Phật". 

GIẢNG: 

Hai người con cũng muốn người mẹ qua chỗ Phật nghe kinh Pháp Hoa. Người mẹ bảo rằng cha của các con lại tin theo ngoại đạo tức là tà kiến, cho nên bây giờ làm sao khéo qua thưa cha để được cùng đi. Hai người con mới thưa: “Chúng con là Pháp Vương Tử mà lại sanh vào nhà tà kiến này”. Người mẹ bảo thôi các con cũng khéo hiện sức thần thông biến hoá, nếu cha con thấy được ắt sanh lòng thanh tịnh mà chuyển hoá thì sẽ chịu cho chúng ta đồng đi qua.

Đây muốn chỉ cho vua Diệu Trang Nghiêm này là cái tàng thức, tàng thức là thể của các thức, các thức cũng là dụng của cái thể này thôi, mà gốc của tàng thức là Như Lai tạng. Như vậy, gốc cũng là từ chỗ chân thật nhưng mà bất giác lầm mê cho nên mới chuyển thành tàng thức; mà chuyển thành tàng thức gọi là quên mất cái gốc Như Lai do đó ở đây mới gọi là tin theo ngoại đạo, tà kiến, là quên mất gốc rồi.

Còn hai người con Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn đã tu tập các đạo Bồ-tát, các Ba-la-mật, rồi các phẩm trợ đạo, được các môn tam-muội tức là được chuyển hóa trước người cha. Đó là chỉ cho các thức phân biệt, chấp trước bên ngoài; các thức bên ngoài là thuộc về các thức dụng, nhưng mà các thức bên ngoài này lại chuyển trước thành trí để nó soi sáng, dẫn đường cho tàng thức này chuyển, tàng thức này là cái gốc sâu ở bên trong, Phu nhân Tịnh Đức, mẹ của hai người con này, tức là sức huân biến bất tư nghì ở bên trong, nó giúp để chuyển biến.

Bởi vậy mà ở đây Đức Phật kia vì muốn dẫn dắt ông vua Diệu Trang Nghiêm và hàng chúng sanh đó mà nói kinh Pháp Hoa này. Tức là ông vua này, hay tàng thức ở đây vốn từ Như Lai tạng mà nó bất giác mê nên nó chuyển thành tàng thức rồi, do đó mới tu theo tà kiến tức là mê lầm. Bây giờ Đức Phật này muốn chuyển vua đó trở về cho nên vì nói kinh Pháp Hoa, tức là muốn chuyển cái tàng thức này trở về đó thì phải đem Tri kiến Phật là cái gốc chân thật để mà khai thị cho, để nhớ, để khiến trở về cái gốc chân thật Như Lai đó. Cho nên, đây Phật mới vì vua và chúng sanh mà nói kinh Pháp Hoa này.

Như vậy cũng để nêu lên ý nghĩa: tuy là ông vua Diệu Trang Nghiêm này mê lầm, tin theo ngoại đạo, tà kiến nhưng mà cái gốc vẫn là Như Lai tạng thanh tịnh nên Phật cũng không bỏ. Ở đây, hai người con tức là cái thức bên ngoài chuyển trước để dẫn đường. Do đó, hai người con mới thưa với mẹ thôi bây giờ cùng qua chỗ Phật để nghe kinh Pháp Hoa bởi vì kinh Pháp Hoa là kinh khó nghe. Người mẹ cũng muốn qua nhưng bảo là phải thưa với cha để cùng đi bởi vì “cha này” là cái gốc, cái thể để đồng chuyển về thể giác.

Hai người con thưa với mẹ rõ con vốn là Pháp Vương Tử mà lại sanh vào nhà tà kiến này, tức là xác nhận cái thức này đúng là vốn từ cái thể giác, là con Pháp Vương. Mà đã biết mình là con Pháp Vương lại sanh vào nhà tà kiến này tức là sao? Tức là tuy sanh vào nhà tà kiến nhưng không có lầm theo đó nên biết mình vốn là Pháp Vương Tử, là không có lầm theo chỗ đã sanh, nghĩa là không có lầm theo cái ngã này. Đó là đã tỉnh nên mở đường trước để dẫn cái tàng thức trở về.

CHÁNH VĂN: 

Lúc ấy, hai người con thương cha nên bay lên hư không cao bằng bảy cây đa-la, hiện các món thần biến. Ở trong hư không đi, đứng, ngồi, nằm; trên thân ra nước, dưới thân ra lửa; dưới thân ra nước, trên thân ra lửa; hoặc hiện thân lớn đầy trong hư không, rồi lại hiện nhỏ; nhỏ lại hiện lớn; ở trong hư không ẩn mất, bỗng nhiên hiện trên đất; vào đất như vào nước, đi trên nước như đi trên đất, hiện các món thần biến như thế làm cho vua cha lòng thanh tịnh tin hiểu. 

