Kinh Pháp Hoa Giảng Lục - Tập III
Phẩm 19 Pháp Sư Công Đức
Phẩm Pháp Sư Công Đức này là nói công đức người trì kinh, truyền bá để khiến cho sức sống Pháp Hoa đó được tiếp nối không gián đoạn, thì người đó sẽ được công đức gì? Trong đây nói sẽ được sáu căn thanh tịnh. Tức là chỗ thấy nghe hiểu biết của mình đây đều luôn luôn sáng ngời, không gián đoạn, không bị sáu trần làm ngăn che lấp mất, chính chỗ đó là chỗ bảo nhậm Pháp Hoa hay là chỗ giữ gìn Tri kiến Phật, ánh sáng Pháp Hoa thường hiển lộ nơi sáu căn. Có được tướng này đó là công đức diệu ngộ sâu, có sức sống chân thật, không còn lui sụt nữa. Nếu người sống được chỗ này là phải một lòng tinh chuyên miên mật, không cho gián đoạn, nên Phật ở đây Ngài nói với Bồ-tát Thường Tinh Tấn. Trước có phẩm Pháp sư, đây là Pháp Sư Công Đức. Pháp sư ở trước thì giúp trợ phát cho người có tâm tín giải Pháp Hoa, phẩm Pháp Sư Công Đức này nói thẳng kết quả hiện tiền cảm nghiệm được nơi người trì kinh, cho nên chỗ này sâu hơn, CHÁNH VĂN: Lúc bấy giờ, Phật bảo Ngài Thường Tinh Tấn Đại Bồ-tát rằng: "Nếu có Thiện nam tử, Thiện nữ nhân thọ trì kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, người đó sẽ đặng tám trăm công đức nơi mắt, một nghìn hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một nghìn hai trăm công đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một nghìn hai trăm công đức nơi ý, dùng những công đức này trang nghiêm sáu căn đều được thanh tịnh. Thiện nam tử và Thiện nữ nhân đó, nhục nhãn thanh tịnh của cha mẹ sinh ra, thấy khắp cõi tam thiên đại thiên, trong ngoài có những núi, rừng, sông, biển, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến cõi trời Hữu Đảnh, cũng thấy tất cả chúng sanh trong đó và nghiệp nhân duyên quả báo chỗ sinh ra thảy đều thấy biết”. Khi đó, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: GIẢNG: Đây nói người trì kinh Pháp Hoa này, đọc, tụng, giải nói, biên chép sẽ được công đức nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đó. Nhưng nơi mắt thì được tám trăm công đức, còn tai được một nghìn hai trăm. Tại sao mắt lại ít hơn? Bởi vì nơi mắt thì nó sáng phía trước, nó tối phía sau, hai bên cũng vậy, không được trọn, nên mắt chỉ được tám trăm. Còn tai thì nó nghe khắp hết, cách vách cũng nghe, trước sau bốn phía cũng nghe được hết, nên nó được một nghìn hai trăm. Mũi ngửi mùi thì phải thông hơi thở ra vào; hơi thở ra, hơi thở vào thông thì mới ngửi mùi được, tuy nhiên hơi thở ra vào thông nhưng giữa hơi thở ra vào giao nhau đó nó khuyết, nên còn thiếu một phần, được tám trăm công đức thôi. Lưỡi thì chia hai phần: một phần nếm vị, một phần nói chuyện, tuyên bày nói pháp, thì đây nhấn mạnh chỗ tuyên bày nói pháp nhiều hơn. Tức là nó nói được hết, chuyện đâu đâu cũng nói được, nên lưỡi được một ngàn hai trăm. Thân thì khi hợp mới cảm biết, lìa ra thì nó không biết, nên cũng thiếu một phần. Ý thì việc trên trời dưới đất, đâu đâu cũng nghĩ được hết. Cho nên ý được một ngàn