Kinh Pháp Hoa Giảng Lục - Tập III
Phẩm 14 An Lạc Hạnh
Phẩm này, Phật dạy cách trì kinh và cách nói kinh Pháp Hoa. An lạc hạnh là hạnh an lạc, vui vẻ, không chướng ngại. Sống được như vậy thì an ổn, vui vẻ để sẵn sàng truyền Pháp Hoa, nói Pháp Hoa mà không bị chướng ngại. Đây Phật dạy cách trì kinh Pháp Hoa tức là cách an trụ, giữ gìn ánh sáng Tri kiến Phật, không bị đời ác tệ làm mê mất. Văn trong kinh có bốn hạnh. Các vị sớ giải gọi là Chánh hạnh về thân, Chánh hạnh về ngữ, Chánh hạnh về ý và Hạnh lớn về thệ nguyện (tức Đại bi tâm). Cũng có chỗ các Ngài nói: thứ nhất là Hạnh trì thân (giữ gìn thân); thứ hai là Cách ứng tiếp với vật; thứ ba là Nhiếp tâm; thứ tư là Đại thệ nguyện. Nói chung là giữ gìn thân khẩu ý và thệ nguyện đại bi. CHÁNH VĂN: Lúc bấy giờ, Ngài Văn-thù-sư-lợi Đại Bồ-tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Các vị Bồ-tát này rất là ít có, vì kính thuận Phật nên phát thệ nguyện lớn: “Ở nơi đời ác sau, hộ trì đọc nói kinh Pháp Hoa này”. Thế Tôn! Các vị Đại Bồ-tát ở đời ác sau, thế nào mà có thể nói kinh này?". GIẢNG: Đây Bồ-tát Văn-thù về cách hộ trì kinh Pháp Hoa ở đời ác sau này. Bởi vì trong đời ác sau này (tức thế giới chúng sanh) sẽ có rất nhiều chướng duyên làm mê lầm theo cái chúng sanh nên cần phải có phương tiện ngăn ngừa để giữ gìn ánh sáng Tri kiến Phật cho vững vàng. CHÁNH VĂN: Phật bảo Ngài Văn-thù-sư-lợi: "Nếu vị Đại Bồ-tát ở đời sau muốn nói kinh này phải an trụ trong bốn pháp. GIẢNG: Tức là những Bồ-tát ở đời ác sau này muốn nói kinh Pháp Hoa thì phải an trụ trong bốn pháp. CHÁNH VĂN: Một là an trụ nơi "Hành xứ" và nơi "Thân cận xứ" của Bồ-tát, thời có thể vì chúng sanh mà diễn nói kinh này. Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là chỗ "Hành xứ" của Đại Bồ-tát? Nếu vị Đại Bồ-tát an trụ trong nhẫn nhục hoà dịu khéo thuận mà không vụt chạc, lòng cũng chẳng kinh sợ, lại ở nơi pháp không phân biệt mà quán tướng như thật của các Pháp, cũng chẳng vin theo, chẳng phân biệt, đó gọi là chỗ "Hành xứ" của Bồ-tát. GIẢNG: Theo văn kinh đây, hạnh thứ nhất là Hành xứ và Thân cận xứ. Trước tiên, Phật nói về Hành xứ. Hành xứ tức là chỗ hành động, chỗ tạo tác. Mà đây Ngài Văn-thù-sư-lợi thưa hỏi, đó cũng ngầm chỉ chỗ này cần phải có ánh sáng của Căn Bản Trí dẫn đường. Đức Phật dạy Hành xứ này có hai phần sự và lý: Về sự là phải “an trụ trong nhẫn nhục, hoà dịu, lòng không vụt chạc” tức không trái nghịch với người. Luôn luôn bình tĩnh trước mọi duyên, không khởi tâm trái nghịch mà luôn khéo thuận để chuyển về ánh sáng Tri kiến Phật. Được vậy thì nói kinh Pháp Hoa được an lạc, luôn đem ánh sáng Tri kiến Phật mà soi sáng, chứ không để tri kiến chúng sanh phát khởi mà che mờ. Giữ lòng không vụt chạc tức là không phải đụng cảnh thì sinh tâm liền, mất đi Tri kiến Phật. Đó tức là an trụ trong pháp nhẫn mà cũng là quên đi tướng ngã. Về lý là “ở nơi pháp không phân biệt mà quán tướng như thật của các pháp, cũng chẳng vin theo, chẳng phân biệt”. Tức về lý thì ở nơi các pháp, không phân biệt mà quán tướng như thật của các pháp. Vậy có phân biệt tức là tướng không như thật của các pháp. Bởi mình sống đây là sống với cái tướng hư dối nên bây giờ phải quán tướng như thật. Mà tướng như thật thì không có tướng phân biệt, vin theo, là buông cái phân biệt, duyên theo bên ngoài, cũng là trả về tâm vô trụ. Vậy để thấy rõ rằng tướng mà mình hiện thấy đây là tướng không như thật vì nó có thêm cái “tôi” phân biệt trong đó. Mình thấy đây luôn là có cái tôi phân biệt trong đó cho nên thấy, nghe theo cái tôi, không phải tướng như thật. Bây giờ phải trả về “như thật là nó” để không phân biệt, không sinh tâm duyên theo. Mà không sinh tâm duyên theo tức là buông chỗ vin theo thì đó là sống trở về Tri kiến Phật, khiến cho ánh sáng Tri kiến Phật thường sáng, đó là truyền trì Pháp Hoa rõ ràng. Các pháp vốn như vậy rồi, mình không có phải duyên theo mà phân biệt tốt xấu, yêu