Bấy giờ, vua cha thấy con có sức thần như thế lòng rất vui mừng đặng điều chưa từng có, chắp tay hướng về phía con mà nói rằng: "Thầy các con là ai? Con là đệ tử của ai?". 

Hai người con thưa rằng: "Đại Vương! Đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật kia nay đương ngồi trên pháp tòa dưới cây Bồ-đề bằng bảy báu, ở trong tất cả chúng Trời người thế gian, rộng nói kinh Pháp Hoa, đó là thầy chúng con, con là đệ tử". 

Cha nói với con rằng: "Ta nay cũng muốn ra mắt thầy các con, nên cùng nhau đồng đi". 

Khi đó, hai người con từ trong hư không xuống, đến chỗ của mẹ chắp tay thưa với mẹ rằng: "Phụ vương nay đã tin hiểu, có thể kham phát được tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chúng con đã vì cha làm Phật sự rồi, mong mẹ bằng lòng cho chúng con ở nơi chỗ Đức Phật kia mà xuất gia tu hành Phật đạo".

Lúc đó, hai người con muốn tuyên lại ý mình, nói kệ thưa với mẹ: 

Mong mẹ cho các con
Xuất gia làm Sa-môn
Các Phật rất khó gặp
Chúng con theo Phật học
Như hoa ưu-đàm-bát
Gặp Phật lại khó hơn.
Khỏi các nạn cũng khó
Mong cho các con xuất gia.

Mẹ liền bảo con rằng: "Cho các con xuất gia. Vì sao? Vì Phật khó gặp vậy". 

GIẢNG: 

Đây là hai người con nghe mẹ bảo, cho nên mới hiện sức thần thông bay lên hư không bằng bảy câu đa-la. Cây đa-la giống như cây dừa, cây cao của xứ này, cây này chặt thì nó chết luôn, không có mọc trở lại, cây này ở Ấn Độ thì thấy nhiều. Dùng thần thông bay lên hư không, hiện các thứ thần biến: nghĩa là hư không mà các Ngài khi có thần thông rồi thì đi trên hư không, ở trên đó mà đi đứng ngồi; rồi trên thân ra nước, dưới thân ra lửa; dưới thân ra nước, trên thân ra lửa; hoặc hiện lớn hiện nhỏ cho đến là vào đất cũng như vào nước, đi trên nước cũng như đi trên đất, vậy là không có gì chướng ngại. 

Cho thấy rõ các pháp đúng là tánh không, nó không có bản chất thật của nó. Mình thấy đất là cứng, nước là lông ướt. Còn ở đây là các Ngài đi trên nước giống như đi trên đất, còn vào đất giống như vào nước; đất hay nước không có chướng ngại gì hết. Cho nên, nếu mình nói tánh của đất thật cứng, tánh của nước là ướt, tánh của lửa là nóng, cái đó cũng là theo cái tập khí của chúng sanh phổ thông mà nói như vậy thôi, chứ còn nhìn vào trong bản chất thật của nó thì như ở đây tánh đất có phải là cứng không? Nếu mà cứng thì làm sao Ngài hiện thần thông vào đất cũng như vào nước được; còn nếu mà nước ướt thì sao mà đi trên nước như đi trên đất. Hoặc là thân ra lửa, lửa không cháy vậy thì lửa đâu có nóng. Vậy thì rõ ràng mình nói cái tánh của lửa là nóng, tánh của đất là cứng đó cũng là cái tương đối chứ không phải là cố định; tương đối theo cái tập khí của chúng sanh mình, với con mắt mình thì mình thấy vậy. Nhưng nếu nâng cao lên trình độ một chút nữa thấy thấu suốt qua cái này như trên thì đất đâu có cứng nữa, lửa đâu có nóng, cũng như nước đâu có ướt. Rõ ràng đến đây thì mới chứng thật rõ ràng các pháp tánh không.

Khi ông vua cha thấy các tướng thần biến như vậy đó thì tâm không còn bám chấp nữa cho nên mới chuyển hóa, chuyển hóa nên bây giờ mới hỏi hai người con: “Thầy của con là ai? Con là đệ tử của ai?”. Khi biết được là Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí thì bây giờ ông cũng muốn ra mắt Phật tức là chuyển tâm, là muốn chuyển tâm về thể giác. 