hai trăm. Đó là muốn nói cái lực dụng của sáu căn này khi mê thì không được gọi là thanh tịnh, bởi nó còn nhiễm ô, nó bị ngăn ngại. Nay trì Pháp Hoa, sống trong ánh sáng của Tri kiến Phật, thì nó không lẫn lộn với sáu trần nữa, nên nó thông suốt, không ngăn ngại. Do đó mà biến thành thanh tịnh, tức nó suốt qua sáu trần, không bị trần nào trước mắt che ngăn. Kinh nói: “Thiện nam tử, Thiện nữ nhân đó, nhục nhãn của cha mẹ sanh ra thấy khắp cõi tam thiên đại thiên, trong ngoài có những núi rừng, sông, biển, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến cõi trời Hữu Đảnh, cùng thấy tất cả chúng sanh, trong đó có nghiệp nhân duyên, quả báo, chỗ sanh ra thảy đều thấy biết”. Quý vị nghe như vậy có dễ tin không? Ngay con mắt này đây thấy suốt hết như vậy đó. Sự thật khi mình mở được Tri kiến Phật rồi, ở trong đó mà thấy thì có gì ngăn ngại. Thấy trong Tri kiến Phật, thì nó thấy qua tất cả những trần cảnh trước mắt không bị che. Nếu có chỗ nào ngăn ngại, không thấy được, đó là thiếu Tri kiến Phật, tức là bị che lấp. Do đó trong kinh Lăng Nghiêm có một đoạn Phật dạy: "Một người khi trở về nguồn chân thì mười phương hư không thảy đều tiêu mất", huống là những cảnh vật trước mắt, đâu có gì ngăn ngại, nhưng nói như vậy có người sẽ nghi. Như Thiền sư Huệ Minh, gạn hỏi Thượng tọa Minh Nhan: - Một người trở về nguồn chân thì mười phương hư không đều tiêu mất, vậy các bậc tiên thánh, cổ đức từ xưa đến giờ có tỏ ngộ hay không? Thượng tọa Nhan nói: - Đã là bậc Thánh, Tiên Đức sao không tỏ ngộ? Sư bảo: - Ngọn núi Thiên Thai ở trước mặt đó, sao nói tiêu mất? Ở đây mình phải hiểu, nói tiêu mất là tiêu mất với người trở về nguồn chân, tức là người sống được trở với nguồn chân hay mở Tri kiến Phật, thì sẽ thấy suốt qua tất cả các pháp ở trước mắt này, luôn luôn là sáng ngời không có mê, cho nên nó tiêu mất là như vậy, chớ không phải tiêu mất là tiêu hoại hết, không còn gì. Điều này mình có thể chứng nghiệm ngay cuộc sống. Như vậy, đó là được nhãn căn thanh tịnh, tức con mắt trong sạch. Còn bây giờ mình thấy cái gì trước mắt thì bị cái đó nó che, bởi che nên mình không sáng được Tri kiến Phật, không thấy được thanh tịnh. Đây, Phật trùng tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: CHÁNH VĂN: Nếu người ở trong chúng GIẢNG: Ngay đây, cái nhục nhãn này thấy suốt qua tất cả. Đó nói về nhãn căn. CHÁNH VĂN: Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người Thiện nam tử, Thiện nữ nhân, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc biên chép, hoặc giải nói, đặng một nghìn hai trăm nhĩ công đức, dùng tai thanh tịnh đó, nghe khắp cõi tam thiên, dưới đến địa ngục vô gián, trên đến trời Hữu Đảnh, trong ngoài các thứ lời lẽ giọng tiếng. Tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng trâu, tiếng khóc la, tiếng buồn than, tiếng ốc, tiếng trống, tiếng chuông, tiếng linh, tiếng cười, tiếng nói, tiếng trai, tiếng gái, tiếng đồng tử, tiếng đồng nữ, tiếng pháp, tiếng phi