Kinh Pháp Hoa Giảng Lục - Tập III
Phẩm 14 An Lạc Hạnh (tt)
CHÁNH VĂN: Lại Văn-thù-sư-lợi! Vị Đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt mà thọ trì đọc tụng kinh điển này, chớ ôm lòng ganh ghét dua dối, cũng chớ khinh mắng người học Phật đạo, vạch tìm chỗ hay dở của kia. Nếu hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc cầu Thanh Văn, hoặc cầu Duyên Giác, hoặc cầu Bồ-tát đạo đều không đặng làm não đó, khiến cho kia sanh lòng nghi hối mà nói với người đó rằng: "Các người cách đạo rất xa, trọn không thể đặng bậc Nhất thiết chủng trí. Vì sao? Vì các người là kẻ buông lung, biếng trễ đối với đạo". Lại cũng chẳng nên hý luận các pháp có chỗ giành cãi. Phải ở nơi tất cả chúng sanh, khởi tưởng đại bi, đối với các Đức Như Lai sinh tưởng như cha lành, đối với các Bồ-tát tưởng là bậc Đại sư, với các Đại Bồ-tát ở mười phương phải thâm tâm lễ lạy, với tất cả chúng sanh đều bình đẳng nói pháp. Vì thuận theo pháp nên chẳng nói nhiều, chẳng nói ít, nhẫn đến người rất ưa pháp, cũng chẳng vì nói nhiều. Văn-thù-sư-lợi! Vị Đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp muốn diệt nếu thành tựu được hạnh an lạc thứ ba đây, thời lúc nói pháp này không ai có thể não loạn, đặng bạn đồng học tốt chung cùng đọc tụng kinh này, cũng đặng đại chúng thường đến nghe thọ. Nghe rồi hay nhớ, nhớ rồi hay tụng, tụng rồi hay nói, nói rồi hay chép, hoặc bảo người chép, cúng dường quyển kinh cung kính tôn trọng ngợi khen. GIẢNG: Đây là hạnh An Lạc thứ ba. Ở đời rốt sau, lúc pháp gần diệt thì người thọ trì đọc tụng kinh điển này chớ có ôm lòng ganh ghét, dua dối, khinh mắng người học đạo, hoặc tìm chỗ hay dở, hoặc làm não cho người đó, hoặc nói những lời khiến cho người ta thối tâm, mất niềm tin, cũng không có hý luận tranh cãi. Đây là giữ gìn chánh hạnh về ý. Trước thì nói rằng: “Lúc pháp gần diệt mà còn có những người biết thọ trì kinh pháp” tức là không phải diệt. Thứ hai là tuy nói “pháp gần diệt” nhưng pháp có diệt hay không? Đó là điểm phải hiểu thật kỹ. Nếu pháp có diệt như vậy, mà mình tu hành theo pháp thì cuối cùng cũng mất. Pháp diệt thì mình lấy gì nương tựa? Cho nên, ở đây phải hiểu rằng, nói pháp gần diệt là nói theo pháp nhân duyên tức theo ngôn từ của thế gian. Pháp này có lập bày, là pháp thuộc về nhân duyên chớ không phải là pháp thật. Có lập bày nên mới có diệt, còn pháp thật thì đâu có sinh mà nói diệt. Phải thấy được ý đó, chớ pháp thật mà diệt luôn, vậy mình tu hành được pháp mà mai mốt nó cũng mất thì nó vô thường sao? Do vậy, Ngài Động Sơn Lương Giới (Tổ của tông Tào Động) khi sắp tịch liền sai vị Sa-di đi báo tin cho Ngài Vân Cư Đạo Ưng (đệ tử nối pháp). Nhưng trước khi ông Sa-di đi, Ngài Động Sơn dặn: - Ông đến đó, Vân Cư có hỏi: “Hòa thượng được an vui chăng?” thì ông chỉ nói: “Con đường Vân Nham sắp dứt”. Nhưng nói xong thì ông phải đứng xa ra ngay, coi chừng là y sẽ đánh ngươi. Ông Sa-di vâng mệnh đi báo tin thì quả nhiên như vậy. Mới vừa nói xong chưa dứt lời là bị Ngài Vân Cư đánh cho một gậy liền! Chưa kịp tránh ra xa là bị đánh rồi. Đây mới thấy là thầy trò rất hiểu nhau. Ngài Động Sơn bảo ông Sa-di đi báo tin, mà tin này là tin Ngài sắp tịch nên mới nói: “Con đường Vân Nham sắp dứt”. Nhưng đây cũng là nói theo ngôn ngữ thế gian, nếu lúc Ngài tịch mà con đường Vân Nham dứt luôn thì còn gì nữa mà tu? Vậy ra con đường này, pháp này cũng là vô thường sao? Cho nên, nói con đường Vân Nham sắp dứt là nói theo ngôn từ thế gian. Dứt tức là thân này diệt thôi, chứ lẽ thật đó làm sao dứt được? Nếu nó dứt thì thành ra pháp vô thường, pháp bại hoại rồi! Do vậy, vừa nghe xong là Ngài Vân Cư đánh ông Sa-di liền, đó là ngừa cho người sau. Đây là con cháu ở trong nhà nghe thì liền tự hiểu, thầy trò cảm thông nhau, không mắc kẹt trên ngôn ngữ. Còn người ngoài thì không hiểu, nói như vậy thì có lỗi gì mà bị đánh? Nhưng đánh đó là. để ngăn ngừa người hiểu lâm theo văn tự. Ở đây, mình cũng phải hiểu được ý đó. Nói “pháp gần diệt” tức là pháp nhân duyên, pháp phương tiện, có lập bày thì có lúc cũng phải có diệt, có phá. Còn pháp chân thật kia không có sinh thì làm sao có diệt, chính “pháp chân thật kia” mới là chỗ mình trì, mình sống. Với tinh thần Phật dạy, pháp phương tiện, pháp nhà duyên lúc sắp diệt nhưng còn có người thọ trì, đọc tụng kinh điển này thì nó chưa diệt. Và người thọ trì đọc tụng kinh điển này thì phải chớ ôm lòng ganh ghét, dua dối, chớ khinh mắng người học Phật đạo, vạch tìm chỗ hay dở của người ta. Được như vậy thì mới đúng là giữ gìn, là trì kinh Pháp Hoa. Tập khí sinh tử của chúng sanh rất là dễ ganh ghét. Mà chính tâm này là trở ngại rất lớn trên con đường tiến tu, chẳng những cản bước tiến của người tu mà cũng trở ngại bước tiến hóa của nhân loại nữa. Thấy ai hơn mình thì ganh ghét, không muốn ai hơn mình nên tìm cách để hạ người ta xuống. Mà ai cũng phải dưới mình thì làm sao nhân loại tiến hóa được? Tập khí này như luôn ngầm ẩn trong mỗi người. Hai huynh đệ mới vô tu chưa có gì thì sống rất vui vẻ, gần gũi với nhau. Nhưng lâu lâu huynh kia được nổi lên một chút hơn mình thì tâm ganh ghét có trong đó liền. Hoặc là hai nhà gần bên, ban đầu cũng cùng nghèo với nhau thì không sao, nhưng nhà kia làm ăn phát tài lên thì cũng hơi ganh ganh rồi. Do vậy, mình phải thấy để ngăn ngừa vì nó thuộc về tâm ích kỷ. Đúng ra, thấy huynh đệ tu tốt, làm được Phật sự nhiều thì mình phải mừng chứ. Mừng vì mình có được người huynh đệ xứng đáng để học theo, nương theo. Chớ thấy vậy mà ganh ghét muốn hạ người đó thì cái đó cần phải tránh vì đây là tập khí theo bản ngã. Cho nên, cần phải thấy rõ để phá trừ mới khiến cho Tri kiến Phật được lưu thông, được rộng khắp, Đó mới là trì kinh Pháp Hoa. Nhà Thiền có câu: “Cái thấy bằng thầy thì còn kém thầy nửa đức, cát thấy mà vượt hơn thầy mới kham truyền trao”. Chính đó là con đường tiến hóa, đó mới là truyền trì mạng mạch Như Lai lâu dài. Nên nhớ cái thấy bằng thầy thì vẫn còn kém thầy nửa đức, còn cái thấy vượt hơn thầy đây mới kham truyền trao được. Bởi vì cái thấy thì mới bằng thầy, nhưng cái đức thì chưa bằng, chỗ sống chưa bằng thầy. Mình mới vô tu có năm mười năm, còn thầy tu mấy chục năm thì làm sao bằng được? Do đó, cái thấy phải vượt hơn thầy thì mới kham truyền trao, vậy mới giữ gìn gia nghiệp lâu dài được. Mà cái thấy vượt hơn thầy đây cũng ý muốn nói mình phải soi trở lại nơi chính mình, chứ không phải hoàn toàn nương tựa nơi ông thầy. Phải phát triển sức sống chân thật của chính mình để từ trong đó mà vươn lên, không phải chỉ một bề ỷ lại từ ông thầy bên ngoài. Được như vậy thì mới kham truyền trao, mới kham nhận gia nghiệp. Chớ ôm lòng ganh ghét dua dốt, cũng chớ khinh mắng người học Phật đạo, vạch tìm chỗ hay dở của người kia. Dua dối tức là không chân thật. Tâm mà dua dối, tà vạy thì làm mờ đi Tri kiến Phật, nên cần phải có tâm chân thật mới khế hợp với Phật đạo được. Rồi lo vạch tìm chỗ hay dở của người để chỉ trích người ta, như vậy là lu mờ Tri kiến Phật thì làm sao mà trì? Cứ lo vạch tìm chỗ hay dở của người ta, còn chỗ hay dở của mình thì ai tìm? Cho nên, phải tránh những lỗi đó thì được an lạc truyền Pháp Hoa. Nếu hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc Ưu-bà-di, hoặc cầu Thanh văn, hoặc cầu Duyên giác, hoặc cầu Bồ-tát đạo đều không đặng làm não. Tức là không nói những lời khiến cho họ thối tâm, mất niềm tin, điều đó cũng phải tránh. Bởi vì người rõ được lẽ thật này thì thấy rằng Tri kiến Phật là cái ai cũng có, ai cũng sẵn đủ thì tại sao lại ngăn người ta? Cho nên, trong kinh Kim Cang, khi Ngài Tu-bồ-đề hỏi Đức Phật: “Năm trăm năm sau Phật diệt độ, có chúng sanh nào có thể tin theo kinh này hay không?” thì Phật liền ngăn: “Tu-bồ-đề! Ông chớ nói lời ấy!”