Đến đây hai người con mới thưa với mẹ. Đã làm Phật sự xong rồi tức là chuyển hóa được tâm của ông vua, nên xin cùng qua chỗ Phật rồi cùng xin được xuất gia theo Phật vì Phật ra đời là khó gặp. Tức là không để qua mất cơ hội, gặp cơ hội thì phải làm liền cho nên đây xin xuất gia. Đó cũng là dẫn đường cho người cha để chuyển theo tức là để tàng thức chuyển.

CHÁNH VĂN:

Bấy giờ, hai người con thưa với cha mẹ rằng: "Lành thay, cha mẹ! Xin liền qua đến chỗ Đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật để gần gũi cúng dường. 

Vì sao? Vì Phật khó gặp đặng, như hoa linh thoại, lại như rùa một mắt gặp bọng cây nổi mà chúng ta do phước đời trước sâu dày, sanh đời này gặp Phật pháp, xin cha mẹ nên cho chúng con đặng xuất gia. 

Vì sao? Vì các Đức Phật khó gặp được, thời kỳ gặp Phật cũng khó có. 

Lúc đó, nơi hậu cung của vua Diệu Trang Nghiêm có tám muôn bốn nghìn người thảy đều có thể kham thọ trì kinh Pháp Hoa này. Tịnh Nhãn Bồ-tát từ lâu đã thông đạt nơi "Pháp Hoa tam-muội", Tịnh Tạng Bồ-tát đã từ vô lượng trăm nghìn muôn ức kiếp thông đạt môn "Ly Chư Ác Thú tam-muội", vì muốn làm cho tất cả chúng sanh lìa các đường dữ vậy. Phu nhân của vua đặng môn "Chư Phật Tập tam-muội", hay biết đặng tạng pháp bí mật của các Đức Phật. Hai người con dùng sức phương tiện, khéo hóa độ vua cha như thế, khiến cho lòng cha tin hiểu, ưa mến Phật Pháp. 

Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm cùng chung với quần thần quyến thuộc, Tịnh Đức phu nhân cùng chung với thể nữ quyến thuộc nơi hậu cung, hai người con của vua, cùng chung với bốn muôn hai nghìn người đồng một lúc đi qua chỗ Phật. Đến rồi đầu mặt lạy chân Phật, đi quanh Phật ba vòng, rồi đứng qua một phía. 

GIẢNG:

Tức là tất cả đồng qua chỗ Phật. Đây hai người con mới thưa với cha mẹ, trước là chỉ thưa với người mẹ thôi, giờ mới thưa cả với cha mẹ là xin liền qua chỗ Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí để gần gũi, cúng dường. Đây hai Ngài nhấn mạnh Phật ra đời khó gặp, không phải dễ dàng, gọi là giống như hoa linh thoại, hay là giống như rùa một mắt gặp bọng cây nổi. 

Tức là câu chuyện giữa biển lớn có khúc cây nổi trong có cái bọng, có con rùa mù một mắt, trăm năm nó mới trôi đầu lên một lần, khi trôi lên mà trúng vào bộng cây đó thì rất là hy hữu. Trăm năm mới trôi đầu lên một lần mà bọng cây thì ở giữa biển, sóng vỗ qua vỗ lại thì biết chỗ nào trôi lên để trúng bọng cây! 

Đây mới nói là do có phước đời trước sâu dày cho nên sanh ra đời này được gặp Phật do đó mà xin được xuất gia. Đó là nhấn mạnh cái nhân duyên gặp Phật ra đời rất là hy hữu. Và như vậy cũng để nói lên thế gian này cũng không phải là chỗ để cho mình gửi nương. Chỉ có Phật mới là chỗ để quay về nhưng Phật thì lại khó gặp. Do đó khi mà gặp thì sao? Thì phải chộp lấy thời cơ liền, không để qua mất. Cũng như mình sanh ra đời, gặp được Phật pháp đây cũng là khó gặp. Sanh ra làm người đã là khó rồi. Mà bây giờ lại sanh làm người rồi gặp được Phật pháp đây để mà tu hành thì đúng là hy hữu đó, là cũng phải chộp thời cơ chứ không để qua mất. Bởi vì nhân quyên lành đâu phải dễ gì gặp lại. 

Bây giờ, đời nay mình sanh ra đời rồi được đầy đủ các căn, được gặp Phật pháp, được tu hành sớm như vậy đó, đời sau không biết có được nhân quyên giống như vậy chăng? Phải thấy cái hy hữu đó thì mình mới trân trọng được cái hiện tại của mình, chứ nhiều khi có được cái duyên lành hiện tại rồi mà không biết quý, còn sanh tâm này tâm kia rồi để cho nó qua mất thì sau ăn năn không kịp. Bây giờ đây phải chộp lấy thời cơ để mà làm liền, làm sao tu cho nó phải sâu dày. Đời sau nếu chưa giải thoát được, có sanh trở lại thì nhân duyên phải hy hữu hơn, nó phải tốt lành hơn chứ, tức là nó phải nhớ lại sớm rồi tu sớm, trôi cũng phải đạt đạo sớm nữa, như vậy thì mới tốt. Chứ không phải bây giờ cứ lơ là lơ là, để cho những thứ tập khí thế gian che bớt thì cái tích lũy nghiệp của tu hành yếu, đời sau sanh ra nó nhớ lại trễ; mà nhớ lại trễ thì sao? Nhớ lại trễ thì nó sẽ huân tập thêm tập khí thế gian nhiều. 