pháp, tiếng khổ, tiếng vui, tiếng phàm phu, tiếng Thánh nhân, tiếng đáng ưa, tiếng chẳng đáng ưa, tiếng Trời, tiếng Rồng, tiếng Dạ-xoa, tiếng Càn-thát-bà, tiếng A-tu-la, tiếng Ca-lầu-la, tiếng Khẩn-na-la, tiếng Ma-hầu-la-già, tiếng lửa, tiếng gió, tiếng địa ngục, tiếng súc sanh, tiếng ngạ quỷ, tiếng Tỳ-kheo, tiếng Tỳ-kheo-ni, tiếng Thanh Văn, tiếng Bích-chi Phật, tiếng Bồ-tát, tiếng Phật. Nói tóm lại đó, trong cõi tam thiên đại thiên, tất cả trong ngoài có các thứ tiếng, dầu chưa đặng thiên nhĩ, dùng tai tầm thường thanh tịnh của cha mẹ sanh, thảy đều nghe biết, phân biệt các thứ tiếng tăm như thế, mà chẳng hư nhĩ căn. GIẢNG: Đây người thọ trì truyền bá kinh Pháp Hoa này thì sẽ được nhĩ căn thanh tịnh, nghe suốt qua tất cả mọi thứ tiếng, nhưng vẫn không hư lỗ tai này, cũng ngay lỗ tai này mà nghe suốt hết. Nghĩa là ánh sáng Tri kiến Phật hiện qua lỗ tai, nó luôn sáng ngời, nên nghe suốt hết, không có tiếng nào bị che. Còn có tiếng nào bị che tức chỗ đó là chỗ mê, là thiếu ánh sáng Tri kiến Phật. Như vậy lúc nào, ở chỗ nào qua lỗ tai này đều luôn sáng ngời. Trì Pháp Hoa luôn luôn tuyên dương chỉ bày cho người là chỉ bày chỗ đó. Nếu người có duyên, ngay bất cứ tiếng gì hiện tại đây, đều có thể ngộ Pháp Hoa, tiếng gì cũng có Pháp Hoa trong đó. Bởi vậy các vị Thiền sư, có vị nghe chim kêu cũng tỏ ngộ, nghe đánh bảng ăn cơm cũng tỏ ngộ, hoặc tiếng ễnh ương kêu, tiếng hai người chửi mắng nhau cũng ngộ được. Các Ngài nghe như vậy đó, thì nhĩ căn thanh tịnh chớ gì. Ngài Động Sơn Lương Giới hỏi Hòa thượng Vân Nham: - Vô tình thuyết pháp thì người nào được nghe? Ngài Vân Nham đáp: - Vô tình thuyết pháp thì vô tình được nghe. Động Sơn hỏi: - Hòa thượng có nghe chăng? Vân Nham nói: - Ta nếu nghe thì ngươi đâu nghe ta thuyết pháp (tức ta thành vô tình rồi). Động Sơn hỏi: - Con vì sao chẳng nghe? Ngài Vân Nham dựng cây phất tử lên bảo: - Lại nghe chăng? Động Sơn thưa: - Chẳng nghe. Ngài Vân Nham bảo: - Ta thuyết pháp ngươi còn chẳng nghe, huống là vô tình thuyết pháp. Động Sơn hỏi: - Vô tình thuyết pháp gồm những kinh điển gì? Ngài Vân Nham mới nói: - Ông đâu chẳng thấy trong kinh Di-đà có nói: “Nước, chim, cây rừng thảy đều niệm Phật, niệm Pháp”. Ngay đó Động Sơn liền tỉnh ngộ. Vậy tức là sao? Rõ ràng ngay lỗ tai này Động Sơn nghe suốt đến cõi Cực Lạc, chim rừng, cây, nước đều niệm Phật niệm Pháp. Bởi vì Ngài thanh tịnh nên nghe cái gì cũng đều thanh tịnh, không có mê mờ, thành ra cái gì cũng là nói pháp. Còn mình nghe mà ô nhiễm nên không thành nói pháp. CHÁNH VĂN: Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Tai cha mẹ sanh ra GIẢNG: Chỗ này là chỗ phải chú ý, nghe hết, nghe khắp như vậy đó mà không ham, tức là không tham đắm, không dính tiếng nào, không dừng ở một tiếng nào, mới nghe suốt qua hết, còn mình nghe tiếng ca hay hoặc tiếng sáo thổi vừa tai, mình dính nơi đó, thì không nghe suốt được tiếng khác. CHÁNH VĂN: Tiếng vô số giống người Tức nghe suốt cả trên Trời. Tất cả chúng Tỳ-kheo