ghét v.v… thêm nữa. Sở dĩ có những cái thêm vào, phân biệt yêu ghét, tốt xấu là do người sinh tâm động niệm trên đó khiến mất đi tướng như thật của nó. Thí dụ như cái bàn, cái ghế, cái bình hoa thì nó là nó thôi, đâu có gì đâu?! Mình lại gắn thêm nhãn hiệu cái “tôi” vào thành ra sinh chuyện, thành ra có cái tốt xấu, yêu ghét trong đó. Bình hoa này là bình hoa của tôi, của anh nên nó mất đi ánh sáng chân thật. Do vậy, ở đây là phải quán trở lại tướng như thật của các pháp để buông những niệm phân biệt duyên theo. Đó cũng là không làm mờ, làm mất đi ánh sáng Tri kiến Phật. Có vị tăng hỏi Hoà thượng Triệu Châu: - Khi muôn cảnh cùng một lúc dấy lên thì thế nào? Ngài Triệu Châu đáp: - Muôn cảnh cùng lúc dấy lên. Ngài đáp đơn giản, không phải giải thích dài dòng. Muôn cảnh cùng một lúc dấy lên thì cùng một lúc dấy lên thôi, có chuyện gì đâu?! Còn mình bị xen vào cái tôi này, cái động niệm này thành ra rối. Nó chướng ngại tôi, làm cho tôi thế này, làm cho tôi thế kia v.v… nên thành ra khó tu. Chứ với các Ngài thì dù cho muôn cảnh cùng một lúc dấy lên thì nó cùng một lúc dấy lên thôi! Đơn giản có gì đâu? Không dính dáng gì. Mình đừng xen vào trong đó thì không có chuyện, đâu chướng ngại gì. Nhưng thông thường thì người ta không chịu vậy, mà thích xen vào, thích can thiệp nên sinh chuyện, do vậy bị chuyển theo. Nghĩa là dù cả muôn pháp cùng một lúc dấy lên nhưng mình vẫn giữ nguyên vị trí của nó, nó cùng một lúc dấy lên thì cứ dấy lên, nó diệt rồi nó tan thì đâu có chuyện gì! Mình đừng can thiệp vào đó là xong. Do vậy, ở đây Đức Phật dạy phải ở nơi pháp không phân biệt mà quán tướng như thật của các pháp. Mình thường thì muốn tỏ bày cái tôi hiểu biết nên cái gì cũng muốn gắn cái tôi vào, đó mới là chướng ngại, là sinh chuyện. CHÁNH VĂN: Thế nào gọi là chỗ "thân cận" của Đại Bồ-tát? Vị Đại Bồ-tát chẳng gần gũi Quốc vương, Vương tử, đại thần, quan trưởng, chẳng gần gũi các ngoại đạo Phạm chí, Ni-kiền-tử v.v… và chẳng gần những kẻ viết sách thế tục ca ngâm, sách ngoại đạo cùng với các phái Lộ-già-da-đà, phái Nghịch Lộ-già-da-đà; cũng chẳng gần gũi những kẻ chơi hung hiểm đâm nhau, đánh nhau và bọn Na-la v.v… bày các cuộc chơi biến hiện. Lại cũng chẳng gần gũi bọn hàng thịt và kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, săn bắn, chài lưới; hạng người sống với nghề ác; những người như thế hoặc có lúc lại đến thời Bồ-tát vì nói pháp không có lòng mong cầu. Lại cũng chẳng gần gũi những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hạng người cầu quả Thanh Văn, hoặc ở trong phòng, hoặc chỗ kinh hành, hoặc ở trong giảng đường chẳng cùng ở chung, hoặc có lúc những người đó lại đến, Bồ-tát theo cơ nghi nói Pháp không lòng mong cầu. Văn-thù-sư-lợi! Lại vị Đại Bồ-tát chẳng nên ở nơi thân người nữ cho là tướng có thể sanh tư tưởng dục nhiễm, mà vì nói pháp cũng chẳng ưa thấy. Nếu vào nhà người chẳng cùng với gái nhỏ, gái trinh, gái góa v.v… chung nói chuyện, cũng lại chẳng gần năm giống người bất nam để làm thân hậu. Chẳng riêng mình vào nhà người, nếu lúc có nhân duyên cần riêng mình vào thời chuyên lòng niệm Phật. Nếu vì người nữ nói Pháp thời chẳng hở răng cười, chẳng bày hông, ngực, nhẫn đến vì pháp mà còn chẳng thân hậu, huống lại là việc khác. Chẳng ưa nuôi đệ tử Sa-di ít tuổi và các trẻ nhỏ, cũng chẳng ưa cùng chúng nó đồng một thầy. Thường ưa ngồi thiền ở chỗ vắng tu nhiếp tâm mình. Văn-thù-sư-lợi, đó là chỗ Thân cận ban đầu. GIẢNG: Đây Phật dạy về chỗ thân cận, giữ được như vậy là tránh được những lỗi lầm, an ổn mà nói kinh, mà truyền kinh Pháp Hoa. Thứ nhất là chẳng gần gũi những Quốc vương, Vương tử, đại thần, quan trưởng. Tức là không sinh tâm gần gũi những nhà quyền quý, có thế lực để ngừa tập khí danh lợi nhiễm theo, hoặc có khi bị liên lụy về quyền thế hay tai ách ảnh hưởng theo. Thí dụ như Ngài Hám Sơn, trước đó Ngài có liên hệ với bà Lý Thái hậu nên mặc dầu Ngài không