Thiền Tông Việt Nam
Thấy Pháp
I. Chân Giáo Pháp

Tất cả quý Phật tử học Phật pháp lâu rồi nhưng có thấy được chân giáo pháp chưa? Nếu học Phật pháp theo kiểu lật từng trang kinh này qua trang kinh nọ, hay là nhai từng lời của những vị Tổ này đến những vị Tổ nọ, hoặc là nghe buổi giảng này đến buổi giảng kia v.v… thì quý vị có thấy chân giáo pháp không? Mà nếu không thấy thì nghe giảng để làm chi? Cho nên đây phải nhớ: giảng giải là chỉ nói về pháp thôi !

Quý vị nhớ kĩ điều đó, quý thầy giảng dù cho hay cách mấy đi nữa cũng chỉ là nói về pháp, còn chân giáo pháp thì không có nằm ở trong những lời giảng đó mà nó nằm ở trong cuộc sống hằng ngày hay là ngay trong tự tâm của mỗi người. Do đó, nếu chỉ bám vào những lời giảng đó thì không thể thấy nổi, mà ở đây mỗi vị phải khéo làm sao thấu qua những lời giảng, lắng lòng nghe trở lại nơi chính mình để thấy đến chân giáo pháp thì mới là khéo! Quý vị nhìn lại nơi thân mình bây giờ xem, so với lúc còn bé thì nó thế nào? Đi vào thực tế, mới sanh ra mình có mấy kí lô mà bây giờ thì tới mấy chục kí lô, đó là pháp đấy! Kế nữa, chỗ mà quý vị ngồi ở đây trước kia là chỗ của Tăng Ni ngồi chứ không phải là chỗ quý vị ngồi. Vậy thì sao bây giờ mình lại ngồi đây? Đó cũng là thấy pháp, chứ không phải là mình thấy trong chữ nghĩa. Rồi buổi học này bây giờ thì tập hợp đông đảo như vậy nhưng qua mười một giờ thì sao? Thấy được điều đó là thấy pháp rồi. Như vậy, pháp hiện hữu khắp nơi trong cuộc sống hằng ngày, thấy như vậy thì mới đúng là thấy pháp.

Rồi quý vị đi đường hay là đi ra vườn mà bất ngờ đạp phải cây gai thì thế nào? Thì đó là thấy pháp, còn nếu không thấy pháp thì thấy đau! Rồi vừa mở mắt chào đời thì vì sao liền khóc “oa oa” mấy tiếng? Thấy được điều đó là thấy pháp. Cái thân mình đây bữa nay sao nó nhức đầu quá, mà mình thì đâu có muốn nó nhức đầu. Thì đó là thấy pháp, tức là thấy được nó là vô thường, khổ, vô ngã. Khéo học như vậy thì sẽ thấy được pháp chân thật (chân giáo pháp), nếu tập nhìn kiểu này thì mình sẽ luôn luôn thấy pháp ở khắp nơi chứ không phải chỉ ở trong buổi giảng hoặc lên bàn Phật đọc kinh mới thấy. Mà nếu thấy pháp hiện hữu khắp nơi được như vậy thì chắc chắn là sẽ bớt phiền não, bởi toàn lo thấy pháp thì đâu có thấy phiền não, còn mình thì chỉ lo thấy phiền não nên thành ra không thấy pháp. Cái pháp này mình không phải nhọc nhằn tìm ở trong sách vở cũng như không phải đợi lên lớp, mà nó ở ngay trong cuộc sống hằng ngày đây. Cho nên, học là để mình thấy đến pháp chân thật chứ không phải là chỉ thấy trên những lời lẽ chữ nghĩa. Ngài A-chan Chah (một vị Thiền sư người Thái Lan) thỉnh thoảng có đi thăm những ngôi chùa cổ, khi đến vài nơi di tích, thấy nó bị đổ vỡ hoặc nứt nẻ, một trong những người đi theo buột miệng than:

– Thật đáng tiếc quá!

Tức là những ngôi chùa này ngày xưa nguy nga, tráng lệ đẹp đẽ mà bây giờ thì nó đổ vỡ, nứt nẻ như vậy.