GIẢNG: Ngay lỗ tai mình đây có thể cảm được việc đó, là suốt hết trên trời dưới đất thông cả mười phương, không có chỗ nào che ngại, vậy thì "ngay đó là cái gì" mà mình chưa tỏ ngộ? Người khéo thì ngay đó liền tỏ sáng được, ánh sáng của Pháp Hoa luôn luôn hiển bày khắp nơi, ngay nơi mỗi thứ tiếng, chớ không phải tìm đâu xa. Đó là nói về nhĩ căn thanh tịnh, ánh sáng Tri kiến Phật luôn luôn hiển bày nơi lỗ tai. CHÁNH VĂN: Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu có Thiện nam tử, Thiện nữ nhân, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, trọn nên tám trăm tỷ công đức, dùng tỷ căn thanh tịnh đó nghe khắp cõi tam thiên đại thiên, trên dưới trong ngoài các thứ mùi bông tu-mạn-na mùi bông xà-đề, mùi bông mạt-lợi, mùi bông chiêm-bặc, mùi bông ba-la-la, mùi bông sen đỏ, mùi bông sen xanh, mùi bông sen trắng, mùi cây có bông, mùi cây có trái, mùi cây chiên-đàn, mùi trầm thủy, mùi đa-ma-la-bạt, mùi đa-da-la, đến trăm nghìn thứ hòa lộn, hoặc là bột, hoặc là viên, hoặc là hương xoa, người trì kinh này ở trong đây đều có thể phân biệt. Và lại rõ biết mùi chúng sanh: mùi voi, mùi ngựa, mùi dê, trâu v.v… mùi trai, mùi gái, mùi đồng tử, mùi đồng nữ và mùi cỏ cây lùm rừng, hoặc gần, hoặc xa, bao nhiêu thứ mùi có ra, thảy đều đặng nghe rõ biết chẳng lầm. Người trì kinh này dầu ở nơi đây cũng nghe mùi trên các cõi trời: mùi cây ba-lợi-chất-đa-la, cây câu-ba-đà-la, cùng mùi bông mạn-đà-la, bông đại mạn-đà-la, bông mạn-thù-sa, bông đại mạn-thù-sa, mùi gỗ chiên-đàn, trầm thủy các thứ hương bột, mùi các hoa đẹp. Các thứ hương trời như thế hòa hiệp thoảng ra mùi thơm đều nghe biết. Lại nghe mùi nơi thân của các vị trời: mùi của Thích Đề Hoàn Nhân lúc ở trên thắng điện, năm món dục vui chơi, hoặc mùi lúc ở trên diệu pháp đường vì các vị trời Đao-lợi nói pháp, hoặc mùi lúc dạo chơi trong vườn, cùng mùi nơi thân của các vị trời nam nữ khác, thảy đều xa nghe biết. Xoay vần như thế nhẫn đến trời Phạm Thế, trên đến mùi nơi thân các vị trời Hữu Đảnh cũng đều nghe hết. Và nghe mùi hương của các vị trời đất và mùi Thanh Văn, mùi Bích-chi Phật, mùi Bồ-tát. Mùi nơi thân các Đức Phật, cũng đều xa nghe biết chỗ ở của đó. Dầu nghe biết hương ấy, nhưng nơi tỷ căn không hư không sai, nếu muốn phân biệt vì người khác nói, ghi nhớ không lầm. GIẢNG: Vậy ngay lỗ mũi này ngửi qua hết mọi thứ mùi, không có mùi nào ngăn ngại hết, tức không bị mùi nào che mờ ánh sáng Tri kiến Phật. Nghĩa là ánh sáng Tri kiến Phật nó luôn hiển hiện nơi lỗ mũi. Như vậy có một chỗ nào đó không ngửi biết, tức chỗ đó là chỗ bị gián đoạn, chỗ đó là chỗ bị mê mờ. Thế là ngay nơi các mùi đó cũng nói Pháp Hoa rồi. Do đó, trong nhà Thiền có Thiền sư Hối Đường khai thị cho ông Hoàng Sơn Cốc ngửi mùi hoa quế, thì ông được tỏ ngộ. Đó là muốn nói ngay nơi lỗ mũi này nó hiện bày ánh sáng chân thật, chớ không phải phá hoại cái lỗ mũi này, hay là phá hoại tướng thế gian, hiển bày cái thần thông thì mới có được. Cho nên, ngay lỗ mũi mình đây, nếu mình mở ánh sáng Tri kiến Phật, thì ngửi được suốt qua các mùi mà không bị các mùi làm mê mờ. Đây Phật nhắc lại. CHÁNH VĂN: Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Người đó mũi thanh tịnh Tức là nghe mùi biết đó ở chỗ nào không lầm lẫn. Đại Thế Chuyển Luân Vương Tức nghe mùi đó biết các vị Trời đi chơi hoặc ngồi. Các cây bông trái hột Tức nghe mùi đều biết có chúng sanh ở trong đó. Núi Thiết Vi, biển lớn Tức là những vị trai, gái, A-tu-la khi dạo chơi, hoặc lúc cãi, thì ở đây nơi lỗ mũi thanh tịnh này, mình đều nghe biết suốt qua. Đồng trống chỗ hiểm trở Tức là ở đây nghe suốt qua hết, không dừng ở chỗ nào, không bị chỗ nào ngăn ngại, tức là tánh ngửi được thanh tịnh. Các thứ hoa trên trời Diệu Pháp Đường là chỗ hội họp của Đế Thích với chư Thiên nói pháp. Các Trời hoặc nghe pháp Tức là biết hết mùi cả những vị Thiên nữ khi dạo chơi. Ở đây quan trọng là nghe mà biết hết không lầm. Đó là không dừng, không trụ nơi mùi nào hết, còn nghe mùi này, mà nghĩ mùi này thơm quá, thì ngay đó là mất thanh tịnh liền, là bị ngăn ngại không nghe được các mùi khác. Lần lựa lên như thế Ở trong ánh sáng Pháp Hoa này, ngửi suốt qua tất cả, không có thứ gì che mờ được hết. Các hàng Tỳ-kheo chúng GIẢNG: Đây không phải dùng thần thông, mà ngay nơi mũi cha mẹ sanh này, mình được tướng thanh tịnh này, thì khắp nơi nơi không có mùi gì nó che khuất được ánh sáng Pháp Hoa, nếu người khéo, ngay lỗ mũi đó mình sáng được ánh sáng Pháp Hoa liền, khỏi tìm Pháp Hoa ở đâu khác, hoặc trong quyển sách này quyển sách kia. CHÁNH VĂN: Lại nữa Thường Tinh Tấn! Nếu có Thiện nam tử cùng Thiện nữ nhân thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, đặng một nghìn hai trăm thiệt công đức. Những món hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc ngon hoặc dở và các vật đắng chát, ở trên lưỡi của người đó, đều biến thành vị ngon như vị cam lồ trên trời, không món nào là chẳng ngon. Nếu dùng thiệt căn đó ở trong đại chúng nói pháp có chỗ diễn ra tiếng sâu mầu có thể vào tâm chúng, đều làm cho vui mừng sướng thích. Đây nói phần nói pháp diễn ra, không dừng trên chữ nghĩa hay văn tự mà đi thẳng vào lòng người, đi thẳng vào tâm của chúng. Lại các vị Thiên tử, Thiên nữ, các trời Thích, Phạm, nghe tiếng tăm thâm diệu này diễn nói ngôn luận thứ đệ, thảy đều đến nghe. Và các hàng Long, Long nữ, Dạ-xoa, Dạ-xoa nữ, Càn-thát-bà, Càn-thát-bà nữ, A-tu-la, A-tu-la nữ, Ca-lâu-la, Ca-lâu-la nữ, Khẩn-na-la, Khẩn-na-la nữ, Ma-hầu-la-già, Ma-hầu-la-già nữ, vì để nghe pháp mà đều đến gần gũi cung kính cúng dường. Và Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Quốc vương, Vương tử, quần thần, quyến thuộc, Tiểu Chuyển Luân Vương, Đại Chuyển Luân Vương, bảy báu, nghìn người con, cùng quyến thuộc trong ngoài, ngồi cung điện đồng đến nghe pháp. Vì vị Bồ-tát này khéo nói pháp, nên hàng Bà-la-môn, cư sĩ, nhân dân trong nước trọn đời theo hầu cúng dường. Lại các Thanh Văn, Bích-chi Phật, Bồ-tát, các Đức