Thí dụ sanh ra đời mà mình chừng 10 tuổi, 20 tuổi mà nhớ sớm đi tu thì nó đỡ tạo nghiệp. Còn sanh ra đời sau mà để tới 40, 50 tuổi mới nhớ thì từ nhỏ tới 40, 50 tuổi đó chưa có nhớ được đạo lý này thì trong thời gian đó tạo biết bao nhiêu nghiệp thêm nữa. Những cái nghiệp thế gian tạo đó lại kéo dài thêm trong đường mê nữa, đường sanh tử nữa thì nhân duyên đó sẽ ra sao? Cho nên, ngay đây phải tu, phải làm cho được đến nơi đến chốn. 

Cho nên, ở đây các Ngài cũng nhấn mạnh như vậy để xin cha mẹ cho xuất gia, mà cũng để nhắc nhớ, để dẫn vua cha đến với Phật tức là cũng để chuyển tàng thức. 

“Bấy giờ, ở nơi hậu cung của vua Diệu Trang Nghiêm có tám muôn bốn nghìn người thảy đều có thể kham thọ trì kinh Pháp Hoa”, tức là cũng đều có chúng tử Phật, chủng tử giác ngộ. Hai người con thì cũng đã từ lâu thông đạt những pháp tam-muội như là: Tịnh Nhãn thì thông đạt Pháp Hoa tam-muội, Tịnh Tạng thì thông đạt Ly Chư Ác Thú tam-muội, phu nhân thì được môn Chư Phật Tập tam-muội (tam-muội mà chư Phật thường tập họp); tức là cũng đều có gốc từ thể giác, cùng chứng tam-muội, đây là cũng hết chạy theo cái thức phân biệt. Như vậy, các người con đã tỉnh trước, giác ngộ trước, chuyến trước rồi mới dẫn dắt hướng người cha chuyển theo tức là tàng thức chuyển sau cùng. 

“Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm mới cùng chung quân thần, quyến thuộc đồng đến chỗ Phật”. Tức là tất cả thức đều chuyển, tâm vương tâm sở đều chuyển hết, cho nên gọi là quần thần, quyến thuộc, rồi thể nữ v.v.. tức là những thứ tâm vương, tâm sở, buồn vui giận ghét v.v... tất cả đều chuyển về thể giác cho nên cũng đồng đến chỗ Phật hết.

CHÁNH VĂN:

Lúc đó, Đức Phật kia vì vua nói pháp, chỉ dạy làm cho được lợi ích vui mừng, vua rất vui đẹp. 

Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm cùng phu nhân mới mở chuỗi trân châu giá trị trăm nghìn đeo nơi cổ, để rải trên Đức Phật, chuỗi đó ở giữa hư không hóa thành đài báu bốn trụ, trong đài có giường báu lớn trải trăm nghìn muôn thiên y, trên đó có Đức Phật ngồi xếp bằng phóng hào quang lớn. 

GIẢNG:

Đây Đức Phật vì vua nói pháp, làm cho lợi ích vui mừng. Vua và phu nhân mới cởi chuỗi ngọc cúng dường, cởi chuỗi ngọc để cúng dường tức là xả thức và hết bám giữ. Đó là để chuyển về thể giác, chuyển về Như Lai tạng. 

CHÁNH VĂN: 

Lúc đó vua Diệu Trang Nghiêm mới nghĩ rằng: "Thân Phật tốt đẹp riêng lạ ít có, thành tựu sắc thân vi diệu thứ nhất”. 

Bấy giờ, Đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật, bảo bốn chúng rằng: "Các người thấy vua Diệu Trang Nghiêm chắp tay đứng trước ta đó chăng? Vị vua này ở trong pháp ta làm Tỳ-kheo siêng ròng tu tập các món trợ Phật đạo pháp, sẽ đặng làm Phật hiệu Ta-la Thọ Vương, nước tên Đại Quang, kiếp tên Đại Cao Vương. Đức Ta-la Thọ Vương Phật có vô lượng chúng Bồ-tát và vô lượng Thanh Văn, nước đó bằng thẳng công đức như thế".