Nghe như vậy, Sư mới bảo:

– Nếu không có sự đổ vỡ thì chẳng có Đức Phật và cũng chẳng có giáo pháp.

Tức là nó đổ vỡ như thế vì đó hoàn toàn phù hợp với những lời Phật dạy: “Các pháp hữu vi là vô thường”, chính như vậy nên mới có Đức Phật, có giáo pháp. Nếu nó mà mãi mãi như vậy thì Phật nói các pháp hữu vi là vô thường là không phù hợp sao? Như vậy, ngay đó thì Ngài thấy rõ pháp, còn những người nhìn theo thế gian khi thấy nó đổ vỡ thì buồn tiếc: “Ngày xưa nó đẹp đẽ mà bây giờ thì nó không còn như xưa nữa!” nên sinh chán nản. Thí dụ như đi tham quan đến những thánh tích xưa, nếu mình nhìn theo con mắt thế gian thì sẽ thấy chán vì không có gì để tham quan hết, bây giờ nó đã đổ nát, chỉ còn lại những cái nền cũ thôi! Nhưng nếu khéo thì mình sẽ thấy được pháp trong đó, thì mới thấy có giá trị, có ý nghĩa. Cũng như trong kinh Kim Cang, mở đầu kinh:

“Đến giờ ăn, Phật đắp y ôm bát đi vào thành Xá-vệ khất thực. Khất thực xong, Phật trở về thọ thực rồi xếp y bát, rửa chân, trải tòa ngồi”. Trưởng lão Tu-bồ-đề thấy vậy liền tán thán: “Bạch Thế Tôn, thật là hi hữu! Như Lai khéo hộ niệm cho các vị Bồ-tát, khéo phó chúc cho các vị Bồ-tát”.

Như người thường thì chỉ thấy Đức Phật sáng đi khất thực rồi về ăn cơm thì có cái gì đâu là phó chúc, có cái gì đâu hộ niệm? Nhưng đây Trưởng lão Tu-bồ-đề thì thấy pháp hiện hữu trong đó, ánh sáng Kim Cang Bát-nhã luôn chiếu sáng. Mình học là phải học sâu vào chỗ đó, ngay trong những cử chỉ hành động bình thường đó. Phật thì lúc nào cũng giác không mê, nên trong mỗi cử chỉ hành động của Ngài lúc nào cũng biểu hiện ánh sáng chánh giác. Người thấy pháp thì phải luôn luôn thấy ánh sáng đó. Tuy Phật chưa nói gì nhưng ánh sáng Kim Cang Bát-nhã cũng hiển hiện trong đó rồi, thấy được vậy nên Ngài Tu-bồ-đề mới tán thán. Mà đúng là chuyện ít có, ít người thấy được, chính đó là chỗ Phật hộ niệm, chính đó là chỗ Phật phó chúc cho các vị Bồ-tát phải luôn luôn sống như vậy. Thấy được như vậy là khế hợp với Phật, học Phật phải thấy đến chân giáo pháp như vậy thì đó mới là khéo học. Trước kia, tôi có đọc một hai tài liệu nghiên cứu kinh Pháp Hoa, có tài liệu nói rằng: “Nghe nói kinh Pháp Hoa là bộ kinh cao, bộ kinh Đại thừa mà sao đọc trong đó giống như đọc chuyện tiểu thuyết: lâu lâu kể chuyện này, lâu lâu kể chuyện kia, chuyện tiền thân quá khứ v.v… không thấy gì hay hết!”. Chính Thiền sư Bạch Ẩn cũng vậy, lúc còn trẻ Ngài đọc kinh Pháp Hoa thì không thấy có gì đặc biệt. Nhưng sau một thời gian tu tập, trí tuệ sáng rồi, Ngài đọc lại kinh Pháp Hoa thì mới chợt nhận ra đúng là có những ý nghĩa sâu xa trong đó mà hồi xưa mình không thấy. Đây cũng vậy, nếu nhìn theo con mắt thế gian mà đọc kinh Pháp Hoa thì không thấy gì hay: Như Phật kể chuyện Phật Đa Bảo quá khứ rồi lúc sau thì Phật đó hiện ra v.v… giống như trong chuyện tiểu thuyết! Đó là không thấy pháp, còn đây mình phải làm sao thấu qua chữ nghĩa mà thấy đến nghĩa chân thật (chân giáo pháp) chứ không phải chỉ dừng trên đó. Nhà Thiền có câu: “Không vào hang cọp làm sao bắt được cọp con?!”, cứ ở ngoài luận bàn cách mấy đi nữa thì cũng không làm sao bắt được hết! Dù cho lý luận siêu cách mấy đi nữa thì đó cũng chỉ là nói chơi thôi, mình phải dám vào đó thì mới bắt được cọp con, tức phải có một cái nhảy, phải dấn thân vào! Đó mới là thực tế để mình sống được chân giáo pháp của Phật.