có tâm mong cầu nhưng sau đó thì bị nạn theo. Nhiều vị khác cũng vậy, Ngài Đại Huệ Tông Cảo vì trước đó có liên hệ với ông Trương Cửu Thành nên sau này cũng bị nạn. Thứ hai là chẳng gần những ngoại đạo Phạm chí, Ni-kiền-tử, Lộ-già-da-đà, Nghịch Lộ-già-da-đà, Phạm chí hay Bà-la-môn gọi là Tịnh hạnh. Các vị này tự xưng mình từ miệng của Phạm Thiên mà sinh nên đó là chủng tính thù thắng nhất trong bốn chủng tính, đây là giai cấp trên hết trong bốn giai cấp của Ấn Độ. Phạm chí cũng gọi chung cho những người xuất gia của ngoại đạo, Ni-kiền-tử là một trong lục sư của ngoại đạo, phái này tu khổ hạnh loã thể, đời sau này gọi là Kỳ-na giáo. Lộ-già-da-đà dịch là ác luận nghị, thuộc về phái Thuận thế ngoại đạo. Còn Nghịch Lộ-già-da-đà là ác vấn nạn, thuộc về Nghịch thế ngoại đạo. Đây Phật dạy tránh duyên, không gần gũi ngoại đạo là để tránh tiêm nhiễm những tập khí tà kiến dị luận. Và chẳng gần những kẻ viết sách thế tục ca ngâm, sách ngoại đạo. Gần gũi những kẻ viết sách thế tục ca ngâm cũng làm loạn tâm mình, khêu gợi tập khí thế tục thêm. Cũng chẳng gần gũi những kẻ chơi hung hiểm, đâm nhau, đánh nhau và bọn Na-la v.v… bày các cuộc chơi biến hiện. Na-la tức là kẻ múa hát. Những kẻ chơi hung hiểm, đâm chém, những người ca hát, bày những trò chơi biến hiện, làm rối loạn tâm vô ích. Lại cũng chẳng gần gũi bọn hàng thịt và kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, săn bắn, chài lưới; hạng người sống với nghề ác. Đây là ngừa duyên khởi niệm sát. Nhưng những người như thế hoặc có lúc lại đến thời Bồ-tát vì nói pháp không có lòng mong cầu. Tức là không phải biến thành đối nghịch, tránh duyên không gần gũi thôi nhưng trường hợp họ đến thì mình cũng vì pháp mà nói chứ không có lòng mong cầu để gần gũi. Lại cũng chẳng gần gũi những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hạng người cầu quả Thanh Văn. Đây là ngừa duyên để tránh không rơi vào trong tập khí Nhị thừa. Lại vị Đại Bồ-tát chẳng nên ở nơi thân người nữ cho là tướng có thể sanh tư tưởng dục nhiễm, mà vì nói pháp cũng chẳng ưa thấy. Nếu vào nhà người chẳng cùng với gái nhỏ, gái trinh, gái góa v.v… chung nói chuyện, cũng lại chẳng gần năm giống người bất nam để làm thân hậu. Đây là để tránh lòng dục nhiễm, tránh những lỗi lầm cho nên không gần gũi những người nữ dù gái nhỏ, gái lớn gì v.v… Và cũng không riêng một mình vào nhà người để tránh lỗi lầm hoặc khiến cho nghi ngờ. Trong trường hợp vì nói pháp thì luôn giữ chánh tâm, không sơ hở sinh lòng dục nhiễm gần gũi người nữ. Trong quyển Thiền sư Việt Nam, Thiền sư Hiện Quang vì nhân duyên nhận món đồ cúng dường của bà công chúa Hoa Dương nên sau này bị mang tiếng khiến người ta bàn tán tiếng ong tiếng ve. Nghe như vậy, Ngài tự nghĩ: “Phàm cùng với người thế tục tới lui thì ắt chẳng khỏi bị huỷ nhục. Ta phải chịu như thế hay sao?”. Do vậy, Ngài bỏ đi và tránh vào núi. Đó là những kinh nghiệm cho người xuất gia của mình, chớ quá giao thiệp với người thế tục để tránh duyên tạo lỗi lầm. Chẳng ưa nuôi đệ tử Sa-di ít tuổi và các trẻ nhỏ, cũng chẳng ưa cùng chúng nó đồng một thầy. Bởi vì nuôi Sa-di nhỏ tuổi, ít tuổi thì nó làm quấy rầy, phiền nhiễu, không yên; còn cùng với nó đồng một thầy thì nó khinh lờn. Nó nói: “Ông cũng cùng một thầy với tôi”. Đây là Phật dạy kỹ. Chỉ ưa thích ngồi thiền ở chỗ vắng vẻ để nhiếp phục tâm mình. Văn-thù-sư-lợi, đó là chỗ Thân cận ban đầu. Đây là Thân cận về sự, ngừa tránh trước những nhân duyên đưa đến lỗi lầm. Phần kế đến là Thân cận về lý. CHÁNH VĂN: Lại nữa, vị Đại Bồ-tát quán sát "Nhất Thiết Pháp không, như thật tướng" chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thối, chẳng chuyển, như hư không, không có thật tánh, tất cả lời nói phô dứt, chẳng sinh, chẳng xuất, chẳng khởi, không danh, không tướng, thật không chỗ có, không lường, không ngằn, không ngại, không chướng, chỉ do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sanh