GIẢNG: 

Đây là Đức Phật thọ ký cho vua Diệu Trang Nghiêm. Như vậy, hai người con giác ngộ trước rồi dẫn vua cha nhưng mà đến đây thọ ký thì lại thọ ký cho vua cha. Rõ ràng đây là chỉ cho tàng thức, tàng thức là cái thể của các thức, là cái gốc cho nên đây thọ ký cho vua Diệu Trang Nghiêm. Vậy là tàng thức chuyển. Khi đó thì sao?

CHÁNH VĂN:

Khi đó thì vua Diệu Trang Nghiêm mới liền đem nước giao cho em, rồi cùng phu nhân, hai người con và các quyến thuộc, ở trong Phật pháp xuất gia tu hành đạo hạnh. 

Vua xuất gia rồi trong tám muôn bốn nghìn năm thường xuyên tinh tấn tu hành kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Qua sau lúc đây thì đặng môn "Nhất Thiết Tịnh Công Đức Trang Nghiêm tam-muội".

GIẢNG:

 Tức là tam-muội được tất cả công đức thanh tịnh trang nghiêm. Đúng rõ ràng đến đây là chuyển rồi, tất cả công đức thanh tịnh trang nghiêm, không còn chứa những chủng tử mê lầm nữa.

CHÁNH VĂN:

Liền mới bay lên hư không, cao bảy cây đa-la mà bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Hai người con của con đây đã làm Phật sự, dùng sức thần thông biến hóa, xoay tâm tà của con, làm cho con được an trụ trong Phật pháp, được thấy Thế Tôn. Hai người con này là thiện tri thức của con, vì muốn phát khởi căn lành đời trước lợi ích cho con nên đến sinh vào nhà con".

GIẢNG:

 Đến đây vua giao nước cho em, rồi cùng phu nhân, hai người con, quyến thuộc đồng xuất gia tu hành hết, tức là tất cả thức đồng chuyển. Vua tinh tấn tu hành, và cũng tu hành theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa này tức là tu theo để khai thị Tri kiến Phật, để thể nhập Tri kiến Phật. Chính Tri kiến Phật mới chuyển tàng thức này về cái gốc chân thật đó. 

Qua lúc sau thì vua mới đặng môn “Nhất Thiết Tịnh Công Đức Trang Nghiêm tam-muội”. Đến đây là tất cả công đức được thanh tịnh trang nghiêm, thì đúng là hết còn chứa những chủng tử mê lầm, ô nhiễm, đó là tàng thức chuyển. Rồi vua bay lên hư không, cao bảy cây đa-la, bạch Phật, tán thán hai người con đã làm Phật sự chuyển hóa được tâm của con, rồi khiến con được ở trong Phật pháp, được thấy Phật, hai người con này đúng là thiện tri thức. Vua bay lên hư không tức là vượt lên cái chỗ sống bình thường kia, là chuyển hóa tâm thức xưa nay. Bây giờ nó ra khỏi mê lầm rồi nhưng cũng không quên hai người con đó là thiện tri thức dẫn dắt mở đường. 

Như vậy cho thấy rằng thiện tri thức cũng là ở ngay trong nhà mình chứ không đâu xa. Mình mê thì nó là thức, nó dẫn mình đi theo chiều vô minh sanh tử. Bây giờ giác thì cũng chính nó, nó là thiện tri thức, nó dẫn đường về. Cũng như thức thứ sáu là thức phân biệt đó: khi mê thì nó phân biệt tốt xấu phải quấy, hơn thua nó dẫn mình đi trong sanh tử luân hồi; nhưng khi giác thì cũng nhờ nó, nó dẫn mình về, nhờ nó mới phân biệt được tà chánh, tội phước, để cho mình biết mà mình trở về. Cho nên, nói là “công vi thủ tội vi khôi”: công đứng đầu, mà tội cũng đứng đầu. Đây cũng vậy, bây giờ nó thành thiện tri thức dẫn đường về, soi đường để trở về chánh giác. Vậy thì cuối cùng rồi có gì lấy, có gì bỏ, có gì khen chê? 

Cho nên, ở trong nhà thiền thường phá cái niệm thủ xả, không có niệm lấy bỏ phân biệt hai bên là vậy đó. Xưa cũng chính nó, nó mê dẫn mình đi bậy; giờ cũng chính nó làm thiện tri thức dẫn trở về, giờ chuyển thành trí, thành ra diệu dụng, làm lợi ích chúng sanh thì cũng không phải bỏ đi đâu hết, chỉ là chuyển thôi. Cho nên nói, cuối cùng rồi chuyển là chuyển cái tên mà không phải chuyển cái thể; thể vẫn nguyên vẹn, không có chuyển đi đâu hết nhưng chuyển cái tên. Xưa tên nó là thức, khi giác ngộ rồi thì chuyển thành tên trí gọi là Diệu Quan Sát trí. Vậy đúng là chuyển cái tên thôi, chứ không phải là cái thể chuyển đi đâu, cũng không có mất đi đâu hết, không có lấy bỏ gì hết. 