. Tức nói như vậy là làm mất niềm tin người ta. Ai cũng có lẽ thật này, tại sao lại không thể tin? Ông nói như vậy là làm cho người ta mất niềm tin. Đáng lẽ phải nói: “Sau này, ai ai cũng có khả năng tin kinh này” để cho người ta có sức mạnh, có niềm tin mà vươn lên. Đó là cách khéo nói để mình không làm mất niềm tin người ta. Lại cũng chẳng nên hý luận các pháp có chỗ giành cãi. Hý luận tức là lo bàn luận những chuyện bên ngoài không dính gì đến nghĩa thật. Còn tranh cãi tức là còn tâm hơn thua, ai thường hay tranh cãi tức là tâm hơn thua còn nhiều. Đó là phô bày tâm nhân ngã sinh tử, mình phải luôn hơn người mới được. Đó cũng là trái với pháp thể rồi. Chính chỗ này, ngày xưa Lục Tổ dạy trong bài kệ: Báo những người học đạo Gắng sức cần dụng ý. Chớ đối của Đại thừa, Lại chấp trí sinh tử. Tức là chớ có đối trong cửa Đại thừa này mà chấp theo trí sinh tử. Tranh cãi hơn thua đó là trí sinh tử, được hơn tưởng đâu là thắng nhưng không ngờ đó là nằm trong sinh tử. Nếu ngay lời tương ưng Liền cùng bàn nghĩa Phật. Tức là ngay lời nói mà cùng hợp với nhau thì cùng nhau bàn nghĩa Phật. Nếu thột chẳng tương ưng Chắp tuy khiến hoan hỷ. Nếu nói thấy không hợp thì chắp tay xá, không cãi vì biết là không khế hợp. Tranh liền mất ý đạo. Chấp pháp môn tranh cãi, Tự tánh vào sinh tử. Nếu tranh thì liền mất ý đạo, ý thật. Chấp pháp môn, tranh cãi thì tự tánh đi vào sinh tử. Rõ ràng, đó là đi trong sinh tử, trí đó là thí đụ tử thôi. Tưởng đâu tranh cãi hơn là hay nhưng không ngờ đó là đi vào sinh tử, trí đó thuộc về sinh tử chứ không hay gì. Đối với các Đức Như Lai sinh tưởng như cha lành, đối với các Bồ-tát tưởng là bậc Đại sư. Tức là tâm luôn tôn kính người, đây cũng để trừ tâm kiêu mạn. Với các Đại Bồ-tát ở mười phương phải thân tâm lễ lạy, với tất cả chúng sanh đều bình đẳng nói pháp. Đối với chư vị Như Lai, Bồ-tát, thì phải thấp mình, khiêm tốn thâm tâm lễ lạy để phá lòng kiêu mạn. Không phải là mình nghĩ rằng: “Ta đây ngộ đạo, kiến tánh thành Phật. Ta đây cũng như Phật thì còn phải lễ lạy ai nữa?!” mà không ngờ đó là tâm kiêu mạn nổi lên. Cho nên, cái đó cần phải tránh. Với tất cả chúng sanh đều bình đẳng nói pháp, không sinh tâm đây kia. Vì thuận theo pháp nên chẳng nói nhiều chẳng nói ít, nhẫn đến người rất ưa pháp cũng chẳng vì nói nhiều. Tức là vì thuận với pháp nên không nói nhiều, không nói ít. Đây là giữ tâm ý thanh tịnh, là chánh hạnh về ý. Được như vậy sẽ an lạc mà nói pháp. Đó là hạnh An Lạc thứ ba. CHÁNH VĂN: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Nếu muốn nói kinh này GIẢNG: Một lòng An Lạc hạnh tức là nhất tâm, Nhất Tâm An Lạc hạnh. Thuật lại ý trên, Phật nói rõ: “Người muốn nói kinh này thì phải bỏ những lòng ganh hờn, kiêu ngạo, dua dối, tà nguỵ, thường tu hạnh chất trực, không khinh miệt người, không hý luận pháp”. Ngay thẳng, chất trực tức là thành thật, không tâm cong quẹo, nghiêng lệch thì nó thuận với pháp, không trái với pháp thể. Người học hay tu Phật phải ráng tu hạnh chất trực này. Chất trực thì không dua dối, tà nguỵ, kiêu ngạo, cong queo. Có vị tăng hỏi Thiền sư Thạch Đầu: - Cái gì là vật quý nhất ở trong Phật pháp? Ngài Thạch Đầu đáp: - Không cong vạy. Chính tâm không cong vạy là quý nhất trong Phật pháp. Ông tăng hỏi: - Khi không cong vạy thì sao? Ngài Thạch Đầu đáp: - Nghiêng nước cũng chẳng đổi dời. Tức là tâm ngay thẳng, chất trực thì dù cho nghiêng trời, nghiêng nước cũng vẫn không đổi dời. Được tâm đó là mau thành Phật. Từ khi mới phát tâm tu cho đến rốt sau thành Phật, thẳng một đường, không cong vạy gì, thì thành Phật nhanh thôi. Còn bây giờ có khi mới ban đầu xuất gia thì phát tâm rất cương quyết, rất thanh tịnh lúc đó chết cũng được! Dù cha mẹ ngăn không cho đi xuất gia thì khóc, quyết đi. Bạn bè ngăn cản cũng không được, nhưng vô chùa ít lâu thì nó bắt đầu cong cong trở lại thế gian, chính vì vậy mà lâu thành Phật. Chứ nếu từ khi mới phát tâm xuất gia cho đến cuối cuộc đời, thẳng một đường mà đi thì ngay đời này ngộ đạo cũng nhanh. Đó là tâm chất trực, ngay thẳng, không cong quẹo gì. Ngay một niệm này, cho đến thành Phật thì cũng một niệm đó thôi, vậy thì mau thành Phật. Đây là điều mình phải học, không để cho tâm cong vạy. Luôn luôn phải khéo thấy lại mình mà kiểm soát, thấy nó hơi cong là phải chỉnh, phải uốn nó lại chớ đừng để nó cong quá thì đi xa, đi lạc. Kiểm lại, tu hành lâu lâu mà thấy nó hơi thối tâm, sinh chuyện này chuyện kia thì biết là nó bắt đầu cong rồi! Thì phải điều chỉnh lại, chớ để cho nó cong luôn thì nguy hiểm! Đây là điểm nhắc nhở, đánh thức mình rất lớn. Không hý luận tranh cãi, không nói lời khinh miệt người khiến người ta mất niềm tin, mà phải có lòng từ bi, khiêm tốn để trừ tâm kiêu mạn. Người nghe thấy ông thầy đó kiêu mạn quá thì cũng đâu còn muốn nghe. Trong chúng thấy huynh đó kiêu mạn quá thì người ta cũng muốn tránh bớt. Do vậy, điều này cũng phải tránh. Giữ Nhất Tâm An Lạc hạnh như vậy thì được vô lượng chúng sanh cung kính, an ổn mà trì kinh Pháp Hoa. CHÁNH VĂN: “Lại Văn-thù-sư-lợi! Các vị Đại Bồ-tát ở đời rốt sau, lúc pháp gần diệt có vị nào trì kinh Pháp Hoa này ở trong hàng người tại gia, xuất gia sinh lòng từ lớn, ở trong hạng người chẳng phải Bồ-tát sinh lòng bi lớn, phải nghĩ thế này: “Những người như thế thời là mất lợi lớn. Đức Như Lai phương tiện tùy nghi nói pháp chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng hiểu, chẳng tin, chẳng hỏi. Người đó dầu chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu kinh này, lúc ta đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, người đó tùy ở chỗ nào, ta dùng sức thần thông, sức trí tuệ dẫn dắt đó khiến đặng trụ trong pháp này”. Văn-thù-sư-lợi! Vị Đại Bồ-tát đó ở sau lúc Như Lai diệt độ, nếu thành tựu đặng pháp thứ tư này thời lúc nói pháp này không có lầm lỗi, thường được hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Quốc vương, Vương tử, đại thần, nhân dân, Bà-la-môn, Cư sĩ thảy cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, hàng chư Thiên ở trên hư không, vì nghe pháp cũng thường theo hầu. Nếu ở trong xóm làng thành ấp, rừng cây vắng vẻ, có người đến muốn gạn hỏi, hàng chư Thiên ngày đêm thường vì pháp mà hộ vệ đó, có thể khiến người nghe đều đặng vui mừng. Vì sao? Vì kinh này được sức thần của tất cả các Đức Phật thuở quá khứ, vị lai, hiện tại giữ gìn vậy. Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này ở trong vô lượng cõi nước, nhẫn đến danh từ còn chẳng đặng nghe hà huống là đặng thấy thọ trì đọc tụng. GIẢNG: Đây là hạnh An Lạc thứ tư, là tâm đại từ bi không bỏ chúng sanh. Cho nên, đối với người tại gia xuất gia có lòng tin thì sinh lòng từ lớn mà đem pháp lạc đến cho họ. Còn đối với hạng người chẳng phải Bồ-tát, hạng người không có lòng tin thì sinh lòng bi lớn (tức thương xót) mà nghĩ như vầy: “Những người như thế thời là mất lợi lớn, Đức Như Lai phương tiện tuỳ nghi nói pháp mà chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng hiểu, chẳng tin, chẳng hỏi. Người đó dầu chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu kinh này, lúc ta đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, người đó tuỳ ở chỗ nào, ta dùng sức thần thông, sức trí tuệ dẫn dắt đó khiến đặng trụ trong pháp này”. Tuy họ không tin, không hiểu nhưng không bỏ họ. Khi mình giác ngộ thì khéo dùng phương tiện để dẫn dắt họ vào trong pháp này. Như vậy, với người có lòng tin thì sinh lòng từ lớn, sẵn sàng đem lợi ích an vui khiến cho họ thêm căn lành. Tức là giúp cho họ gần đến Bồ-đề hơn, mừng cho họ được lợi lớn, không đố kỵ. Còn với người thiếu lòng tin thì sinh lòng bi lớn, thương xót, sẵn sàng tìm cách đưa họ vào chánh pháp chớ không ghét bỏ, không khinh thường. Vậy là không khinh thường ai, không phải thấy họ không tin rồi bỏ ra. Bởi vì Bồ-tát thấy rõ ai cũng đều có đủ lẽ thật này, chỉ tự mê thôi. Tuy không tin nhưng họ vẫn có đủ chứ không phải thiếu. Nhưng vì tự họ mê nên họ thật đáng thương xót. Bây giờ mình thấy được thì phải thương người chưa thấy. Kiểm lại thì họ cũng đồng với cảnh ngộ của mình trước kia, lúc mình chưa hiểu đạo thì mình cũng như họ vậy, có mà không nhận biết được. Thấy họ đồng cảnh ngộ như mình trước kia thì phải thương. Cho nên, khi giác ngộ thì cũng tìm mọi phương tiện để đánh thức cho họ thức tỉnh trở lại, cùng sống trong lẽ thật này, mà cũng là xoá tan ranh giới kia đây làm cách biệt. Do vậy, trong Quy Sơn Cảnh Sách, Ngài Quy Sơn có nguyện: “Nguyện đời đời cùng làm bạn pháp”. Ngài tự nguyện làm bạn pháp với mọi người mà không cần ai mời mọc. Chính như vậy thì mới khế hợp với tâm Phật, đó là truyền Pháp Hoa ở đời. Người trì Pháp Hoa đủ hạnh An Lạc này thì được an ổn truyền kinh Pháp Hoa này. Cho nên, Phật dạy Bồ-tát ở đời sau này nếu thành tựu được pháp thứ tư này thì lúc nói pháp không có lầm lỗi, được các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni v.v… cho đến Bà-la-môn, Cư sĩ đều cung kính tôn trọng. Phật nói rõ: “Kinh này được sức thần của tất cả chư Phật ba đời giữ gìn”, chứ không phải là thường. Vì đây là chỗ sống của chư Phật ba đời nên cần phải hết sức tôn trọng mà vâng giữ để không phụ ân chư Phật. Chư Phật ba đời ân cần giữ gìn như vậy mà mình không tôn trọng thì phụ ân Phật quá lớn. Kinh này ở trong vô lượng cõi nước nhẫn đến danh tự mà không đặng nghe nữa hương là thấy, thọ trì, đọc tụng. Vô lượng cõi nước còn không được nghe tên “Pháp Hoa” này nữa, chớ chưa nói tới thấy nhận thọ trì. Còn mình bây giờ được nghe, được học, được hiểu thì sao? Phải thấy được những duyên may mắn như vậy, duyên lớn như vậy thì mình mới trân trọng. Không nói đâu xa, ngay trong thế giới này chứ không phải nói vô lượng thế giới xa xôi, quán kỹ lại trên thế giới này có bao nhiêu người được nghe biết việc này? Còn bao nhiêu người chưa từng nghe đến? Như vậy mà không thấy là mình có duyên lớn hay sao? Đó là Phật nhấn mạnh để cho người học thấy được điều cao quý đó, duyên lành lớn lao đó mà trân trọng, không để lờ qua. Tóm lại, nếu đầy đủ bốn hạnh An Lạc này thì được an ổn nói kinh Pháp Hoa không chướng ngại: 1. Hạnh thứ nhất là trụ trong Hành xứ và Thân cận xứ: giữ gìn thân không lầm lỗi nên không gần gũi những Quốc vương, Vương tử, những kẻ ngoại đạo, kẻ chơi hung hiểm cho đến những người nữ v.v… Phải thường dùng trí tuệ để quán chiếu các pháp đúng như lý thật, như thật tướng của nó, không mê lầm, luôn có ánh sáng chánh trí dẫn đường, tức là có sự và có lý. Đây là giữ chánh hạnh về thân, nhưng cũng phải luôn có ánh sáng trí tuệ dẫn đường để không lầm lẫn. 2. Hạnh thứ hai là giữ chánh hạnh về miệng: miệng không nói lỗi tốt xấu, hay dở của người, lòng an lạc chẳng sinh oán hiềm. Nhưng miệng sở dĩ nói thì cũng phải từ tâm nghĩ, cho nên lòng cũng phải an lạc, không sinh oán hiềm, phải điều chỉnh từ trong tâm khiến người nghe không trái ý. Luôn hướng người đến nghĩa thật của Đại thừa chứ không để người ta ngưng trệ giữa đường. Đó là chánh hạnh về ngữ. 3. Hạnh thứ ba là giữ chánh hạnh về ý: giữ ý không có lỗi, được chân chánh, không ôm lòng dua dối, hý luận, tranh cãi, trái với đạo chân thật, phải tu hạnh chất trực, ngay thẳng, chân thành, không làm não người, không nói lời khiến người ta mất lòng tin. Hạnh này gọi là Nhất Tâm An Lạc hạnh. 4. Hạnh thứ tư là tâm đại từ bi không có bỏ chúng sanh. Đủ bốn hạnh đó thì được an ổn truyền kinh Pháp Hoa. Kế đến, Phật thí dụ về Kế Châu. CHÁNH VĂN: Văn-thù-sư-lợi! Thí như vua Chuyển Luân Thánh Vương sức lực mạnh mẽ muốn dùng oai thế hàng phục các nước mà các vua nhỏ chẳng thuận mạng lệnh. Bấy giờ, Chuyển Luân Thánh Vương đem các đạo binh qua đánh dẹp, vua thấy binh chúng những người đánh giặc có công, liền rất vui mừng theo công mà thưởng ban. Hoặc ban cho ruộng, nhà, xóm làng, thành ấp; hoặc ban cho đồ y phục trang nghiêm nơi thân; hoặc cho các món trân bảo, vàng bạc lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, voi ngựa xe cộ, tôi tớ, nhân dân, chỉ viên minh châu trong búi tóc chẳng đem cho đó. Vì sao? Vì riêng trên đảnh vua có một viên châu này, nếu đem cho đó thời các quyến thuộc của vua ắt rất kinh lạ. Văn-thù-sư-lợi! Như Lai cũng lại như thế, dùng sức thiền định trí tuệ đặng cõi nước pháp, giáo hóa trong ba cõi mà Ma Vương chẳng khứng tin phục, các tướng Hiền thánh của Như Lai cùng ma đánh nhau. Những người có công lòng cũng vui mừng, ở trong hàng chúng vì nói các kinh khiến tâm kia vui thích, ban cho các pháp thiền định, giải thoát, vô lậu, căn, lực. Và lại ban cho thành Niết-bàn, bảo rằng đặng diệt độ để dẫn dắt lòng chúng làm cho đều đặng vui mừng mà chẳng vì đó nói kinh Pháp Hoa này. Văn-thù-sư-lợi! Như vua Chuyển Luân thấy các binh chúng những người có công lớn, đem viên minh châu khó tin, từ lâu ở trong búi tóc chẳng vọng cho người, mà nay cho đó. Đức Như Lai cũng lại như thế, làm vị Đại Pháp Vương trong ba cõi, đem pháp mầu giáo hóa tất cả chúng sanh, thấy quân hiền thánh cùng ma ngũ ấm, ma phiền não, ma chết, đánh nhau có công lao lớn, diệt ba độc, khỏi ba cõi, phá lưới ma. Lúc ấy, Như Lai cũng rất vui mừng, kinh Pháp Hoa này có thể khiến chúng sanh đến bậc Nhất thiết trí, là pháp mà tất cả thế gian nhiều oán ghét khó tin, trước chưa từng nói mà nay nói đó. GIẢNG: Đây Phật thí dụ về Kế Châu, tức vua Chuyển Luân Thánh Vương có sức lực mạnh mẽ, có viên minh châu rất quý, thường để ở trên búi tóc (chỗ tôn quý, khó thấy). Những nước nhỏ không tin phục, vua cho binh tướng đánh dẹp. Những người có công thì vua thưởng cho cái này, thưởng cho cái kia nhưng viên minh châu này thì chưa cho, chỉ đợi những người nào có công lớn nhất mới đem cho. Đức Phật cũng vậy, những bậc hiền thánh có công đánh dẹp quân ma thì Phật cho những pháp vô lậu, căn, lực v.v… cho đến Niết-bàn, nhưng chưa nói đến, chỉ ra lẽ thật này. Cuối cùng, khi căn cơ thuần thục thì Phật mới nói đến Pháp Hoa, tức chỉ ra lẽ thật này. Cho nên, đây là chỗ rất tôn quý. Đó là thí dụ về Kế Châu. Vua Chuyển Luân Thánh Vương là bậc vua phước đức lớn, cai trị nhiều nước nhỏ. Trong kiếp tăng, chúng sanh có nhiều phước đức do vậy mới có Chuyển Luân Thánh Vương. Chuyển Luân Thánh Vương có bốn hạng: Thiết Luân Vương, Đồng Luân Vương, Ngân Luân Vương và Kim Luân Vương. Thiết Luân Vương phước có giới hạn nên chỉ cai trị được một châu thiên hạ, còn Đồng Luân Vương thì cai trị được hai châu, Ngân Luân Vương thì cai trị được ba châu, chỉ có bậc Kim Luân Vương thì cai trị được bốn châu thiên hạ. Do có phước lớn nên khi bậc Chuyển Luân Thánh Vương ra đời thì xe báu, ngọc báu, nữ báu v.v… tự hiện đến. Thánh Vương này có hạt châu báu ở trên đảnh (tức búi tóc), là chỗ rất tôn quý nên không dễ gì vọng đem cho người. Ở đây dụ với Như Lai có châu báu là Tri kiến Phật này, cũng không có dễ gì vọng trao cho người. Mình đọc kinh, đọc lịch sử thì mới thấy, ban đầu mới thành đạo thì Phật chưa muốn thuyết pháp. Do Phạm Thiên Vương thỉnh ba lần, Phật mới nhận lời. Rồi lúc chuyển pháp