Phật thường ưa thấy người đó, người đó ở chỗ nào, các Đức Phật đều xoay về phía đó nói pháp, người đó đều hay thọ trì tất cả Phật pháp, lại có thể nói ra tiếng pháp sâu mầu. GIẢNG: Về lưỡi thanh tịnh thì nếm suốt qua các vị, mà không bị các mùi vị làm lu mờ ánh sáng Tri kiến Phật của mình, đó là một điểm. Nói pháp thì nói, vượt qua ngôn ngữ, chữ nghĩa, thấu đến tâm người. Đó thuộc về tánh lưỡi thanh tịnh, nói ra mà không dừng trên tiếng, không dừng trên chữ, mà đi thẳng vào trong lòng người. Vậy là ngay nơi mùi vị nó vẫn lộ bày ánh sáng của Pháp Hoa, rồi ngay nơi ngôn ngữ cũng hiện bày Tri kiến Phật, không để cho lời nói làm gián đoạn, làm lu mờ, cho nên nói mãi mà vẫn không mê, đó là điểm đặc biệt, còn mình nói lời nào, kẹt lời đó nên mê. Bởi vậy, có vị tăng hỏi Hoà thượng Triệu Châu: - Thế nào là Phật? Sư đáp: - Ở trong điện. Người thường hiểu trong điện là trong chánh điện, mà Phật trong chánh điện là Phật gì? Phật bằng tượng, bằng xi măng, hoặc bằng đồng, thì đó là Phật sao? Đây nói chỗ chánh điện đó là thấu suốt nơi tâm người, thân mình là điện này, ngồi trong chánh điện là điện đó. Ngài nói trong điện mà không kẹt trong điện Phật, trong chánh điện, nên nói ra lời đó nó suốt qua ngôn ngữ. Cho nên, các Ngài được thiệt căn thanh tịnh thì nói hoài không mê, nói mà không động niệm, không dính trong câu nói, nên nói mà không lỗi. Ở đây chú ý, người đó ở đâu chư Phật xoay về đó mà nói pháp, không thiếu không vắng. CHÁNH VĂN: Khi đó, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên nói kệ rằng: Người đó lưỡi thanh tịnh GIẢNG: Đây thuật lại công đức thiệt căn thanh tịnh, nói pháp cảm đến cả Trời, Rồng, Ma Vương đều cúng dường nghe pháp và Phật có lúc hiện thân. Bây giờ đến thân căn thanh tịnh. CHÁNH VĂN: Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu có Thiện nam tử, Thiện nữ nhân thọ trì, hoặc đọc hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép đặng tám trăm thân công đức, đặng thanh tịnh như lưu ly trong sạch chúng sanh ưa thấy. Vì thân đó thanh sạch nên chúng sanh trong cõi tam thiên đại thiên, lúc sanh, lúc chết, trên dưới, tốt xấu, sanh chỗ lành, chỗ dữ v.v… đều hiện rõ trong đó. Và núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, núi Di-lâu, núi Đại Di-lâu v.v… các núi cùng chúng sanh ở trong đều hiện rõ trong thân, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến trời Hữu Đảnh, cảnh vật cùng chúng sanh đều hiện rõ trong thân. Hoặc là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát cùng chư Phật nói pháp đều hiện sắc tượng ở trong thân. GIẢNG: Ngay nơi thân này trong sạch, tất cả đều hiện ở trong thân, đây muốn nói khi trì Pháp Hoa, mở ánh sáng Tri kiến Phật thì được thân căn thanh tịnh, trong thân căn này nó hiện rõ tất cả mọi cảnh, tức là tính giác ở nơi thân này nó suốt qua mọi cảm xúc, không bị những cảm xúc che mờ, ngăn lấp, cảm xúc gì cũng sáng ngời ánh sáng Tri kiến Phật. Do đó, ở đây chạm biết tất cả mà không mê, nó suốt