cho nên nói, thường ưa quán sát pháp tướng như thế đó gọi là chỗ thân cận thứ hai của vị Đại Bồ-tát. GIẢNG: Thân cận xứ có hai phần: phần thứ nhất thuộc về sự ngừa tránh những nhân duyên gần gũi, phần thứ hai thuộc về lý phải có trí tuệ quán sát, để không bị các pháp che mờ mà mình luôn giữ được ánh sáng Tri kiến Phật. Quán sát tất cả pháp là không, đúng như thật tướng của nó. Quán kỹ các pháp như vậy, các pháp vốn là không, không điên đảo, không thối, không chuyển, giống như hư không, không có thật tánh, không có lời nói nên tất cả lời nói phô dứt. Quán kiểu này đúng là phải có trí tuệ rồi, chứ bình thường thì mình thấy các pháp có động, có chuyển, có lời nói. Thí dụ như cái bàn, cái ghế đều có tên hết, sao bảo các pháp tất cả lời nói phô dứt (không nói được). Không danh, không tướng, không thật có, không điên đảo. Nó đều có tên hết, mà tại sao nói không danh, không tướng? Đây là cần phải có trí tuệ, quán đúng như thật tướng của nó. Tức là các pháp tự vốn tịch diệt, là lặng lẽ, đâu sinh điên đảo, đâu sinh động chuyển gì nhưng chỉ do người sinh tâm ở trên đó nên thành ra có điên đảo, thành ra có động chuyển. Thí dụ như cái bàn cái ly này, nó vốn là tịch diệt, vốn lặng lẽ chứ nó đâu sinh động niệm, đâu sinh yêu ghét gì! Nó đâu có nói: “Tôi là cái bàn”, cũng đâu có nói: “Tôi là cái ly, cái tách” gì! Do người ta sinh tâm trên đó, rồi phân biệt nên mới đặt tên cho nó. Mình đặt tên cho cái này là “cái bàn”, cái kia là “cái tách” để phân biệt cái tách không giống cái bàn, để dùng với nhau. Nhưng người ta lại chấp ở trên đó, nhiều khi còn cãi vã với nhau thì càng xa sự thật nữa. Thí dụ như cái này là cái tách mà có người nói: “Cái tách này là cái bàn” thì mình cãi liền. Nhưng sự thật, cái tên “tách” đó có từ lúc nào? Cái tách vốn đâu phải tên là “cái tách” mà do người ta đặt tên cho nó mà thôi. Nếu người ban đầu đặt tên cái tách này là “cái bàn”, đổi lại cái bàn này là “cái tách” thì bây giờ mình cũng gọi cái này là “cái bàn”, cái kia là “cái tách” thôi! Đó là cái tên do người ban đầu đặt ra mà mình thì cố chấp theo. Đâu cố định gì! Hoặc ở đây mình gọi là cái bàn, cái tách nhưng ở ngoài Bắc thì gọi khác. Như vậy, tuỳ theo chỗ, tuỳ theo người mà đặt chứ đâu cố định, nhưng mình cố chấp trên đó mà cãi vã nhau thì có phải điên đảo không? Cho nên, đây Ngài nói là phải quán đúng nó vốn là tịch diệt, vốn là lặng lẽ, không sinh động niệm gì trong đó. Cũng giống như cái hoa, nó đâu có sinh điên đảo gì nhưng do người chấp nó thật, rồi sinh phân biệt trên đó nên thành điên đảo, làm mờ đi cái tánh như thật, cái tướng như thật của nó. Trong nhà Thiền có câu chuyện về Ngài Huyền Sa - Sư Bị. Một hôm, Sư đang ăn trái vải thì Sư cầm trái vải đưa lên và hỏi trong chúng: - Trái vải này vì sao đỏ lợt, còn trái vải kia vì sao đỏ đậm? Tất cả các ông hãy nói vì sao? Nếu nói nó một màu thì bèn thành ra lộn xộn, còn nếu nói nhiều màu thì thành ra đoạn thường. Như vậy thì phải nói thế nào đây? Lúc đó, ông Nham Thao thưa: - Thì cũng chỉ tại Hoà thượng phân biệt. Ngài Huyền Sa bảo: - Đây là lộn xộn ngu si, có dính dáng gì đâu. Ngài Trùng Cơ thưa: - Đại khái thì nó chỉ là một màu. Nhưng Ngài Huyền Sa cũng bảo: - Thảy đồng lộn xộn, có khi nào liễu ngộ. Cái này đỏ lợt, cái này đỏ đậm mà lại nói một màu thì sao? Ngài Huyền Sa xoay lại hỏi ông Kiểu Nhiên: - Người nói thế nào? Ngài Kiểu Nhiên thưa: - Không thể chẳng biết trái vải. Tức là Ngài không nói một màu hay nhiều màu thế nào, Ngài nói là không thể chẳng biết trái vải. Thấy trái vải biết trái vải không lầm. Ngài Huyền Sa nói: - Chỉ là trái vải. Trái vải chỉ là trái vải nhưng mình trên đó lại phân biệt màu này màu kia, đỏ đậm đỏ lợt thành ra lộn xộn rồi cãi nhau. Trái vải chỉ là trái vải, nó đâu có nói gì đâu! Cãi là do mình chứ nó đâu có cãi. Dù cho mình nói trái vải này đỏ đậm hay đỏ lợt thì nó cũng im lìm, không cãi gì. Rõ ràng do người sinh chuyện. Trái vải chỉ là trái vải, không có niệm gì hết, do mình thấy rồi sinh tâm điên đảo trên đó. Ở đây, khi thấy đến thật tướng của nó thì tất cả lời nói phô dứt. Thấy được đến chỗ chân thật thì nó là nó, không phải nói thêm trên đó nữa thì dứt tranh cãi. Cũng vậy, có một ông tăng hỏi Thiền sư Bổn Tịnh: - Muôn pháp là từ đâu sinh? Ngài Bổn Tịnh đáp: - Từ điên đảo sinh. Ông tăng lại hỏi: - Khi không điên đảo thì muôn pháp ở chỗ nào? Ngài Bổn Tịnh đáp: - Ở. Ông tăng hỏi: - Ở chỗ nào? Thiền sư Bổn Tịnh liền đáp: - Điên đảo làm gì? Cái thấy của người sáng đạo là như vậy. Muôn pháp vốn là không, là lặng lẽ, là không sinh nhưng do người điên đảo động niệm trên đó nên nó mới có sinh khởi. Cho nên, đây Ngài gọi là từ điên đảo sinh. Có pháp này, pháp kia, pháp nọ v.v… là do mình điên đảo sinh phân biệt. Người sinh tâm ở trên đó nên mới thấy có sinh có diệt. Còn khi hết điên đảo thì muôn pháp ở chỗ nào? Hết điên đảo thì muôn pháp tự là muôn pháp, nó vốn thanh tịnh, là vô sinh, mà lại hỏi chỗ nào nữa! Hỏi tức là muốn có chỗ nữa, tức có sinh tâm thì thành điên đảo trở lại rồi! Do vậy, Ngài Bổn Tịnh đáp khéo, chỉ nói: “Ở” mà không nói chỗ nào. Ông tăng lại cố hỏi cho ra chỗ, muốn có chỗ; mà có chỗ tức là có duyên để tâm sinh thì lại thành điên đảo. Do vậy, thấy được đúng như thật của các pháp thì không có chuyện gì phải tranh cãi nữa. Nó vốn không tịch, vốn lặng lẽ như vậy không thêm điên đảo gì nữa. Đó là gìn giữ ánh sáng Tri kiến Phật luôn sáng. Còn ở trên đó mà phân biệt thế này thế kia v.v… rồi cãi nhau một hồi thì không thấy Tri kiến Phật ở đâu mà chỉ là Tri kiến chúng sanh! Đây là chỗ Thân cận trí tuệ để trì kinh Pháp Hoa, chứ không phải là Thân cận theo tình thức phân biệt. CHÁNH VĂN: Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại ý nghĩa trên mà nói kệ rằng: Nếu có vị Bồ-tát GIẢNG: Ở đây, Đức Phật nhắc lại hai pháp Hành xứ và Thân cận xứ. Về Thân cận xứ, Ngài nhắc phải xa rời Quốc vương, những hạn quyền quý, thế lực, những người chơi hung hiểm, những ngoại đạo v.v…tránh những duyên gần gũi dễ khiến sinh lỗi lầm, gợi lên những tập khí sinh tử, tập khí tà kiến, làm rối loạn tâm. CHÁNH VĂN: Nếu những hạng người đó GIẢNG: Trường hợp những vị này có lòng tốt đến nghe pháp thì mình cũng sẵn sàng nói, chứ không phải đối nghịch nhưng phải không có lòng mong cầu. Tức là khi họ đến thì khéo vì đó mà nói pháp để gieo chủng tử giác ngộ chân chánh, để khơi lại ánh sáng Tri kiến Phật cho họ bởi vì ai cũng có lẽ thật này, nhưng phải không có niệm mong cầu sinh tâm duyên theo. CHÁNH VĂN: Những gái góa, gái trinh GIẢNG: Đây cũng là tránh các nhân duyên phát khởi những niệm dâm, sát, lỗi lầm làm rối loạn tâm mình. CHÁNH VĂN: Chớ nên riêng chỗ khuất GIẢNG: Đây là giữ gìn luật nghi. Với người nữ thì không nên ở chỗ riêng khuất mà nói để tránh người khác cơ hiềm (chê bai, chỉ trích). Còn khi vào trong xóm thì phải đi hai người, phải có một Tỳ-kheo khác đi theo, đó cũng để tránh những nhân duyên gây lỗi lầm. Ở đây Phật dạy rất kỹ. Mình nhiều khi theo ý riêng của mình, sống trái với luật nghi cho nên dễ sinh ra tội lỗi. Dùng hai xứ trên tức là an trụ trên Hành xứ và Thân cận xứ thì sẽ được an lạc mà nói pháp. CHÁNH VĂN: Lại cũng chẳng vin theo GIẢNG: Đây Phật nhắc Hành xứ, thuộc về lý, là phải quán sát đúng như lý các pháp. Không có chỗ phân biệt pháp này thượng, pháp kia trung, pháp kia hạ; rồi pháp này hữu vi, pháp kia vô vi. Phân biệt như vậy thì có khi tranh cãi, hoặc chê trách nhau: “Tôi tu theo pháp thượng, còn anh tu theo pháp hạ, pháp trung. Tôi cao, còn anh thấp”. Cũng vậy, mình nói: “Tôi tu Đại thừa, anh kia tu Tiểu thừa”, đó là bệnh. Phải hiểu được, đây là phương tiện Phật tuỳ cơ mà thuyết pháp. Người căn cơ nào thì Phật nói pháp đó cho thích hợp. Không phải là bám chấp vào đó rồi phân chia theo tình yêu ghét của mình, đó là trái pháp. Tức là chẳng phân biệt theo các pháp đối đãi, sinh niệm phân chia thành ngăn cách với pháp thể bình đẳng. Lại chẳng đặng các pháp, chẳng biết cũng chẳng thấy. Tức cũng không phải không biết, không thấy các pháp gì! Nghiêng một bên như vậy cũng không được. Nghĩa là thân biết tất cả nhưng không rời nơi tự tánh, không sinh tâm phân biệt theo tướng sai biệt. Đó là luôn luôn gìn giữ, sống trở về lẽ thật Tri kiến Phật. Tức là đối cảnh mà giữ tâm không sinh theo, đó là Hành xứ an ổn để trì kinh Pháp Hoa, chứ không phải nghe Phật thuyết như vậy thì nói: “Thôi, tôi không biết, không thấy gì hết!”, cái đó là mắc kẹt. CHÁNH VĂN: Tất cả các món Pháp GIẢNG: Đây là thấu suốt tất cả các pháp đều là không, không thật có, không thường trụ mà cũng không khởi diệt. Tức là thấy đúng theo nghĩa thật tướng của nó, đúng theo lý của nó, buông chỗ bám theo tình thức, sống trở về trí. Gọi là thân cận trí chứ không thân cận thức. Đó là chỗ người trí hằng nương, được như vậy thì an ổn mà nói kinh Pháp Hoa. CHÁNH VĂN: Chớ điên đảo phân biệt GIẢNG: Tức là không ở trên các pháp mà sinh tâm điên đảo phân biệt nó là có là không là thật chẳng phải thật. Đó thành ra đối đãi thì mất ánh sáng Tri kiến Phật. Cho nên, đây phải soi trở lại tự tâm mà an trụ nơi vô trụ thì không có gì lay chuyển, tựa như núi Tu-di. CHÁNH VĂN: Quán sát tất cả pháp GIẢNG: Tức là thấy thấu thật tướng các pháp, không ở trên cái tướng hư dối đó mà sinh tâm. Đây gọi là “quán sát tất cả pháp, thảy đều không thật có, dường như là hư không, không chút bền chắc”, nên “chẳng sinh cũng chẳng xuất, chẳng động cũng chẳng thối”, nghĩa là nó không có thực tánh. Thấy rõ các pháp đều không có thực thể, các pháp là một thể như, nó như thế nào thì thấy nó như thế đó, không sinh tâm động niệm trên đó thì nó vững vàng. Được vậy thì ánh sáng Pháp Hoa luôn sáng tỏ, còn ở trên đó sinh tâm động niệm phân biệt pháp này có, pháp kia không thành ra cãi nhau thì mất ánh sáng Tri kiến Phật. CHÁNH VĂN: Nếu có vị Tỳ-kheo GIẢNG: Vào được hai chỗ Hành xứ và Thân cận xứ, tức là được Thật trí thì lúc nói kinh này không có phải sợ nữa. CHÁNH VĂN: Vị Bồ-tát có lúc GIẢNG: Có khi các vị Bồ-tát vào trong tịnh thất, tư duy nhớ nghĩ chân chánh theo nghĩa của các pháp. Sau đó thì từ trong thiền định dậy, vì các Quốc vương, Vương tử v.v… mà nói pháp nên tâm an ổn, không khiếp nhược. Đây là có định, có tuệ, nói ra điều gì thì mình đã có thể nghiệm trong đó chứ không phải là nói trên chữ nghĩa. Các vị có chỗ sống đàng hoàng, khi nói ra thì đầy đủ tự tin nên tâm an ổn, không sợ hãi. CHÁNH VĂN: Văn-thù-sư-lợi này! GIẢNG: Đây là hạnh An lạc ban đầu, an trụ được trong đó thì an ổn mà nói kinh Pháp Hoa. Hạnh này gồm hai phần là Hành xứ và Thân cận xứ. Có chỗ khác thì các Ngài giải thích là phần này thuộc về Chánh hạnh về thân, tức là giữ gìn thân. Kế đến Phật dạy hạnh thứ hai: CHÁNH VĂN: Lại Văn-thù-sư-lợi! Sau khi Đức Như Lai diệt độ, ở trong đời mạt pháp muốn nói kinh này, phải trụ nơi hạnh An lạc. Hoặc miệng tuyên nói, hoặc lúc đọc kinh đều chẳng ưa nói lỗi của người và của kinh điển; cũng chẳng khinh mạn các Pháp sư khác, chẳng nói việc hay dở, tốt xấu của người khác. Ở nơi hàng Thanh Văn cũng chẳng kêu tên nói lỗi quấy của người đó, cũng chẳng kêu tên khen ngợi điều tốt của người đó. Lại cũng chẳng sinh lòng oán hiềm, vì khéo tu lòng an lạc như thế nên những người nghe pháp không trái ý. Có chỗ gạn hỏi, chẳng dùng pháp Tiểu thừa đáp, chỉ dùng pháp Đại thừa mà vì đó giải nói làm cho đặng bậc Nhất thiết chủng trí. GIẢNG: Hạnh thứ hai này là giữ gìn miệng không nói lỗi của người khác, không khen chê, không nói lỗi của kinh điển. Đây là ngừa tránh lỗi của miệng cho nên an trụ trong hạnh này thì hoặc lúc tuyên nói, hoặc lúc đọc tụng kinh thì chẳng ưa nói lỗi của người và của kinh điển. Nhiều khi mình phân tích kinh này có lỗi chỗ này, kinh kia dở chỗ kia để mà phô trương hiểu biết, trí tuệ của mình nhưng không ngờ đó là lầm lẫn. Bởi vì Phật tuỳ cơ mà nói pháp cho nên những người căn cơ thấp thì Phật nói thấp, căn cơ cao thì Phật nói cao. Còn mình thấy Phật nói theo căn cơ thấp thì phê bình kinh này còn thiếu sót cái này cái kia, đó là mình có tâm khen chê tìm lỗi kinh điển trong đó. Thí dụ như khi gặp ông Thiện Sinh mỗi ngày lạy sáu phương, Phật phương tiện dạy cho ông cách lạy chân chánh để có công đức thêm. Thay vì lạy sáu phương như vậy thì Đức Phật dạy lạy phương này thì nhớ cha mẹ, lạy phương kia thì nhớ thầy tổ v.v… để thêm công đức cho ông. Mình không biết thì phê phán: “Sao Phật dạy như vậy? Không chỉ thẳng lẽ thật mà còn dạy cho người lạy sáu phương?”. Phải biết rằng đó là tuỳ cơ duyên, với căn cơ ông này thì phải tạm dùng phương tiện để chuyển cho ông. Thay vì ông lạy phương này lạy phương kia thì mất lợi ích, bây giờ Phật chuyển lại khiến ông nhớ công đức của cha mẹ, của thầy tổ v.v… thì có lợi ích hơn. Đó là phương tiện của Phật, mình phải biết như vậy chứ không khéo thì ỷ mình như thông minh, trí tuệ, rồi phân tích kinh điển, chỉ ra lỗi này, lỗi kia thì đó là lầm lẫn. Người nói kinh không nói lỗi kinh điển, mà cũng không ưa nói lỗi của người. Bởi vì thích nói lỗi của người ta tức là tâm mình cũng không được chánh, cứ thấy lỗi người khác mà lỗi mình thì không thấy nên dễ thành tâm thị phi. Cho nên, Lục Tổ nói: “Thấy lỗi người thì lỗi mình tới bên cạnh”. Đó gọi là mất mình, không thường phản chiếu lại mình mà cứ thấy lỗi người ta. Nhiều khi thấy lỗi người ta còn sinh tâm bực tức khó chịu nữa! Thấy anh đó lỗi này, thấy anh kia lỗi nọ, sao người nào cũng lỗi hoài? Mà mình lỗi lúc nào thì lại không hay! Thấy lỗi người ta thì mình bực tức, còn khi người ta thấy lỗi mình thì ai bực tức? Đây cũng là kinh nghiệm cho người thuyết pháp nữa. Khi lên toà thuyết pháp mà phê bình người này lỗi này, người kia lỗi kia v.v…, đó là điều cấm kỵ vì đó là chỗ nói pháp, không phải là chỗ phê bình lỗi phải. Nói như vậy, người phía dưới đâu có thích nên không muốn nghe. Mà khi có tâm thị phi, lỗi phải tức là lộ bày tâm nhân ngã trong đó thì pháp thật, Tri kiến Phật bị che mờ. Trong nhà Thiền, có nhân duyên ông Bàng Cư sĩ (Bàng Uẩn) đến hỏi Hoà thượng Bổn Khê: - Đơn Hà đánh thị giả ý ở chỗ nào? Tích Ngài Đơn Hà đánh thị giả thì tìm chưa thấy, đúng ra Ngài Đơn Hà đến hỏi thăm Quốc sư Huệ Trung, sau đó khi thức dậy thì Ngài Huệ Trung đánh thị giả. Đây quan trọng là ở chỗ ý hỏi “đánh thị giả”. Hoà thượng Bổn Khê mới đáp: - Cái lão già này còn thấy chỗ tốt xấu của người. Chỗ tốt xấu người ta mà hỏi làm chi? Chuyện đánh thị giả là chuyện của người, đó là chuyện trong nhà người còn ông dính dáng gì đâu mà hỏi? Ông Bàng Cư sĩ mới nói: - Vì tôi cùng với thầy đồng tham cho nên mới dám xin hỏi vậy. Tức là tôi với thầy cùng đồng tham, cùng trong nhà nên mới hỏi như vậy. Ngài Bổn Khê bảo: - Mời nhắc lại để cùng thương lượng. Ông Bàng Cư sĩ nói: - Lão già này chẳng thể cùng ông nói việc phải quấy của người. Ngài Bổn Khê bèn bảo: - Cũng nghĩ ông là tuổi già. Nghĩ ông tuổi già nên tha cho ông đó. Ông Bàng Cư sĩ nói: - Tội lỗi, tội lỗi. Đó là ông tự biết lỗi, đây để kinh nghiệm không phải là mình cứ lo nói chuyện lỗi phải của người. Chuyện lỗi phải là chuyện của nhà người ta, mình xen vào đó tức mình lỗi. Cũng không khinh mạn các Pháp sư khác. Tức không phải là thấy những Pháp sư khác thì sinh tâm khinh mạn hoặc nói lời khinh mạn, thành ra chê bai, chỉ trích. Chẳng nói việc hay dở tốt xấu của người khác, ở nơi hàng Thanh văn cũng chẳng kêu tên nói lỗi quấy của người đó. Tức cũng không nói: “Ông này tu theo Tiểu thừa”. Bởi vì tuỳ theo căn cơ nên Phật chỉ pháp tu cho ứng hợp, người ta tu có kết quả rồi dần dần Phật mới chuyển đưa lên. Đâu phải nghĩ: “Mình tu Đại thừa, ông này tu Tiểu thừa”, như vậy là lỗi lầm. Cũng chẳng đặng kêu tên mà khen ngợi điều tốt của người. Chỗ này mới khó. Không kêu tên mà nói điều xấu, chỉ lỗi thì dễ hiểu, mà sao khen cũng không được nữa? Bởi