luân thì Phật nói Tứ đế, Mười hai nhân duyên để mọi người trừ những khổ não sinh tử, chứng Niết-bàn chứ chưa vội nói đến lẽ thật này, lúc đó mọi người mới dễ tin, dễ nhận. Cũng như mình ở đây, người mới vào đạo chưa biết gì mà chỉ lẽ thật này thì làm sao tin được? Cho nên, người mới học đạo thì phải dạy căn bản Phật pháp, dạy lý nhân quả để làm lành, lánh dữ. Khi căn cơ thấm sâu rồi thì mới chỉ đến lẽ thật này. Còn về lý, việc này ngay nơi mỗi người chứ không đâu xa. Như Lai là tâm bản giác của chính mình đây, mọi người đều có một đấng Như Lai ở đó, như Chuyển Luân Thánh Vương cai trị tất cả những nước nhỏ. Mà những vua nước nhỏ không tin phục là những tâm này, tâm kia, những tâm sở buồn vui, giận ghét, hơn thua, tật đố v.v… chứ gì nữa! Những vua nước nhỏ đó bây giờ có tin phục không? Rõ ràng nó ngang ngạnh, đâu chịu nghe. Tham lam, sân hận, si mê, tật đố v.v… lung tung, nó muốn làm theo ý nó chứ đâu có nghe theo! Những thứ tâm này không chịu thuận về với Như Lai, với bản giác mà thuận theo cái ngã riêng tư nên luôn gây rối, luôn sinh lỗi lầm bất an. Do vậy, vua phải sai binh đánh dẹp. Mình đang tu là sai binh đánh dẹp đây. Binh đó tức là những niệm giác chiếu này, thường luôn luôn giác chiếu những tâm niệm lỗi lầm, những tâm mê chấp khiến cho nó phải quy phục trở về bản giác mà quên cái ngã riêng tư đó đi. Nhưng công phu này cũng còn là công phu đối trị. Giác chiếu tâm này tâm kia nên còn có năng có sở, còn thuộc về công phu đối trị cho nên cũng được thưởng công. Được thưởng công tức là cho có chỗ được hoặc cạn hoặc sâu. Khắc phục được một số tâm sở thì tu được lên một mức, được an lạc một mức. Do đó, trong kinh nói là được quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán hoặc là Bồ-tát Nhất địa, Nhị địa v.v… Nhưng cái đó cũng chưa đến lẽ thật này, chưa nói đến Tri kiến Phật này. Bởi vậy, khi giác chiếu đến chỗ tột cùng, hết chỗ để giác chiếu nữa thì buông hết công phu. Còn có chỗ giác chiếu tức là còn có công phu, mà còn công phu thì còn được thưởng; còn đến chỗ không còn gì để giác chiếu nữa thì trở về tự tánh Như Lai, là khế hợp Phật, khế hợp với bản giác. Lúc đó thì mới cảm được hạt châu này, hạt châu trên búi tóc của Như Lai. Đến chỗ này thì hết chỗ so sánh. Cho nên, đến đây thì tuy nói được nhưng cũng không có gì được, vì nó ở ngay chính mình thôi. Nhớ kỹ, đây là thí dụ, chứ không phải là thật! Không phải là nghe nói thí dụ có cho có được thì mình nói cũng có được. Đến chỗ rốt cùng, buông hết những công phu đó trở về với tự tánh thì ngay sẵn nói mình hết. Nói “được” mà thật sự “không có gì để được”, cũng như nói “cho” mà cũng “không có gì để cho”. Có vị tăng hỏi Thiền sư Sùng Tín: - Hạt châu trên búi tóc thì người nào được? Thiền sư Sùng Tín đáp: - Người không thưởng ngoạn thì được. Ông tăng hỏi: - Để ở chỗ nào? Thiền sư Sùng Tín đáp: - Có chỗ tức nói đến. Đó! Ông tăng hỏi hạt châu đó thì người nào được? Ngài đáp người không thưởng ngoạn thì được. Có thưởng ngoạn tức là ngắm, xem, nhìn; mà có ngắm, có xem, có nhìn thì thuộc về cái bên ngoài. Bởi bên ngoài nên có chỗ cho mình hướng đến để mình ngắm, mình xem thì đó thuộc về tâm đối đãi, chẳng phải là hạt châu trên búi tóc rồi! Do đó, Ngài Sùng Tín đáp khéo: “Người không thưởng ngoạn thì được”. Nó là chính nơi mình thì còn thưởng ngoạn gì nữa? Cho nên, buông hết chỗ được thì mới là thật được. Ông tăng lại hỏi: “Vậy để ở chỗ nào?”. Ngài Sùng Tín đáp: “Có chỗ tức nói đến”, nếu có chỗ tức là nói năng đến, mà lời nói đến được thì không phải hạt châu này rồi! Vì vậy, đây được mà không có chỗ, nó ngay chính mình thôi, thấy được ý đó thì mới thấy được lẽ thật này, chớ không phải là mắc kẹt trên chữ nghĩa. Tức là buông hết chỗ được, không còn chỗ nào để tâm bám thì ngay đó mới chính là được. Đó tạm gọi là được châu. Như vậy, tuy là nói được nhưng đừng nghĩ hạt châu này là của Phật rồi mình được. Nghĩ như vậy là mất châu vì còn cái tưởng được. Mà tưởng được thì chưa phải là thật được. Đây là điểm chớ lầm và trọng yếu là cần phải nhận rõ “cái gì là hạt châu”, chớ không phải chỉ lo phân tích trên danh từ, chữ nghĩa. Lo phân tích trên danh từ hạt châu này là Kế Châu, hạt châu kia trên búi tóc, hạt châu thế này thế kia v.v…, nhưng không biết hạt châu ở đâu thì đó cũng là chữ nghĩa. Phải nhận thấy rõ cái gì là châu, đó mới quan trọng. Bởi vì hạt châu này là đưa đến bậc Nhất thiết trí, là chỗ từ trước Phật chưa từng nói, thấy được chỗ đó thì mới thấy được hạt châu thật này. Chứ nghe nói là hạt châu mà cứ tưởng là của chư Phật, Như Lai nên mình mong cầu để được thì đó là mất châu. Phải thấy được ý đó. Phật nói thêm: CHÁNH VĂN: Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này là lời nói bậc nhất của Như Lai, ở trong các lời nói thời là rất sâu, rốt sau mới ban cho, như vua sức mạnh kia lâu gìn viên minh châu nay mới cho đó. Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của các Đức Phật Như Lai, ở trong các kinh thời là bậc trên hết, lâu ngày giữ gìn chẳng vọng tuyên nói, mới ở ngày nay cùng với các ông mà bày nói đó”. Đây là vì nó vượt ngoài những lời nói từ trước tới giờ nên gọi là lời nói bậc nhất, lời nói rất sâu trong tất cả lời nói của Như Lai. Thấy được ý đó thì mới thấy được ý nghĩa châu này. Như vậy là không thể đem cái tâm cạn cợt này để hiểu, để nhận rồi, mà phải thấy thấu qua những lời nói từ trước tới giờ thì mới thấy được châu này. Nó là tạng bí mật của Như Lai, là trên hết trong các kinh. Vậy tức là mình phải vượt qua hết tất cả kinh, đạt sâu trong tự tâm của mình chứ không gì khác. Cho nên, chỗ này mà đem cái tâm phân biệt lăng xăng thì không thể đến được. Phải đợi đến bây giờ, đợi đến đây, để cho căn cơ thuần thục, cái tâm lăng xăng dừng hết thì Phật mới nói. Đó là chỗ Phật muốn nhắn nhủ người học Pháp Hoa. Bởi vậy, người nhận được thì phải hết sức trân trọng, giữ gìn nên không vọng tuyên truyền. Khéo thấy được cái quý này, đó là Phật nhấn mạnh để cho mọi người nhận hiểu và giữ gìn. CHÁNH VĂN: Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Tức muốn diễn nói kinh này thì phải có hạnh nhẫn nhục, thương xót chúng sanh. Đời mạt thế về sau Chẳng phải Bồ-tát tức là những người thiếu lòng tin. Nên sinh lòng từ bi GIẢNG: Tức là mặc dù có người không nghe, không tin nhưng mình vẫn phát tâm khi chứng Phật đạo, giác ngộ được thì cũng dùng phương tiện đưa họ vào trong đây chứ không có bỏ. Đây thí dụ lại: CHÁNH VĂN: Thí dụ vua Chuyển Luân GIẢNG: Như Lai cũng như vậy, giống như vua Chuyển Luân, đợi những người có công lớn, tương ưng thì mới nói kinh này. Tức đến đây là phải dừng những tâm lăng xăng thì mới thầm khế hợp được Tri kiến Phật này. Nhưng học thì mình cũng phải đạt ý mà quên lời, chứ chấp trên chữ nghĩa thì cũng còn vướng kẹt. Cho nên, trước thì Phật dạy người trì kinh này, nói kinh này thì không nên tìm lỗi dở của kinh điển. Nhiều khi mình ỷ lại vào trí thông minh của mình, chấp theo chữ nghĩa, sau đó thì phân tích, rồi tìm lỗi phải của kinh điển. Thí dụ như vua Chuyển Luân Thánh Vương có hạt châu trên búi tóc, mà chỉ những người có công lớn thì vua Chuyển Luân mới lấy hạt châu đó cho. Nhưng phân tích trên chữ nghĩa thì ông vua này chỉ có một hạt châu, nếu cho thì chỉ cho có một người, mà nhiều người có công lớn thì làm sao cho đủ? Nếu chỉ cho có một người thì giới hạn quá, vậy những người khác thì sao? Nếu chấp theo chữ nghĩa mà phân tích như vậy thì chính là mình tìm lỗi phải của kinh điển. Do đó, phải đạt ý quên lời, đây là thí dụ thôi. Cũng như kinh Pháp Hoa này là Tri kiến Phật, mà