tất cả mọi thế gian, cho nên nói tất cả đều hiện trong đó. Như vậy, ngay nơi thân này nó sáng ngời, không lầm lẫn một xúc nào khác, chỗ này không phải do thần thông được, mà do cảm nhận sức sống của Pháp Hoa nên hiện bày. Trong nhà Thiền có Thiền sư Thần Tán, đang kỳ lưng ông thầy Bổn Sư, thì Ngài vỗ lưng ông thầy nói: - Điện Phật này đẹp mà Phật không Thánh! Nghe vậy, ông Bổn Sư đó xoay đầu ngó lại. Ngài Thần Tán liền nói: - Phật tuy không Thánh mà thường hay phóng quang. Ngay khi xoay đầu ngó lại là Phật phóng quang, không có ánh sáng của Phật thì cái gì biết xoay đầu ngó lại? Biết xoay đầu ngó lại là Phật phóng quang rồi mà không hay. Như vậy, ông Bổn Sư nghe mà không ngộ, không thấy được Phật phóng quang. Còn Ngài Thần Tán thì thấy rõ nên muốn nhắc ông thầy. Người nói Pháp Hoa, trì Pháp Hoa, truyền bá Pháp Hoa là ngay đó mà truyền. CHÁNH VĂN: Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Nếu người trì Pháp Hoa Đây chỉ người trì Pháp Hoa đó mới thấy được thôi, còn người ngoài dùng tâm phân biệt nên không thấy được. Trong cõi nước tam thiên Mọi sắc tượng đó đều hiện trong thân người này. Tức là hiện trong ánh sáng của Pháp Hoa đó. Cung điện của các Trời Tức là ngay nơi thân mình hiện tại đây, mở sáng được Tri kiến Phật đó, sống được trong Tri kiến Phật đó thì sẽ thanh tịnh thấu suốt qua mọi cảnh như vậy. Đó là nói về thân căn thanh tịnh. Bấy giờ tới ý căn thanh tịnh. CHÁNH VĂN: Lại nữa Thường Tinh Tấn! Sau khi Đức Như Lai diệt độ, nếu có người Thiện nam tử cùng Thiện nữ nhân thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thời đặng một nghìn hai trăm ý công đức. Dùng ý căn thanh tịnh đó nhẫn đến nghe một kệ một câu, suốt thấu vô lượng, vô biên nghĩa, hiểu nghĩa đó rồi, có thể diễn nói một câu, một kệ đến một tháng, bốn tháng nhẫn đến một năm. Các pháp nói ra tùy nghĩa thú kia đều cùng thiệt tướng chẳng trái nhau. Nếu nói kinh sách trong đời, lời lẽ trị thế, nghề nghiệp nuôi sống v.v… đều thuận chánh pháp. Sáu đường chúng sanh trong cõi tam thiên đại thiên, lòng nghĩ tưởng, lòng động tác, lòng lý luận, thảy đều biết đó. Dầu chưa đặng trí tuệ vô lậu mà ý căn thanh tịnh như thế, người đó có suy nghĩ, tính lường, nói năng những chi thời đều là Phật pháp cả, không có gì chẳng chân thiệt, cũng là lời trong kinh của các Phật thuở trước nói. GIẢNG: Đây là ý căn thanh tịnh, ý này suốt qua chữ nghĩa, thấy tột qua nghĩa lý vô lượng, chớ không bị nghĩa lý ngăn che, làm mờ. Do đó mà nghĩ biết rõ ràng các nghĩa lý, không có lẫn lộn. Ngay nơi ý đây thanh tịnh là biết rõ những ý của chúng sanh khác nữa mà không phải do thần thông. Tức không phải do tha tâm thông mà biết. Quý vị học kinh Kim Cang thì thấy rõ. Phật nói chúng sanh trong vô biên cõi nước ở mười phương có bao nhiêu thứ tâm thì Ngài đều biết hết. Vì sao? Như Lai nói tâm đó chẳng phải tâm, tâm quá khứ chẳng thể được, tâm hiện tại chẳng thể được, tâm vị lai chẳng thể được, đó là tâm hư vọng, tâm sanh diệt. Bởi có động niệm