vì kêu tên mà khen điều tốt thì làm cho người ta thêm ngã mạn. Nhiều khi ông thầy không khéo, khen như vậy có hai cái nguy: thứ nhất là làm cho người được khen dễ ngã mạn, thứ hai là làm cho những người xung quanh đố kỵ, ganh tỵ. Con người thì tâm ganh tỵ luôn ngầm có, tập khí đó dễ sinh nên thấy người khác được khen thì ganh tỵ liền. Cho nên, ở đây Phật dạy phải khéo tránh. Cũng không sinh lòng oán hiềm, vì khéo tu lòng an lạc như thế cho nên những người nghe pháp không trái ý. Tức là giữ tâm không sinh oám hiềm ai, được như vậy mà nói pháp thì người nghe mới vui mà nghe. Thí dụ như buổi nói pháp mà cứ kêu tên người này chê, kêu tên người khác khen, chê khen lung tung trong đó thì ở dưới mấy người nghe kia cũng thấy nặng nề không phấn khởi nghe. Đây là ngừa các lỗi nơi miệng. Nhưng miệng nói thì cũng từ ý mà sinh, cho nên tuy ở đây nói giữ gìn miệng mà cũng là ngầm chỉ cái ý. Do vậy, ở đây thêm là “không sinh lòng oán hiềm”, tức giữ cho ý chân chánh. Được như vậy, người nói được an lạc mà người nghe cũng phấn khởi. Có ai gạn hỏi thì chỉ dùng pháp Đại thừa mà giải nói khiến cho đặng Nhất thiết chủng trí. Đây là chỉ thẳng đưa họ đến lý thật, không giấu diếm, không bỏn sẻn, không sợ chỉ pháp Đại thừa rồi họ hiểu thì lại khinh thường mình vì mình chỉ ra rồi; hoặc là khinh thường người nên chỉ pháp Tiểu thừa mà không chỉ pháp Đại thừa. Ở đây thì không có tâm giấu diếm, không có tâm bỏn sẻn, luôn vì lẽ thật. CHÁNH VĂN: Khi ấy, Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Vị Bồ-tát thường ưa GIẢNG: Trước khi nói pháp thì phải tắm gội sạch sẽ, sắp đặt sàng tòa trang nghiêm, trong ngoài đều sạch thơm, sau đó mới ngồi an ổn nơi pháp toà mà nói. Trước khi nói pháp, phải giữ thân thanh tịnh, trang nghiêm là để tỏ lòng tôn trọng pháp chứ không phải là muốn làm cao. Vì tôn trọng pháp nên sắp đặt sàng tòa đàng hoàng, tắm gội sạch sẽ, đó cũng khiến cho người nghe biết quý trọng pháp. Ở trong luật, Phật dạy khi nói pháp thì mình phải ở chỗ cao, người nghe ở chỗ thấp; hoặc là người nghe có ngồi trên ngựa, hoặc trùm đầu thì không được nói pháp. Đó cũng là để cho họ có lòng kính quý pháp, tôn trọng pháp. Cũng như Ngài Đạt-lai Lạt-ma, pháp tòa Ngài sắp lên được trang trí rất trang nghiêm, trước khi lên pháp tòa thì Ngài lạy pháp tòa ba lạy rồi mới đăng tòa. Đó cũng theo ý trên để tỏ bày lòng tôn trọng pháp. CHÁNH VĂN: Nếu có vị Tỳ-kheo GIẢNG: Tức là cũng khéo đưa người vào thật nghĩa mà trở về Phật đạo. Có ai gạn hỏi thì theo đúng nghĩa mà đáp, dùng những nhân duyên thí dụ giải bày, khiến cho họ lần lần phát tâm vào trong Phật đạo. Mà phải dùng pháp nghĩa nhiệm mầu để giải nói, đưa họ vào sâu trong nghĩa thật, chứ không kẹt chết ở trên văn tự, chữ nghĩa mà xa rời Tri kiến Phật. CHÁNH VĂN: Trừ lòng lười biếng trễ GIẢNG: Đây cũng là tinh tấn với tâm từ luôn nói pháp để đưa người vào trong chỗ chân thật. Ngày đêm thường tuyên nói, luôn siêng vì pháp để khiến cho người được hoan hỷ. CHÁNH VĂN: Y phục cùng đồ nằm GIẢNG: Tức là không phải mình nói pháp để mong cầu được cúng dường tứ sự (y phục, đồ nằm, đồ ăn uống, thuốc thang) hay sự lợi dưỡng. Đây là ngừa tâm tham danh lợi mong được người ta cúng dường nhiều. Khi được cúng dường nhiều thì dễ sinh tâm tự hào cho là: “Mình đây có phước lớn, được người ta cúng dường nhiều”, như vậy là bị niệm danh lợi che mờ. Cho nên, đây chỉ một lòng chuyên nhớ nhân duyên nói pháp tức chỉ vì kinh, vì pháp. Rồi cùng đồng nguyện khi mình thành Phật đạo thì khiến mọi người cũng được như vậy, đều được đến chỗ chân thật như mình. CHÁNH VĂN: Sau khi ta diệt độ GIẢNG: Được như vậy tức là tâm luôn luôn an nhẫn, vượt qua các chướng, lúc nào cũng hiện bày ánh sáng Pháp Hoa. Nói pháp được như vậy thì sẽ cảm sâu đến người. Đó là được an ổn truyền Pháp Hoa, công đức vô lượng không tính kể được. Kế đến là hạnh thứ ba. Mục Lục
|
Kinh Pháp Hoa Giảng Lục - Tập III
|
Phẩm 14 An Lạc Hạnh