Cho nên ở đây cuối cùng rồi tất cả đồng đến chỗ Phật, cũng đồng về một nhà, không có mất không có thiếu gì hết. Cũng như tàng thức khi chuyển rồi thì nó thành Đại Viên Cảnh Trí, nó là Pháp thân, nó là gốc. Còn các thức thì chuyển thành các trí hoặc là báo thân, hóa thân, thành cái dụng để làm lợi ích chúng sanh thì cũng đều cùng một nhà hết. Hiểu như vậy thì mình thấy tu đến cuối cùng rồi cũng không có mất mát gì, chỉ chuyển tên mà không có chuyển thể là như vậy. 

Và như vậy cũng để nêu lên một ý nghĩa: cho thấy rằng cái mê lầm, cái tà kiến cũng không có cái thể thật của nó tức là không có cố định, không có cái bản chất thật của nó. Cho nên, nó có thể chuyển, tà kiến cũng có thể chuyển, mê lâm cũng có thể chuyển. Trong cái mê đó cũng không mất cái thể giác bởi vậy mà mình không có nên đem con mắt xấu mà nhìn tất cả. Như ở đây, vua ban đầu là tà kiến nhưng giờ chuyển rôi thì cũng trở về được thọ ký thành Phật, như vậy thì đâu phải hoàn toàn là xấu. Cũng như trong chỗ tà kiến đó cũng vẫn không mất cái gốc chân thật nên khéo khai thác, để hướng dẫn, chuyển về thì đó là chỗ tu của mình. 

Bởi vậy, cần đem con mắt Như Lai, hay con mắt Tri kiến Phật để nhìn tất cả, để mình có thêm niềm tin chuyển hóa. Nhìn bằng con mắt Như Lai, nhìn bằng con mắt Tri kiến Phật thì mình thấy ai cũng đều có Như Lai tạng, ai cũng đều có Tri kiến Phật thì không có nhìn xấu ai hết. Mà như vậy tức là đem lại niềm tin cho tất cả mọi người, có thêm niềm tin để mà vươn lên khỏi cái chúng sanh này. Chứ còn nhìn ngược lại bằng con mắt xấu thì mình thấy là ai cũng xấu, là chúng sanh, là mê lầm thì phiền não nó che mờ Tri kiến Phật. Không phải nói đâu xa, ngay trong nội tâm của mình thôi, nếu nhìn theo chiều xấu thì chính mình cũng thấy ghê gớm mình nữa, mình hết dám nhìn mình! Mình đã như vậy thì dám chê ai? Cho nên, đây cần có con mắt Như Lai, con mắt Tri kiến Phật đó để nhìn cho thấu suốt. Tức là cân có thiện tri thức để dẫn đường, soi sáng. Bởi vậy, mình cần phải học Pháp Hoa, thọ trì Pháp Hoa tức là để khai Tri kiến Phật. Học như vậy đó thì mình mới thấy được ý nghĩa sâu của mình, mới thấy phấn khởi.

CHÁNH VĂN:

Lúc đó, Đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật bảo với vua Diệu Trang Nghiêm rằng: "Đúng thế! Đúng thế! Như lời ông nói, nếu có Thiện nam tử, Thiện nữ nhân nào trồng cội lành thời đời đời đặng gặp thiện tri thức, vị thiện tri thức hay làm Phật sự, chỉ dạy cho lợi ích vui mừng, khiến vào đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. 

Đại vương nên biết! Vị thiện tri thức đó là nhân duyên lớn, giáo hóa dìu dắt làm cho đặng thấy Phật, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. 

Đại vương! Ông thấy hai người con này chăng? Hai người con này đã từng cúng dường sáu mươi lăm trăm nghìn muôn ức na-do-tha hằng hà sa các Đức Phật, gần gũi cung kính, nơi chỗ các Đức Phật thọ trì kinh Pháp Hoa, thương tưởng những chúng sanh tà kiến làm cho trụ trong chánh kiến”. 