ra đều là tâm sanh diệt, cho nên biết rõ hết, không lầm lẫn, biết đó không phải do thần thông, đây là do ý căn thanh tịnh thôi. Có lần Ngài Kỉnh Huyền hỏi Thiền sư Duyên Quán: - Thế nào là đạo tràng vô tướng? Thiền sư Duyên Quán chỉ tượng Quán Thế Âm bảo: - Cái này là do Ngô xử Sĩ vẽ. Ngài Kỉnh Huyền vừa suy nghĩ, ngay lúc đó Ngài Duyên Quán liền nhanh miệng bảo: - Cái này có tướng, cái kia không tướng. Vậy là ngay đó Ngài thấy thấu qua ý nghĩ của Kỉnh Huyền "cái nào là cái này". Ông vừa suy nghĩ là cái này có tướng, còn cái kia không tướng, cái kia đó là đạo tràng vô tướng. Vậy ngay lúc Kỉnh Huyền vừa suy nghĩ là Ngài thấy rồi, đó là ý căn thanh tịnh, là thấy thấu qua được ý căn. Chưa có thần thông nhưng cũng biết được, chớ không phải dùng tha tâm thông mới biết. Nghĩa là ngay lúc Ngài Kỉnh Huyền trầm ngâm suy nghĩ đó, thì Ngài Duyên Quán ý căn của Ngài thanh tịnh, cho nên Ngài không bị ý nghĩ che mờ, Ngài mới thấu rõ được chỗ đó. Cho nên, đây nói ý căn thanh tịnh biết khắp tất cả mình có thể cảm nhận ngay chính mình, chớ không phải đợi có thần thông mới biết được. Công đức Pháp Sư là như vậy. Mình mở sáng được Tri kiến Phật, sống được Tri kiến Phật, thì ngay nơi sáu căn của mình đây, thấy nghe hiểu biết soi suốt qua tất cả sáu trần, không có trần nào lầm lẫn được với ánh sáng Tri kiến Phật đó. CHÁNH VĂN: Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Ý người đó thanh tịnh Do sức sống Pháp Hoa này nên đều biết được tâm nghĩ tưởng của các loài chúng sanh trong sáu đường kia. Vô số Phật mười phương GIẢNG: Chỗ này là chỗ phải chú ý, biết hết tất cả đó là nhờ sao? Suốt qua danh tự ngữ ngôn, bởi không kẹt nơi danh tự, không kẹt nơi ngữ ngôn, cho nên ở trong ý thanh tịnh đó, mà biết suốt qua hết nghĩa lý kia. Nếu còn kẹt dừng nơi ngôn ngữ, tức là theo ngôn ngữ, danh tự mà phân biệt thì nó không thanh tịnh, liền bị ngăn ngại. CHÁNH VĂN: Như chỗ biết diễn nói GIẢNG: Ở đây nói đến người mở sáng Tri kiến Phật, thọ trì sống được trong Tri kiến Phật đó, thì sẽ được công đức là luôn luôn ánh sáng Tri kiến Phật biểu lộ nơi sáu căn, gọi là sáu căn thanh tịnh, thấy, nghe, hiểu biết hết trên trời dưới đất, cả nơi địa ngục, không có chỗ nào che mờ, ngăn ngại. Cho nên, thọ trì Pháp Hoa, truyền Pháp Hoa là thọ trì truyền ngay sức sống thanh tịnh này. Khi sáu căn thấy, nghe, hiểu biết thanh tịnh, tỏ suốt không lầm lẫn, thì đó là công đức Pháp Hoa hiện tiền. Như vậy, mình cảm nhận công đức Pháp Hoa hiện tiền ngay thân mình đây, để chứng minh cho người đó tin chắc lời Phật dạy: “Ai ai cũng đều có Tri kiến Phật, ai ai cũng đều có kinh Pháp Hoa”, không phải chuyện này là chuyện trong sách vở, trong chữ nghĩa, không thể chứng nghiệm được. Vậy đến đây là ánh sáng Pháp Hoa luôn hiện bày nơi sáu căn thấy, nghe, hiểu biết, đó là truyền Pháp Hoa cho mọi người rồi. Nếu chưa khéo nhận, đợi nghe tiếp phẩm sau: Thường Bất Khinh Bồ-tát. Mục Lục
|
Kinh Pháp Hoa Giảng Lục - Tập III
|
Phẩm 19 Pháp Sư Công Đức