Có câu chuyện trong thời Phật tại thế, Trưởng lão Pothila thông thuộc Tam tạng trong thời kỳ bảy Đức Phật và thường tuyên đọc giáo lý cho một nhóm năm trăm vị Tỳ-kheo nhưng ông chưa chứng quả. Một hôm nọ, Đức Phật nhủ thầm: “Nếu có dịp thì ta sẽ khuyến khích Trưởng lão này chấm dứt lậu hoặc”. Từ khi đó, mỗi lúc vị này đến bên Đức Phật thì Ngài thường gọi: “Hãy đến đây Pothila rỗng!” hoặc là “Chào ông Pothila rỗng!”. Cũng có lúc, Phật bảo: “Hãy ngồi xuống đi, Pothila rỗng!” hoặc là “Hãy đi ra, Pothila rỗng!”. Thậm chí có khi Trưởng lão đã đi ra rồi thì Đức Phật còn nói theo: “Pothila rỗng đã đi ra rồi!”. Nếu mình mà bị nói như vậy thì chắc là tự ái lắm: “Mình là ông thầy lớn mà Phật gọi “Ông thầy rỗng” thì mất mặt với đám đệ tử sao!”. Mà nếu tự ái như vậy thì chắc là không thấy được chân giáo pháp nổi! Nhưng với trưởng lão Pothila này, nghe thấy Đức Phật cư xử như vậy thì ông tự suy nghĩ: “Chắc là Thế Tôn nhắc mình chưa phát triển được chánh định”, tức ông chỉ hiểu trên văn tự mà chưa thực chứng trên chánh định. Do vậy, ông quyết định vào rừng để tu thiền định. Chiều hôm đó, ông sắp xếp y bát. Đợi lúc trời chập tối các thiện tín đi nghe pháp, ông bèn đi lẫn vào trong nhóm đó để cho các Tỳ-kheo kia không để ý rồi đi đến một khu rừng. Ở nơi này có ba mươi vị Tỳ-kheo đang ẩn tu, ông bèn đến vị Trưởng chúng thưa:

– Xin Trưởng lão chỉ dạy cho tôi!

Vị này bèn nói:

– Tôn giả! Ngài là giảng sư, chúng tôi còn phải học nơi Ngài nữa mà. Tại sao Ngài lại nói như vậy?

Ông Pothila vẫn khiêm tốn thưa:

– Thưa Ngài! Xin Ngài đừng từ chối, hãy chỉ dạy cho tôi!

Thật ra, cả ba mươi vị Tỳ-kheo này đều là bậc đã chứng A-la-hán hết rồi nhưng vị Trưởng lão đệ nhất này nghĩ rằng: “Vị Tỳ-kheo này là người học rộng, mà học rộng thì chắc sẽ có cao ngạo. Ta nên dùng phương tiện dẹp bớt cao ngạo đó cho thấp xuống thì vị này mới học pháp được”.

Nếu cứ cao ngạo “Mình là ông thầy lớn, hiểu biết nhiều” thì vị Trưởng chúng thuyết pháp như thông thường làm sao vô được nữa!

Vị này bèn đẩy qua vị kia, vị thứ nhất đẩy xuống vị thứ hai:

– Ngài đến vị kia, vị đó sẽ chỉ cho.

Vị đó lại bảo:

– Ngài gặp vị kia, vị đó sẽ chỉ cho.