GIẢNG: 

Đây Đức Phật  bảo vua Diệu Trang Nghiêm là hai người con này đúng là thiện tri thức. Hai người con này vốn từng gần gũi, cúng dường hằng sa Đức Phật và thọ trì kinh Pháp Hoa, vì thương tưởng những chúng sanh tà kiến mà làm cho trụ trong chánh kiến. Như vậy, người thiện nam, thiện nữ nào thường trồng cội lành thì đời đời đặng gặp thiện tri thức. Vị thiện tri thức này hay làm Phật sự, chỉ dạy lợi ích vui mừng. Cho nên mình khéo có trồng căn lành thì gặp được những thiện tri thức để mà hướng dẫn, chỉ dạy cho mình con đường đi đúng đường.

CHÁNH VĂN: 

Vua Diệu Trang Nghiêm Vương, khi đó liền từ trong hư không xuống mà bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Như Lai rất ít có, do công đức trí tuệ nên nhục kế trên đảnh sáng suốt chói rỡ. Mắt Phật dài rộng mà sắc xanh biếc, tướng lông trắng giữa chặng mày như ngọc kha nguyệt, răng trắng bằng và khít thường có ánh sáng, môi sắc đỏ đẹp như trái tần-bà". 

Lúc đó, vua Diệu Trang Nghiêm khen ngợi Phật có vô lượng trăm nghìn muôn ức công đức như thế rồi, ở trước Như Lai một lòng chắp tay lại bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Chưa từng có vậy! Pháp của Như Lai đầy đủ trọn nên bất khả tư nghì công đức vi diệu, dạy răn chỗ tu hành an ổn rất hay. Con từ ngày nay chẳng còn lại tự theo tâm hành của mình, chẳng sanh những lòng ác: kiêu mạn giận hờn tà kiến". 

Vua thưa lời đó rồi, lạy Phật mà ra. 

GIẢNG: 

Bây giờ, vua từ ở trên hư không xuống, rồi tán thán Phật: Như Lai hiếm có, do công đức trí tuệ cho nên nhục kế trên đảnh sáng suốt chói rỡ; mắt Phật dài rộng v.v... tán thán những tướng tốt của Phật. Nghĩa là vua trước kia thì bay lên hư không, bây giờ từ hư không xuống tức là sao? Rốt cuộc cũng trở về lại cuộc sống bình thường. Mình tu cũng vậy, ban đầu thì chuyến, chuyển giống như từ đây mà vượt lên, vượt lên nhưng cuối cùng rồi cũng trở lại đây, cũng trở lại trong bình thường đây nhưng bây giờ thì nó lại khác hơn ngày xưa. 

Như Thiền sư Duy Tín nói: “Trước ba mươi năm thì thấy núi sông là núi sông, khi học đạo thấy núi sông không phải là núi sông, nhưng sau ba mươi năm rồi thì thấy núi sông vẫn là núi sông”. Nhưng thấy núi sông vẫn là núi sông bây giờ khác với thấy núi sông là núi sông ngày xưa. Ngày xưa thấy núi sông là núi sông là mê lầm, chấp núi sông là thật núi sông; bị cái núi sông che mờ. Khi học đạo thì mới thấy rõ lâu nay là mình mê lầm, núi sông vốn không có thật, gọi là mở mắt trí Bát-nhã đó, thấy tất cả đều là không, cho nên núi sông không phải là núi sông. Nhưng khi sạch hết những cái mê lầm, thì cuối cùng rồi thấy núi sông cũng trả về núi sông tức không phải là phá bỏ nó đi đâu. Nhưng bây giờ là thấy trong ánh sáng trí tuệ, thấy cái gì nó sáng tỏ cái đó chứ không có mê lầm như ngày xưa nữa. 

Thì đây cũng vậy, trước hiện bay lên hư không rồi bây giờ cũng trở xuống, nhưng bây giờ không còn lầm lẫn như trước nữa, bây giờ là chuyển rồi, tàng thức bây giờ chuyển rồi tức là có chỗ sống chân thật rồi, sáng suốt rồi. Cho nên, đây khen Phật, khen pháp, xả bỏ chỗ lầm mê xưa nay. Bây giờ gọi là “con từ nay chẳng còn lại tự theo cái tâm hành của mình nữa”, là không còn theo cái tâm động niệm, mê lầm như ngày xưa nữa, không còn sanh những cái tâm như là: kiêu mạn, giận hờn, tà kiến nữa. Như vậy thì đến đây là tàng thức chuyển.

Vậy là trong chỗ mê lầm đó nhưng rồi cũng có thể chuyển được hết, tin tưởng chắc chắn cái gốc là từ Như Lai tạng. Ở đây, tàng thức tuy là mê nhưng mà gốc từ Như Lai tạng. Cũng vậy, mình xưa giờ là mê, là lầm đó nhưng mà gốc là cũng từ Phật tánh, cũng đều có Phật tánh sáng suốt chân thật, Tri kiến Phật cũng sẵn. Cho nên, khéo soi trở lại, để khai cái Tri kiến Phật đó, mở con mắt Tri kiến Phật ra mà nhìn thì mình có đủ niềm tin để mà chuyển hóa, vươn lên,

CHÁNH VĂN: 

Đến đây, Phật bảo đại chúng: "Ý các ông nghĩ sao? Vua Diệu Trang Nghiêm đâu phải người nào lạ, nay chính là Hoa Đức Bồ-tát và Tịnh Đức phu nhân nay chính là Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng Bồ-tát hiện đương ở trước Phật. Hai người con vì thương xót vua Diệu Trang Nghiêm và các quyến thuộc nên sanh vào trong cung vua, nay chính là Dược Vương Bồ-tát cùng Dược Thượng Bồ-tát. 

Dược Vương và Dược Thượng Bồ-tát này thành tựu các công đức lớn như thế là ở chỗ vô lượng trăm nghìn muôn ức các Đức Phật trồng các cội công đức, thành tựu bất khả tư nghì những công đức lành. Nếu có người biết danh tự của hai vị Bồ-tát này thời tất cả trong đời, hàng Trời, nhân dân cũng nên lễ lạy”. 

Lúc Phật nói phẩm “Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự” này, có tám muôn bốn nghìn người xa trần luỵ, rời cấu nhiễm, ở trong các pháp chứng được pháp nhãn tịnh.

GIẢNG: 

Đến đây, Phật nói rõ lại, vua Diệu Trang Nghiêm đó không phải ai khác chính là Bồ-tát Hoa Đức đang ở trong pháp hội; rồi bà Tịnh Đức phu nhân cũng không phải ai khác mà chính là Bồ-tát Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng, cũng đang ở trước Phật. Hai người con là Bồ-tát Dược Vương và Bồ-tát Dược Thượng cũng không ai khác. Như vậy, cái việc xa xưa đó, tưởng đâu là chuyện của ai xa xưa nhưng không ngờ chính là ngay hiện tại đây thôi, chứ không đâu khác. Nếu mở con mắt trí thì thấu qua xưa nay, không gì lạ hết. Chúng ta cũng vậy, khéo mở được con mắt trí, nhìn thấu qua xưa nay đó, liền thấy tất cả cùng ngồi đây cũng đều có cái gốc chân thật giống nhau thì xóa tan những ranh giới sai biệt. Bây giờ sở dĩ có những cái sai biệt với nhau đó là do cái tập nghiệp tạo tác, nó huân tập nhiều đời. Bởi mọi người có huân tập những cái nghiệp riêng, khác cho nên bây giờ không ai giống ai. Chỗ không giống đó là nghiệp huân tập thôi, còn cái nguồn gốc chân thật đó thì nó không hai không khác. 

Thấy được đến chỗ đó để xóa tan bớt những cái sai biệt thì mình mới sống gần gũi với nhau trở lại, chứ không phải chấp theo chỗ sai biệt này. Chấp theo chỗ sai biệt này đó là sống theo cái ngã, bởi sống theo cái ngã này nên mới thấy cách biệt nhau, rồi gây đau khổ cho nhau. Mà đã gọi là cái ngã, cái sai biệt này là cái mình huân lập sau này thì cái đó là cái tạo tác trong mê lầm thôi, mà cứ bám chấp vào chỗ đó thì đúng là sống trong mê lầm điên đảo. Giờ đây học đạo thì phải chuyển cái mê lầm đó để thấy trở về trong chỗ giống nhau, chỗ gần gũi nhau. Đó mới là chỗ học đạo của mình. Học Pháp Hoa là mình học thấu đến chỗ đó, mà học đến chỗ đó rồi thì mới tin tưởng chắc chắn, ai cũng đều có Tri kiến Phật, đều có thể vươn lên, vượt khỏi cái sai biệt này để cùng trở về chỗ ánh sáng chân thật gần gũi với nhau đó. 

Kết lại, khi Phật nói phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự này thì có tới tám muôn bốn nghìn người xa trần lụy, rời cấu nhiễm, ở trong các pháp chứng được pháp nhãn tịnh, tức là được con mắt pháp thanh tịnh, lìa trần nhiễm. Đó là chuyển hóa. Mở được con mắt này thì cũng là trở về cái gốc chân thật. Cho nên, mình học Pháp Hoa cũng phải khéo để mở được con mắt thanh tịnh này, rồi cùng chuyển để trở về cái gốc chân thật. Như vậy mới đúng là mình học sâu Pháp Hoa và công đức quả là không lường hết nổi. Đúng như Phật dạy là công đức không nghĩ bàn.

Mục Lục