Tri kiến Phật thì ai cũng có cho nên nói trao cho, đó cũng là trên phương tiện ngôn ngữ. Sự thật không phải như trên thực tế của thế gian: ông vua có hạt châu đem cho, người kia nhận, thành ra là có cho có nhận. Không phải như vậy, đây là thí dụ, phải hiểu được ý đó. Cũng vậy, Tri kiến Phật là cái mọi người đều sẵn, nơi mọi người đều có đủ hết nên nói cho nhưng có cho gì đâu? Chỉ đánh thức cho mỗi người nhận ra, nhưng phải đến lúc cuối cùng, khi căn cơ người thuần thục, tương ứng thì chỉ ra mới dễ nhận. Do vậy, kinh này có thể trao cho vô số người vẫn không hết, chớ không phải là chỉ cho một người thôi. Mỗi người chỉ nhận nơi mình là xong, không sợ thiếu, không phải là chấp trên chữ nghĩa mà tìm lỗi phải của kinh điển. Đó là bày ra cái tâm chúng sanh của mình, theo cái tâm có giới hạn mà phân tích kinh điển thì cái đó không phải. CHÁNH VĂN: Đức Như Lai cũng thế GIẢNG: Rõ ràng đây mình phải đạt được ý đó chứ không phải là chấp theo chữ nghĩa, lầm ở trên phương tiện. Người rốt sau căn cơ thuần thục rồi nên mới nói kinh này, giống như vua Thánh mở búi tóc lấy minh châu ra, cần thấy ý sâu trong đây. CHÁNH VĂN: Kinh này là bậc tôn GIẢNG: Kinh này rất tôn quý, là trên hết trong các kinh, Phật thường gìn giữ luôn. Bây giờ là đúng lúc nên Phật mới nói, Phật mở bày hết những bí mật, xem như Phật không còn gì để nói nữa. Đây là cái rốt sau, không còn gì giấu giếm nữa. Như vậy, phần còn lại là phần của mình, mỗi người khéo giữ gìn, truyền trì cho nó không mất. Cho nên, ở đây Phật ân cần dặn dò: “Phải khéo an trụ nơi bốn pháp như thế thì luôn được an ổn để diễn nói, truyền trì kinh Pháp Hoa”, tức là luôn sống trong ánh sáng Tri kiến Phật. CHÁNH VĂN: Người đọc tụng kinh này GIẢNG: Công đức kinh này rất lớn. Đọc tụng kinh này thì thường không bị ưu não, không bệnh đau, nhan sắc được trắng sạch, không sinh nhà bần cùng, dòng ti tiện; chúng sanh lại thường ưa thấy giống như hâm mộ bậc Hiền Thánh; những đồng tử cõi trời làm kẻ cho mình sai khiến; dao gậy không đến được, độc dữ chẳng hại được. Đây là nói đến những kết quả an lạc. Tri kiến Phật thì đâu có bệnh đau cho nên người trì tụng kinh Pháp Hoa tức sống với Tri kiến Phật thì bệnh đau không đến được, không bị ưu não. Phải thấy được ý đó. “Không sinh vào những dòng dõi nhà bần cùng, ti tiện, xấu xa”, những cái này cũng đâu đến được trong Tri kiến Phật này. Dao gậy, độc dược cũng không đến được trong đó. Người mắng chửi cách mấy cũng không mắng chửi tới được, nếu mắng chửi thì miệng ngậm bít thôi, làm sao mắng chửi được tới chỗ này? Cho nên, sống được an trụ trong đó thì đúng là an ổn, giống như Sư tử vương không sợ sệt, trí tuệ sáng suốt. Đó là lẽ thật, thấy được như vậy thì mình mới tin lời Phật nói. CHÁNH VĂN: Nếu ở trong chiêm bao GIẢNG: Tức là người trì kinh Pháp Hoa được công đức là mộng thấy những điềm tốt lành. Như là chiêm bao thấy các đấng Như Lai ngồi tòa Sư tử, chúng Tỳ-kheo vây quanh nghe pháp, các hàng Long thần, A-tu-la đều nghe pháp. Mà cũng tự thấy thân mình ở trong đó nghe pháp, sau đó thì vì chúng mà nói pháp trở lại. Thấy chư Phật thân tướng sắc vàng, phóng hào quang, giọng tiếng Phạm âm diễn nói các pháp. Thấy thân mình cũng ở trong đó, chắp tay khen ngợi Phật, nghe pháp vui mừng, cúng dường Phật, đặng những pháp Đà-la-ni, chứng bất thối trí. Tức là thấy mình cũng trong pháp hội Phật đó mà nghe pháp và cũng chứng đạo. CHÁNH VĂN: Phật biết tâm người đó GIẢNG: Tức mộng thêm nữa là được Phật thọ ký thành Chánh giác. Thấy thân mình ở trong núi vắng tu hành chứng được thật tướng các pháp, sâu vào thiền định. Thường thấy Phật mười phương, thân sắc vàng. Tức là mộng được thấy Phật, nghe pháp, được thọ ký, và chính mình chứng được thật tướng. Đó là những việc rất hy hữu, mà cũng là ngầm chỉ những công đức tốt lành đó cũng là mộng nên mình cũng không có tâm chấp trước, dính mắc vào đó. Những công đức tốt lành như vậy, dù thấy được Phật thọ ký cũng không chấp trước, thấy mình tu hành chứng được đạo cũng không chấp trước thì tốt. Còn nếu chấp trước thì mắc kẹt. Cho nên, trong kinh Kim Cang, tiền thân Đức Phật Thích Ca ở chỗ Phật Nhiên Đăng được thọ ký nhưng Ngài nói: “Ta đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không có một chút pháp có thể được”. Tuy được thọ ký như vậy nhưng Ngài thấy cũng như mộng thôi. Nếu còn chấp ta được thọ ký thì nguy hiểm! Đó là để cho mình không chấp trước dính mắc vào đó, mà luôn luôn giữ ánh sáng Tri kiến Phật không có mất, đó mới là quan trọng. Đó cũng là điểm Phật ngầm nhắc. CHÁNH VĂN: Lại mộng làm Quốc vương GIẢNG: Đây là công đức thành đạo, mộng thấy mình làm vua, rồi bỏ ngôi vua tu hành đến nơi đạo tràng thành Phật, độ chúng sanh, vào Niết-bàn, tức là mộng thấy mình thành Phật. Nếu chưa từng huân tập những điều này thì làm sao biết pháp đó là pháp gì mà tu thành Phật? Cho nên, mộng được điều này thì biết rằng chúng tử mình huân tập rất sâu dày, mà cũng nói lên Việc tu hành thành Phật như vậy cũng là mộng! Đó là điểm mình phải thấy được. Phật ở đâu mà thành? Chúng sanh ở đâu mà độ? Đây mới thấy thành Phật, độ chúng sanh, vào Niết-bàn thì cũng là mộng. Đúng như kinh Kim Cang: “Bồ-tát độ vô lượng vô số vô biên chúng sanh vào Niết-bàn mà không thấy một chúng sanh nào thật diệt độ”. Tất cả vốn là Niết-bàn thì đâu có được Niết-bàn nữa, chúng sanh vốn là Phật thì đâu còn thành Phật nữa! Do đó, thành Phật thì cũng như mộng, không thấy có một cái Phật để thành nữa. Ðó cũng là phá chấp chứng đắc. Bởi vì tự tánh chúng sanh vốn là tịch diệt, vốn là Phật sẵn rồi nên tuy nói được mà cũng không thấy có được gì. Đây là để nhắc cho người học hay người tu, người trì Pháp Hoa chớ có chấp vào các công đức như trên. Dù được những công đức tốt lành như vậy nhưng không chấp vào, thì mới giữ gìn được Tri kiến Phật, mới thật truyền Pháp Hoa. Còn chấp vào đó thì mất Pháp Hoa, là tối rồi, phải thấy được như vậy. Học rồi soi lại mình, đó là chỗ thực tế, là chỗ mình phải học. Soi lại thì mới thấy hổ thẹn! Ở đây, đến những công đức được thọ ký, được thành Phật mà còn không chấp, huống nữa là những công đức nhẹ nhẹ như mình bây giờ. Lâu lâu làm được chút công đức nhẹ nhẹ thì nhớ hoài không quên: bố thí được một chút là thấy nhớ hoài, làm cho huynh đệ chút gì tốt tốt là cũng nhớ hoài! Tu hơi có chút gì vui vui thì cũng dính rồi. Ở trong đây, đến những công đức được Phật thọ ký tu hành thành Phật còn không chấp thì những cái nhỏ nhỏ này có đáng gì! Đó là chỗ mình phải học chứ không phải học chữ nghĩa thôi. Cũng như không phải đây là Phật nói cho các vị Bồ-tát, không dính dáng gì tới mình, mà phải hiểu Phật dạy đây là dạy cho mình, nói pháp là nói cho chúng sanh. Thấy đó, học đó, luôn quán chiếu lại mình để tự kiểm lại thì mới vươn lên. Những cái gì mà thấy còn hổ thẹn thì phải kiểm tra lại để điều chỉnh. Lâu lâu làm một hai công đức Phật sự được kết quả thì mình thấy cũng chưa thấm gì, chưa có gì đáng chấp. Nếu không thì làm được chút công đức, chút Phật sự là tâm kiêu mạn dễ nổi lên. Thấy nó hơi lên, thấy hơi khác trước một chút, biết rồi thì phải kiểm tra lại. Đó là chỗ thường phải nhắc nhớ mình. Như vậy, sau khi sáng tỏ được Tri kiến Phật, tức khai Tri kiến Phật, tháp Phật Đa Bảo hiện ra rõ ràng nhưng còn phải tiếp tục trì. Nhớ điều đó, chớ không phải ngay đó là xong. Còn phải tiếp tục sống, truyền trì, làm sao cho ánh sáng Tri kiến Phật này luôn sáng mãi, rộng khắp, không bờ mé, không gián đoạn. Được như vậy thì công đức mới đầy đủ. Cho nên, sau phần Hiện Bảo Tháp, đến đây Phật luôn nhắc các Bồ-tát là phải trì, truyền bá, giữ gìn Pháp Họa để nó không mất. Tức là làm sao cho “lý như thế” thì “sự cũng phải như thế”. Lý sự phải như như chớ không phải chỉ nói: “Ngộ rõ Tri kiến Phật là ngay nơi mình thôi, ai cũng đầy đủ hết”. Cái đó thì dễ, ngộ thì sáng tỏ được Tri kiến Phật ngay nơi mình, mỗi người ai cũng có đủ, nó ở ngay nơi mỗi người. Nhưng sự thì sao? Nó có ở ngay nơi mình không? Phải thấy được điều đó, lý thì ở ngay nơi mình nhưng sự thì lâu lâu mình ở đây mà nó ở đâu đó! Những tập khí phiền não che hết, đâu phải là ở ngay nơi mình! Đó là, lý như vậy nhưng sự chưa phải như vậy. Do đó, còn phải luôn trì để sống, giữ gìn cho được mãi như vậy khiến cho lý sự đều như như. Đến đó mới xong. Chính đó cũng là chỗ trong nhà Thiền các Thiền sư thường luôn nhắc: Sau khi sáng tỏ được thì phải bảo nhậm, phải giữ gìn, phái sống. Do vậy, Thiền sư Bạch Ẩn có kể lại một đoạn khi Ngài từ giã thầy (Lão sư Chánh Thọ). Khi sắp sửa chia tay, thầy nắm chặt lấy tay Ngài Bạch Ấn, trầm giọng xuống và nói thật thân ái: - Nếu mi cứ tiếp tục hành trì và sau này tạo ra những người giống như mi thì đó là mi đã trọn vẹn báo đáp được ân sâu của Phật Tổ. Sau khi mi rời khỏi đây rồi về nhà, chăm sóc cho thầy đang bệnh (thầy Bổn Sư trước kia) thì mi cũng không được ngưng nỗ lực tinh tấn và hài lòng với những sở đắc nhỏ nhoi. Bây giờ là phải tập trung hết sức lực vào tu tập hậu giác ngộ, buông bỏ tất cả những vương vấn bụi trần dù chúng trông có vẻ như là không đáng kể. Tức là buông sạch những bụi trần dù có những thứ mà giống như nó không đáng kể lắm cũng phải buông, chứ không phải nghĩ cái thứ này không đáng kể, cứ để cho nó dính. - Mi phải không bao giờ quan tâm một chút gì đến chúng. Đó là những lời Lão sư Chánh Thọ ân cần nhắc nhở cho Thiền sư Bạch Ẩn trước khi chia tay, phải cố gắng luôn tinh tấn mà tu tập hậu giác ngộ, chứ không phải ngay đó là xong. Đây là những điều thiết yếu mình phải học, là những kinh nghiệm trên đường tu. CHÁNH VĂN: Văn-thù-sư-lợi! Thí như vua Chuyển Luân Thánh Vương sức lực mạnh mẽ muốn dùng oai thế hàng phục các nước mà các vua nhỏ chẳng thuận mạng lệnh. Bấy giờ, Chuyển Luân Thánh Vương đem các đạo binh qua đánh dẹp, vua thấy binh chúng những người đánh giặc có công, liền rất vui mừng theo công mà thưởng ban. Hoặc ban cho ruộng, nhà, xóm làng, thành ấp; hoặc ban cho đồ y phục trang nghiêm nơi thân; hoặc cho các món trân bảo, vàng bạc lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, voi ngựa xe cộ, tôi tớ, nhân dân, chỉ viên minh châu trong búi tóc chẳng đem cho đó. Vì sao? Vì riêng trên đảnh vua có một viên châu này, nếu đem cho đó thời các quyến thuộc của vua ắt rất kinh lạ. Văn-thù-sư-lợi! Như Lai cũng lại như thế, dùng sức thiền định trí tuệ đặng cõi nước pháp, giáo hóa trong ba cõi mà Ma Vương chẳng khứng tin phục, các tướng Hiền thánh của Như Lai cùng ma đánh nhau. Những người có công lòng cũng vui mừng, ở trong hàng chúng vì nói các kinh khiến tâm kia vui thích, ban cho các pháp thiền định, giải thoát, vô lậu, căn, lực. Và lại ban cho thành Niết-bàn, bảo rằng đặng diệt độ để dẫn dắt lòng chúng làm cho đều đặng vui mừng mà chẳng vì đó nói kinh Pháp Hoa này. Văn-thù-sư-lợi! Như vua Chuyển Luân thấy các binh chúng những người có công lớn, đem viên minh châu khó tin, từ lâu ở trong búi tóc chẳng vọng cho người, mà nay cho đó. Đức Như Lai cũng lại như thế, làm vị Đại Pháp Vương trong ba cõi, đem pháp mầu giáo hóa tất cả chúng sanh, thấy quân hiền thánh cùng ma ngũ ấm, ma phiền não, ma chết, đánh nhau có công lao lớn, diệt ba độc, khỏi ba cõi, phá lưới ma. Lúc ấy, Như Lai cũng rất vui mừng, kinh Pháp Hoa này có thể khiến chúng sanh đến bậc Nhất thiết trí, là pháp mà tất cả thế gian nhiều oán ghét khó tin, trước chưa từng nói mà nay nói đó. GIẢNG: Đây Phật thí dụ về Kế Châu, tức vua Chuyển Luân Thánh Vương có sức lực mạnh mẽ, có viên minh châu rất quý, thường để ở trên búi tóc (chỗ tôn quý, khó thấy). Những nước nhỏ không tin phục, vua cho binh tướng đánh dẹp. Những người có công thì vua thưởng cho cái này, thưởng cho cái kia nhưng viên minh châu này thì chưa cho, chỉ đợi những người nào có công lớn nhất mới đem cho. Đức Phật cũng vậy, những bậc hiền thánh có công đánh dẹp quân ma thì Phật cho những pháp vô lậu, căn, lực v.v… cho đến Niết-bàn, nhưng chưa nói đến, chỉ ra lẽ thật này. Cuối cùng, khi căn cơ thuần thục thì Phật mới nói đến Pháp Hoa, tức chỉ ra lẽ thật này. Cho nên, đây là chỗ rất tôn quý. Đó là thí dụ về Kế Châu. Vua Chuyển Luân Thánh Vương là bậc vua phước đức lớn, cai trị nhiều nước nhỏ. Trong kiếp tăng, chúng sanh có nhiều phước đức do vậy mới có Chuyển Luân Thánh Vương. Chuyển Luân Thánh Vương có bốn hạng: Thiết Luân Vương, Đồng Luân Vương, Ngân Luân Vương và Kim Luân Vương. Thiết Luân Vương phước có giới hạn nên chỉ cai trị được một châu thiên hạ, còn Đồng Luân Vương thì cai trị được hai châu, Ngân Luân Vương thì cai trị được ba châu, chỉ có bậc Kim Luân Vương thì cai trị được bốn châu thiên hạ. Do có phước lớn nên khi bậc Chuyển Luân Thánh Vương ra đời thì xe báu, ngọc báu, nữ báu v.v… tự hiện đến. Thánh Vương này có hạt châu báu ở trên đảnh (tức búi tóc), là chỗ rất tôn quý nên không dễ gì vọng đem cho người. Ở đây dụ với Như Lai có châu báu là Tri kiến Phật này, cũng không có dễ gì vọng trao cho người. Mình đọc kinh, đọc lịch sử thì mới thấy, ban đầu mới thành đạo thì Phật chưa muốn thuyết pháp. Do Phạm Thiên Vương thỉnh ba lần, Phật mới nhận lời. Rồi lúc chuyển pháp luân thì Phật nói Tứ đế, Mười hai nhân duyên để mọi người trừ những khổ não sinh tử, chứng Niết-bàn chứ chưa vội nói đến lẽ thật này, lúc đó mọi người mới dễ tin, dễ nhận. Cũng như mình ở đây, người mới vào đạo chưa biết gì mà chỉ lẽ thật này thì làm sao tin được? Cho nên, người mới học đạo thì phải dạy căn bản Phật pháp, dạy lý nhân quả để làm lành, lánh dữ. Khi căn cơ thấm sâu rồi thì mới chỉ đến lẽ thật này. Còn về lý, việc này ngay nơi mỗi người chứ không đâu xa. Như Lai là tâm bản giác của chính mình đây, mọi người đều có một đấng Như Lai ở đó, như Chuyển Luân Thánh Vương cai trị tất cả những nước nhỏ. Mà những vua nước nhỏ không tin phục là những tâm này, tâm kia, những tâm sở buồn vui, giận ghét, hơn thua, tật đố v.v… chứ gì nữa! Những vua nước nhỏ đó bây giờ có tin phục không? Rõ ràng nó ngang ngạnh, đâu chịu nghe. Tham lam, sân hận, si mê, tật đố v.v… lung tung, nó muốn làm theo ý nó chứ đâu có nghe theo! Những thứ tâm này không chịu thuận về với Như Lai, với bản giác mà thuận theo cái ngã riêng tư nên luôn gây rối, luôn sinh lỗi lầm bất an. Do vậy, vua phải sai binh đánh dẹp. Mình đang tu là sai binh đánh dẹp đây. Binh đó tức là những niệm giác chiếu này, thường luôn luôn giác chiếu những tâm niệm lỗi lầm, những tâm mê chấp khiến cho nó phải quy phục trở về bản giác mà quên cái ngã riêng tư đó đi. Nhưng công phu này cũng còn là công phu đối trị. Giác chiếu tâm này tâm kia nên còn có năng có sở, còn thuộc về công phu đối trị cho nên cũng được thưởng công. Được thưởng công tức là cho có chỗ được hoặc cạn hoặc sâu. Khắc phục được một số tâm sở thì tu được lên một mức, được an lạc một mức. Do đó, trong kinh nói là được quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán hoặc là Bồ-tát Nhất địa, Nhị địa v.v… Nhưng cái đó cũng chưa đến lẽ thật này, chưa nói đến Tri kiến Phật này. Bởi vậy, khi giác chiếu đến chỗ tột cùng, hết chỗ để giác chiếu nữa thì buông hết công phu. Còn có chỗ giác chiếu tức là còn có công phu, mà còn công phu thì còn được thưởng; còn đến chỗ không còn gì để giác chiếu nữa thì trở về tự tánh Như Lai, là khế hợp Phật, khế hợp với bản giác. Lúc đó thì mới cảm được hạt châu này, hạt châu trên búi tóc của Như Lai. Đến chỗ này thì hết chỗ so sánh. Cho nên, đến đây thì tuy nói được nhưng cũng không có gì được, vì nó ở ngay chính mình thôi. Nhớ kỹ, đây là thí dụ, chứ không phải là thật! Không phải là nghe nói thí dụ có cho có được thì mình nói cũng có được. Đến chỗ rốt cùng, buông hết những công phu đó trở về với tự tánh thì ngay sẵn nói mình hết. Nói “được” mà thật sự “không có gì để được”, cũng như nói “cho” mà cũng “không có gì để cho”. Có vị tăng hỏi Thiền sư Sùng Tín: - Hạt châu trên búi tóc thì người nào được? Thiền sư Sùng Tín đáp: - Người không thưởng ngoạn thì được. Ông tăng hỏi: - Để ở chỗ nào? Thiền sư Sùng Tín đáp: - Có chỗ tức nói đến. Đó! Ông tăng hỏi hạt châu đó thì người nào được? Ngài đáp người không thưởng ngoạn thì được. Có thưởng ngoạn tức là ngắm, xem, nhìn; mà có ngắm, có xem, có nhìn thì thuộc về cái bên ngoài. Bởi bên ngoài nên có chỗ cho mình hướng đến để mình ngắm, mình xem thì đó thuộc về tâm đối đãi, chẳng phải là hạt châu trên búi tóc rồi! Do đó, Ngài Sùng Tín đáp khéo: “Người không thưởng ngoạn thì được”. Nó là chính nơi mình thì còn thưởng ngoạn gì nữa? Cho nên, buông hết chỗ được thì mới là thật được. Ông tăng lại hỏi: “Vậy để ở chỗ nào?”. Ngài Sùng Tín đáp: “Có chỗ tức nói đến”, nếu có chỗ tức là nói năng đến, mà lời nói đến được thì không phải hạt châu này rồi! Vì vậy, đây được mà không có chỗ, nó ngay chính mình thôi, thấy được ý đó thì mới thấy được lẽ thật này, chớ không phải là mắc kẹt trên chữ nghĩa. Tức là buông hết chỗ được, không còn chỗ nào để tâm bám thì ngay đó mới chính là được. Đó tạm gọi là được châu. Như vậy, tuy là nói được nhưng đừng nghĩ hạt châu này là của Phật rồi mình được. Nghĩ như vậy là mất châu vì còn cái tưởng được. Mà tưởng được thì chưa phải là thật được. Đây là điểm chớ lầm và trọng yếu là cần phải nhận rõ “cái gì là hạt châu”, chớ không phải chỉ lo phân tích trên danh từ, chữ nghĩa. Lo phân tích trên danh từ hạt châu này là Kế Châu, hạt châu kia trên búi tóc, hạt châu thế này thế kia v.v…, nhưng không biết hạt châu ở đâu thì đó cũng là chữ nghĩa. Phải nhận thấy rõ cái gì là châu, đó mới quan trọng. Bởi vì hạt châu này là đưa đến bậc Nhất thiết trí, là chỗ từ trước Phật chưa từng nói, thấy được chỗ đó thì mới thấy được hạt châu thật này. Chứ nghe nói là hạt châu mà cứ tưởng là của chư Phật, Như Lai nên mình mong cầu để được thì đó là mất châu. Phải thấy được ý đó. Phật nói thêm: CHÁNH VĂN: Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này là lời nói bậc nhất của Như Lai, ở trong các lời nói thời là rất sâu, rốt sau mới ban cho, như vua sức mạnh kia lâu gìn viên minh châu nay mới cho đó. Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của các Đức Phật Như Lai, ở trong các kinh thời là bậc trên hết, lâu ngày giữ gìn chẳng vọng tuyên nói, mới ở ngày nay cùng với các ông mà bày nói đó”. Đây là vì nó vượt ngoài những lời nói từ trước tới giờ nên gọi là lời nói bậc nhất, lời nói rất sâu trong tất cả lời nói của Như Lai. Thấy được ý đó thì mới thấy được ý nghĩa châu này. Như vậy là không thể đem cái tâm cạn cợt này để hiểu, để nhận rồi, mà phải thấy thấu qua những lời nói từ trước tới giờ thì mới thấy được châu này. Nó là tạng bí mật của Như Lai, là trên hết trong các kinh. Vậy tức là mình phải vượt qua hết tất cả kinh, đạt sâu trong tự tâm của mình chứ không gì khác. Cho nên, chỗ này mà đem cái tâm phân biệt lăng xăng thì không thể đến được. Phải đợi đến bây giờ, đợi đến đây, để cho căn cơ thuần thục, cái tâm lăng xăng dừng hết thì Phật mới nói. Đó là chỗ Phật muốn nhắn nhủ người học Pháp Hoa. Bởi vậy, người nhận được thì phải hết sức trân trọng, giữ gìn nên không vọng tuyên truyền. Khéo thấy được cái quý này, đó là Phật nhấn mạnh để cho mọi người nhận hiểu và giữ gìn. CHÁNH VĂN: Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Tức muốn diễn nói kinh này thì phải có hạnh nhẫn nhục, thương xót chúng sanh. Đời mạt thế về sau Chẳng phải Bồ-tát tức là những người thiếu lòng tin. Nên sinh lòng từ bi GIẢNG: Tức là mặc dù có người không nghe, không tin nhưng mình vẫn phát tâm khi chứng Phật đạo, giác ngộ được thì cũng dùng phương tiện đưa họ vào trong đây chứ không có bỏ. Đây thí dụ lại: CHÁNH VĂN: Thí như vua Chuyển Luân GIẢNG: Như Lai cũng như vậy, giống như vua Chuyển Luân, đợi những người có công lớn, tương ưng thì mới nói kinh này. Tức đến đây là phải dừng những tâm lăng xăng thì mới thầm khế hợp được Tri kiến Phật này. Nhưng học thì mình cũng phải đạt ý mà quên lời, chứ chấp trên chữ nghĩa thì cũng còn vướng kẹt. Cho nên, trước thì Phật dạy người trì kinh này, nói kinh này thì không nên tìm lỗi dở của kinh điển. Nhiều khi mình ỷ lại vào trí thông minh của mình, chấp theo chữ nghĩa, sau đó thì phân tích, rồi tìm lỗi phải của kinh điển. Thí dụ như vua Chuyển Luân Thánh Vương có hạt châu trên búi tóc, mà chỉ những người có công lớn thì vua Chuyển Luân mới lấy hạt châu đó cho. Nhưng phân tích trên chữ nghĩa thì ông vua này chỉ có một hạt châu, nếu cho thì chỉ cho có một người, mà nhiều người có công lớn thì làm sao cho đủ? Nếu chỉ cho có một người thì giới hạn quá, vậy những người khác thì sao? Nếu chấp theo chữ nghĩa mà phân tích như vậy thì chính là mình tìm lỗi phải của kinh điển. Do đó, phải đạt ý quên lời, đây là thí dụ thôi. Cũng như kinh Pháp Hoa này là Tri kiến Phật, mà Tri kiến Phật thì ai cũng có cho nên nói trao cho, đó cũng là trên phương tiện ngôn ngữ. Sự thật không phải như trên thực tế của thế gian: ông vua có hạt châu đem cho, người kia nhận, thành ra là có cho có nhận. Không phải như vậy, đây là thí dụ, phải hiểu được ý đó. Cũng vậy, Tri kiến Phật là cái mọi người đều sẵn, nơi mọi người đều có đủ hết nên nói cho nhưng có cho gì đâu? Chỉ đánh thức cho mỗi người nhận ra, nhưng phải đến lúc cuối cùng, khi căn cơ người thuần thục, tương ứng thì chỉ ra mới dễ nhận. Do vậy, kinh này có thể trao cho vô số người vẫn không hết, chớ không phải là chỉ cho một người thôi. Mỗi người chỉ nhận nơi mình là xong, không sợ thiếu, không phải là chấp trên chữ nghĩa mà tìm lỗi phải của kinh điển. Đó là bày ra cái tâm chúng sanh của mình, theo cái tâm có giới hạn mà phân tích kinh điển thì cái đó không phải. CHÁNH VĂN: Đức Như Lai cũng thế GIẢNG: Rõ ràng đây mình phải đạt được ý đó chứ không phải là chấp theo chữ nghĩa, lầm ở trên phương tiện. Người rốt sau căn cơ thuần thục rồi nên mới nói kinh này, giống như vua Thánh mở búi tóc lấy minh châu ra, cần thấy ý sâu trong đây. CHÁNH VĂN: Kinh này là bậc tôn GIẢNG: Kinh này rất tôn quý, là trên hết trong các kinh, Phật thường gìn giữ luôn. Bây giờ là đúng lúc nên Phật mới nói, Phật mở bày hết những bí mật, xem như Phật không còn gì để nói nữa. Đây là cái rốt sau, không còn gì giấu giếm nữa. Như vậy, phần còn lại là phần của mình, mỗi người khéo giữ gìn, truyền trì cho nó không mất. Cho nên, ở đây Phật ân cần dặn dò: “Phải khéo an trụ nơi bốn pháp như thế thì luôn được an ổn để diễn nói, truyền trì kinh Pháp Hoa”, tức là luôn sống trong ánh sáng Tri kiến Phật. CHÁNH VĂN: Người đọc tụng kinh này GIẢNG: Công đức kinh này rất lớn. Đọc tụng kinh này thì thường không bị ưu não, không bệnh đau, nhan sắc được trắng sạch, không sinh nhà bần cùng, dòng ti tiện; chúng sanh lại thường ưa thấy giống như hâm mộ bậc Hiền Thánh; những đồng tử cõi trời làm kẻ cho mình sai khiến; dao gậy không đến được, độc dữ chẳng hại được. Đây là nói đến những kết quả an lạc. Tri kiến Phật thì đâu có bệnh đau cho nên người trì tụng kinh Pháp Hoa tức sống với Tri kiến Phật thì bệnh đau không đến được, không bị ưu não. Phải thấy được ý đó. “Không sinh vào những dòng dõi nhà bần cùng, ti tiện, xấu xa”, những cái này cũng đâu đến được trong Tri kiến Phật này. Dao gậy, độc dược cũng không đến được trong đó. Người mắng chửi cách mấy cũng không mắng chửi tới được, nếu mắng chửi thì miệng ngậm bít thôi, làm sao mắng chửi được tới chỗ này? Cho nên, sống được an trụ trong đó thì đúng là an ổn, giống như Sư tử vương không sợ sệt, trí tuệ sáng suốt. Đó là lẽ thật, thấy được như vậy thì mình mới tin lời Phật nói. CHÁNH VĂN: Nếu ở trong chiêm bao GIẢNG: Tức là người trì kinh Pháp Hoa được công đức là mộng thấy những điềm tốt lành. Như là chiêm bao thấy các đấng Như Lai ngồi tòa Sư tử, chúng Tỳ-kheo vây quanh nghe pháp, các hàng Long thần, A-tu-la đều nghe pháp. Mà cũng tự thấy thân mình ở trong đó nghe pháp, sau đó thì vì chúng mà nói pháp trở lại. Thấy chư Phật thân tướng sắc vàng, phóng hào quang, giọng tiếng Phạm âm diễn nói các pháp. Thấy thân mình cũng ở trong đó, chắp tay khen ngợi Phật, nghe pháp vui mừng, cúng dường Phật, đặng những pháp Đà-la-ni, chứng bất thối trí. Tức là thấy mình cũng trong pháp hội Phật đó mà nghe pháp và cũng chứng đạo. CHÁNH VĂN: Phật biết tâm người đó GIẢNG: Tức mộng thêm nữa là được Phật thọ ký thành Chánh giác. Thấy thân mình ở trong núi vắng tu hành chứng được thật tướng các pháp, sâu vào thiền định. Thường thấy Phật mười phương, thân sắc vàng. Tức là mộng được thấy Phật, nghe pháp, được thọ ký, và chính mình chứng được thật tướng. Đó là những việc rất hy hữu, mà cũng là ngầm chỉ những công đức tốt lành đó cũng là mộng nên mình cũng không có tâm chấp trước, dính mắc vào đó. Những công đức tốt lành như vậy, dù thấy được Phật thọ ký cũng không chấp trước, thấy mình tu hành chứng được đạo cũng không chấp trước thì tốt. Còn nếu chấp trước thì mắc kẹt. Cho nên, trong kinh Kim Cang, tiền thân Đức Phật Thích Ca ở chỗ Phật Nhiên Đăng được thọ ký nhưng Ngài nói: “Ta đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không có một chút pháp có thể được”. Tuy được thọ ký như vậy nhưng Ngài thấy cũng như mộng thôi. Nếu còn chấp ta được thọ ký thì nguy hiểm! Đó là để cho mình không chấp trước dính mắc vào đó, mà luôn luôn giữ ánh sáng Tri kiến Phật không có mất, đó mới là quan trọng. Đó cũng là điểm Phật ngầm nhắc. CHÁNH VĂN: Lại mộng làm Quốc vương GIẢNG: Đây là công đức thành đạo, mộng thấy mình làm vua, rồi bỏ ngôi vua tu hành đến nơi đạo tràng thành Phật, độ chúng sanh, vào Niết-bàn, tức là mộng thấy mình thành Phật. Nếu chưa từng huân tập những điều này thì làm sao biết pháp đó là pháp gì mà tu thành Phật? Cho nên, mộng được điều này thì biết rằng chủng tử mình huân tập rất sâu dày, mà cũng nói lên việc tu hành thành Phật như vậy cũng là mộng! Đó là điểm mình phải thấy được. Phật ở đâu mà thành? Chúng sanh ở đâu mà độ? Đây mới thấy thành Phật, độ chúng sanh, vào Niết-bàn thì cũng là mộng. Đúng như kinh Kim Cang: “Bồ-tát độ vô lượng vô số vô biên chúng sanh vào Niết-bàn mà không thấy một chúng sanh nào thật diệt độ”. Tất cả vốn là Niết-bàn thì đâu có được Niết-bàn nữa, chúng sanh vốn là Phật thì đâu còn thành Phật nữa! Do đó, thành Phật thì cũng như mộng, không thấy có một cái Phật để thành nữa. Ðó cũng là phá chấp chứng đắc. Bởi vì tự tánh chúng sanh vốn là tịch diệt, vốn là Phật sẵn rồi nên tuy nói được mà cũng không thấy có được gì. Đây là để nhắc cho người học hay người tu, người trì Pháp Hoa chớ có chấp vào các công đức như trên. Dù được những công đức tốt lành như vậy nhưng không chấp vào, thì mới giữ gìn được Tri kiến Phật, mới thật truyền Pháp Hoa. Còn chấp vào đó thì mất Pháp Hoa, là tối rồi, phải thấy được như vậy. Học rồi soi lại mình, đó là chỗ thực tế, là chỗ mình phải học. Soi lại thì mới thấy hổ thẹn! Ở đây, đến những công đức được thọ ký, được thành Phật mà còn không chấp, huống nữa là những công đức nhẹ nhẹ như mình bây giờ. Lâu lâu làm được chút công đức nhẹ nhẹ thì nhớ hoài không quên: bố thí được một chút là thấy nhớ hoài, làm cho huynh đệ chút gì tốt tốt là cũng nhớ hoài! Tu hơi có chút gì vui vui thì cũng dính rồi. Ở trong đây, đến những công đức được Phật thọ ký tu hành thành Phật còn không chấp thì những cái nhỏ nhỏ này có đáng gì! Đó là chỗ mình phải học chứ không phải học chữ nghĩa thôi. Cũng như không phải đây là Phật nói cho các vị Bồ-tát, không dính dáng gì tới mình, mà phải hiểu Phật dạy đây là dạy cho mình, nói pháp là nói cho chúng sanh. Thấy đó, học đó, luôn quán chiếu lại mình để tự kiểm lại thì mới vươn lên. Những cái gì mà thấy còn hổ thẹn thì phải kiểm tra lại để điều chỉnh. Lâu lâu làm một hai công đức Phật sự được kết quả thì mình thấy cũng chưa thấm gì, chưa có gì đáng chấp. Nếu không thì làm được chút công đức, chút Phật sự là tâm kiêu mạn dễ nổi lên. Thấy nó hơi lên, thấy hơi khác trước một chút, biết rồi thì phải kiểm tra lại. Đó là chỗ thường phải nhắc nhở mình. Như vậy, sau khi sáng tỏ được Tri kiến Phật, tức khai Tri kiến Phật, tháp Phật Đa Bảo hiện ra rõ ràng nhưng còn phải tiếp tục trì. Nhớ điều đó, chớ không phải ngay đó là xong. Còn phải tiếp tục sống, truyền trì, làm sao cho ánh sáng Tri kiến Phật này luôn sáng mãi, rộng khắp, không bờ mé, không gián đoạn. Được như vậy thì công đức mới đầy đủ. Cho nên, sau phần Hiện Bảo Tháp, đến đây Phật luôn nhắc các Bồ-tát là phải trì, truyền bá, giữ gìn Pháp Họa để nó không mất. Tức là làm sao cho “lý như thế” thì “sự cũng phải như thế”. Lý sự phải như như, chớ không phải chỉ nói: “Ngộ rõ Tri kiến Phật là ngay nơi mình thôi, ai cũng đầy đủ hết”. Cái đó thì dễ, ngộ thì sáng tỏ được Tri kiến Phật ngay nơi mình, mỗi người ai cũng có đủ, nó ở ngay nơi mỗi người. Nhưng sự thì sao? Nó có ở ngay nơi mình không? Phải thấy được điều đó, lý thì ở ngay nơi mình nhưng sự thì lâu lâu mình ở đây mà nó ở đâu đó! Những tập khí phiền não che hết, đâu phải là ở ngay nơi mình! Đó là, lý như vậy nhưng sự chưa phải như vậy. Do đó, còn phải luôn trì để sống, giữ gìn cho được mãi như vậy khiến cho lý sự đều như như. Đến đó mới xong. Chính đó cũng là chỗ trong nhà Thiền các Thiền sư thường luôn nhắc: Sau khi sáng tỏ được thì phải bảo nhậm, phải giữ gìn, phải sống. Do vậy, Thiền sư Bạch Ẩn có kể lại một đoạn khi Ngài từ giã thầy (Lão sư Chánh Thọ). Khi sắp sửa chia tay, thầy nắm chặt lấy tay Ngài Bạch Ấn, trầm giọng xuống và nói thật thân ái: - Nếu mi cứ tiếp tục hành trì và sau này tạo ra những người giống như mi thì đó là mi đã trọn vẹn báo đáp được ân sâu của Phật Tổ. Sau khi mi rời khỏi đây rồi về nhà, chăm sóc cho thầy đang bệnh (thầy Bổn Sư trước kia) thì mi cũng không được ngưng nỗ lực tinh tấn và hài lòng với những sở đắc nhỏ nhoi. Bây giờ là phải tập trung hết sức lực vào tu tập hậu giác ngộ, buông bỏ tất cả những vương vấn bụi trần dù chúng trông có vẻ như là không đáng kể. Tức là buông sạch những bụi trần dù có những thứ mà giống như nó không đáng kể lắm cũng phải buông, chứ không phải nghĩ cái thứ này không đáng kể, cứ để cho nó dính. - Mi phải không bao giờ quan tâm một chút gì đến chúng. Đó là những lời Lão sư Chánh Thọ ân cần nhắc nhở cho Thiền sư Bạch Ẩn trước khi chia tay, phải cố gắng luôn tinh tấn mà tu tập hậu giác ngộ, chứ không phải ngay đó là xong. Đây là những điều thiết yếu mình phải học, là những kinh nghiệm trên đường tu. Mục Lục
|
Kinh Pháp Hoa Giảng Lục - Tập III
|
Phẩm 14 An Lạc Hạnh (tt)