Cứ như thế cho đến người cuối cùng là vị Sa-di bảy tuổi đang ngồi vá y! Đến đây thì kiêu khí của vị Trưởng lão này cũng giảm xuống bớt rồi! Mà đúng là ông Pothila có tâm học đạo thật sự nên vẫn đến chỗ vị Sa-di và chắp tay cung kính:

– Thưa Đại đức, xin Đại đức chỉ giáo cho tôi!

Vị này liền đáp:

– Ô kìa giảng sư! Ngài nói gì lạ vậy! Ngài hơn tôi cả về tuổi tác và học vấn, tôi còn phải học với Ngài nữa mà!

Nhưng ông Pothila vẫn rất khiêm tốn:

– Đại đức, xin Ngài đừng từ chối, hãy chỉ dạy cho tôi!

Vị Sa-di này mới nói:

– Thưa Tôn giả, nếu như Ngài kiên nhẫn thì tôi sẽ chỉ cho Ngài.

Ngài Pothila đáp:

– Tôi sẽ kiên nhẫn, nếu như Ngài bảo tôi nhảy vào lửa thì tôi cũng nhảy nữa!

Quý vị thấy, một vị trưởng lão đối với một vị Sa-di mới bảy tuổi mà còn khiêm tốn như vậy. Đúng là Ngài đáng để cho chúng ta lạy nữa, bây giờ khó tìm ra một vị như vậy.

Nghe như vậy, vị Sa-di liền thử! Vị này chỉ cái ao nước ở cách đó không xa và bảo:

– Vậy Ngài hãy nhảy xuống ao này để cả y áo luôn!

Ông Pothila này liền đi tới và nhảy xuống ao liền! Y áo của Ngài ướt hết, vị Sa-di thấy vậy liền kêu:

– Thôi, Ngài hãy đến đây!

Sau khi vị Trưởng lão này đến, vị Sa-di mới nói:

– Này Tôn giả! Giả sử ở đây có một cái hang với sáu cái cửa, có một con tắc kè chui vào hang đó. Người nào muốn bắt nó phải bít năm cửa hang kia chỉ còn chừa lại một cửa, thì sẽ tóm được con tắc kè. Như thế, Ngài nên đóng hết năm căn lại và tập trung vào ý căn.

Tức là tâm mình chạy lung tung nơi sáu căn, mình tập trung không nổi thì bây giờ phải đóng hết năm căn mà chỉ tập trung vào ý căn. Nếu là người thường thì khi nghe vậy chắc cũng chưa hiểu gì sâu lắm, nhưng với Trưởng lão Pothila này, vừa thông minh vừa sáng trí lại còn là bậc thầy thuyết pháp nữa nên nghe tới đó là Ngài nắm được vấn đề, Ngài liền nói:

– Như thế đủ rồi Đại đức, Ngài khỏi cần phải nói thêm nữa.

Ngay tại chỗ, ông bèn tập trung tư tưởng quán sát về thân mình và bắt đầu thiền định. Đức Phật biết vậy nên hiện ra trước mặt, Ngài đọc bài kệ:

Tu thiền trí tuệ sanh
Bỏ thiền trí tuệ diệt.
Biết con đường hai ngã
Đưa đến hữu phi hữu.
Hãy tự mình nỗ lực
Khiến trí tuệ tăng trưởng.

Bài kệ vừa xong, Trưởng lão liền chứng A-la-hán.

Đó là để đánh thức cho mình. Ban đầu, Ngài Pothila hiểu thông giáo lý nhưng chưa thực chứng, Đức Phật muốn cảnh tỉnh nên nói: “Pothila rỗng” tức chỉ hiểu giáo lý nhưng chưa thực chứng bên trong. Nhưng ở đây, Ngài đúng là người có tâm học đạo nên nghe Phật nói vậy thì biết và thức tỉnh nên sẵn sàng buông bỏ để vào rừng tu tập thiền định, và cũng sẵn sàng dẹp bớt cái ngã nên đối với vị Sa-di mới bảy tuổi mà dám hạ thấp mình, do đó mới chứng đạo mau như vậy. Cho nên, mình cần phải khéo thực hành để thực sự đạt đến cái thấy pháp và chứng pháp, đó là cái gương nhắc nhở cho mình tiến lên. Trong nhà Thiền, Ngài Lâm Tế từng nhắc trong chúng:

-“Thế nào là pháp? Pháp chính là tâm pháp, mà tâm pháp thì không hình, thông suốt cả mười phương, hiện dụng ngay trước mắt. Người tin chẳng kịp liền nhận danh nhận cú, nhằm trong văn tự muốn suy lường Phật pháp thật cách xa trời đất!”

Tức là người khéo thì nhận được cái tâm pháp đó, đó mới là chỗ chân thật. Còn “người tin chẳng kịp thì liền nhận danh nhận cú”, là người không khéo thì theo danh từ câu chữ, rồi ở trong đó mà muốn suy lường Phật pháp thì quả thật cách xa rồi!

Ngài bảo thêm:

-“Đại đức! Ông chớ nhận cái áo, nó chẳng biết cử động. Chính người hay mặc áo thì có cái áo “thanh tịnh”, có cái áo “vô sanh”, áo “Bồ-đề”, áo “Niết-bàn”, có áo “Tổ”, áo “Phật”.

Tức là Ngài nhắc mình chớ có nhận cái áo mà phải thấy được người hay mặc áo, đó mới là chính yếu, còn những danh từ “thanh tịnh”, “giải thoát”, “Bồ-đề”, “Niết-bàn”, “Tổ”, “Phật” thì chỉ là mấy cái áo mặc thôi! Nhưng thường thì người học Phật lại hay mắc kẹt trên những cái áo, mấy cái đó chỉ là danh từ thôi, nó có biết giác ngộ giải thoát gì đâu! Vô sanh, hay Bồ-đề, hoặc Niết-bàn thật thì không nằm trong những cái tên đó, nhưng người không khéo thì cứ lo học trên những cái tên đó rồi phân tích chia chẻ: “Bồ-đề” như thế nào, “Niết-bàn” như thế nào, “Tổ” như thế nào, “Phật” như thế nào, rồi “thanh tịnh” như thế nào v.v… Cứ phân tích dài dài trên những cái tên đó, nhưng không thấy Bồ-đề ở đâu hết! Nếu lột hết những cái tên này ra thì Bồ-đề, Niết-bàn ở đâu? Làm sao chỉ ra? Ông Bàng Uẩn có bài kệ:

Đọc kinh tu giải nghĩa
Giải nghĩa thủy tu hành.
Nhược năng y nghĩa học
Tức nhập Niết-bàn thành.
Đọc kinh bất giải nghĩa
Đa kiến bất như manh.
Duyên văn quản chiếu địa
Tâm trung bất khẳng cân.
Điền điền tổng thủy thảo
Đạo tùng hà xứ sanh?

Dịch:

Đọc kinh cần hiểu nghĩa
Hiểu nghĩa mới tu hành.
Nếu hay nương nghĩa học
Liền vào Niết-bàn thành.

Ông nói rằng đọc kinh cần thấu được nghĩa, mà hiểu được nghĩa thì mới biết tu hành. Vậy nếu hay nương nơi nghĩa để học sâu vào, tức vượt qua danh từ thì liền vào được thành Niết-bàn.

Đọc kinh chẳng hiểu nghĩa
Thấy nhiều chẳng bằng mù.
Theo văn rộng chiếm đất
Trong tâm chẳng chịu cày.

Tức là cứ theo văn tự, ôm cho nhiều đất nhưng trong tâm không lo cày, tức không lo tu gì hết thì:

Khoảnh khoảnh ruộng là cỏ
Thì lúa mọc đâu đây?

Tức là tâm mình không lo cày, để cỏ hoang mọc đầy trong đó thì tìm đâu ra lúa? Lúa mọc được chỗ nào? Đó để nói lên học mà không thực hành thì tâm đầy phiền não, cũng như ruộng đầy cỏ hoang thì giác ngộ từ đâu mà có? Đó là để thức tỉnh người học đạo phải học sao cho thật đúng với ý nghĩa học đạo, phải thấu qua những chữ nghĩa mà thấy được pháp, thì đó mới là khéo.

Mục Lục
Danh sách chương: