| Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải Phẩm Tín Giải: Đoạn 10 - 16 CHÁNH VĂN: Bấy giờ ngài Ma-ha Ca-diếp muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 10.- Chúng con ngày hôm nay GIẢNG: Ngài Ma-ha Ca-diếp lặp lại ý trên là nghe Phật nói hàng Thanh văn sẽ được thành Phật, các ngài vui mừng bất ngờ được của báu chưa từng có. Ví như gã cùng tử khờ dại bỏ cha đi lang thang trong thời gian năm mươi năm. Ông Trưởng giả là người giàu có lớn, có rất nhiều ngọc ngà châu báu, xe, ngựa, ông là người có nhiều uy tín được vua quan cho đến thứ dân đều tôn trọng cung kính. Ngày càng lớn tuổi, ông nhớ trông con về để ủy thác tài sản sự nghiệp. CHÁNH VĂN: 11.- Bây giờ gã cùng tử GIẢNG: Gã cùng tử nghèo đói thân hình tiều tụy lang thang khắp nơi để mưu cầu sự ăn mặc rất gian nan khốn khổ. Một hôm tình cờ trở về cố hương, gặp lại cha già đang ngồi trên tòa báu, có quyến thuộc đông đảo, kẻ hầu hạ, người xuất nhập của cải, kẻ biên chép giấy tờ... có vẻ tôn nghiêm giàu mạnh. Gã cùng tử tự thấy mình lạc loài, tự trách mình sao đến chỗ này, e ngại sẽ bị bắt làm không công, hoặc bị giết, nên hối hận rồi bỏ chạy đi nơi khác. Tâm trạng gã cùng tử giống như chúng ta, nhiều đời đi lang thang trong sáu nẻo luân hồi quá ư khốn khổ, chợt thức tỉnh cầu đạo giải thoát. Nhưng khi tìm đến với đạo, học hiểu chút ít thấy việc thành đạo khó quá sanh nản lòng thối lui không muốn tiến nữa. CHÁNH VĂN: 12.- Lúc bấy giờ Trưởng giả GIẢNG: Ông Trưởng giả thấy con bỏ chạy, nên sai người đuổi theo bắt lại. Nhưng gã cùng tử thấy người đuổi theo, sợ bắt hành hạ hay giết nên hoảng hốt ngất xỉu. Ông Trưởng giả thấy con mình quá khờ dại nên bảo sứ giả thả ra, mặc tình nó đi đâu thì đi. Tuy nhiên, ông ngầm sai hai người mắt chột, thân lùn xấu, nghèo hèn khuyên gã cùng tử đến hốt phân nhà ông Trưởng giả. Gã cùng tử nhận lời làm thuê cho ông Trưởng giả. Bấy giờ ông Trưởng giả thương xót con khờ dại nên hóa trang, mặc đồ dơ xấu đến gần để an ủi con, cho nó những vật dụng cần dùng, ông khuyên bảo nên siêng làm việc, và nói ông coi gã như là con. Giống như chúng ta khi trở về với đạo, đáng lý phải thừa nhận sự nghiệp lớn lao của Phật là tu để thành Phật và độ sanh. Nhưng vì tâm lượng hẹp hòi, chỉ mong cầu chút ít phước báo ở cõi người cõi trời. CHÁNH VĂN: 13.- Ông Trưởng giả có trí GIẢNG: Ông Trưởng giả là người có trí, biết ý chí con hạ liệt, nên phương tiện hướng dẫn cùng tử coi sóc việc nhà cho quen, sau đó chỉ kho tàng của báu, giao cho cùng tử quản lý tất cả sự nghiệp. Rồi ông họp thân tộc, quốc vương, đại thần... công bố cùng tử là con đẻ của ông, sự nghiệp của ông là sự nghiệp của con ông. Gã cùng tử được điều chưa từng có nên rất vui mừng. CHÁNH VĂN: 14.- Đức Phật cũng như thế GIẢNG: Ngài Ma-ha Ca-diếp hợp pháp ví dụ. Ngài nói rằng ông Trưởng giả dụ cho đức Phật, Phật biết hàng Thanh văn ưa pháp Tiểu thừa nên chưa từng nói “các ngươi sẽ thành Phật”, chỉ nói tu hạnh Thanh văn sẽ chứng Niết-bàn, còn hàng Bồ-tát thì Phật dạy tu pháp tối thượng sẽ thành Phật. Do nghe Phật dạy, nên các ngài cũng nói người nào tu pháp tối thượng sẽ thành Phật. Các ngài nói người nào nghe Phật dạy cố gắng tu và được Phật thọ ký, còn các ngài thì vô phần. Để thấy rằng người học đạo hài lòng với pháp nhỏ mà mình đã được thì khó tiến bộ. Phật vì lòng từ bi, thấy đệ tử không có chí nguyện lớn, nên phương tiện thúc đẩy cho tiến lên, cuối cùng Ngài thọ ký cho thành Phật. CHÁNH VĂN: 15.- Chúng con diệt bề trong GIẢNG: Ngài Ma-ha Ca-diếp thuật lại việc tu hành của hàng Thanh văn là diệt bề trong cho là đã đủ, lại không biết việc khác. Nghĩa là các ngài một bề dẹp những kiết sử trói buộc ở nội tâm, kiết sử hết thì không còn luân hồi, chứng Niết-bàn, các ngài thấy đó là đủ, không tự biết mình có sẵn Tri kiến Phật, không thực hành pháp tịnh cõi nước Phật, giáo hóa chúng sanh. Sỡ dĩ hàng Thanh văn không ưa giáo hóa chúng sanh, làm thanh tịnh cõi nước Phật là vì các ngài quán chiếu thấy tất cả pháp đều không lặng, không sanh không diệt, không lớn không nhỏ, vô lậu vô vi, chỉ thích an tịnh trong cái tịch tịnh đó. Còn việc độ sanh, tịnh cõi nước Phật, là việc bên ngoài nên không bao giờ nghĩ và thích. Vì vậy, Phật mới vì các ngài khuyến khích muốn cho các ngài được pháp Vô thượng cũng như gã cùng tử được của báu. CHÁNH VĂN: 16.- Thế Tôn! Chúng con nay GIẢNG: Ngài Ma-ha Ca-diếp nói hàng Thanh văn tu pháp Tứ đế chứng quả A-la-hán. A-la-hán là bậc sạch hết lậu hoặc, xứng đáng cho trời người cúng dường nên gọi là Ứng Cúng. Tuy xưa gọi A-la-hán là bậc Ứng Cúng, nhưng nay xét kỹ lại thì quả Thanh văn hãy còn hạn hẹp chưa xứng cho trời người cúng dường. Bấy giờ các ngài Thanh văn, nhận ra Tri kiến Phật mới thật xứng đáng cho trời người cúng dường. Đó là ngài Ma-ha Ca-diếp kể lại công ơn giáo hóa vô cùng lớn lao của Phật. Nhờ công giáo hóa của Phật nên các ngài mới đến được chỗ cứu kính chân thật. Công ơn giáo hóa sâu dày của Phật cũng như của Thầy Tổ, đối với người học đạo lôi thôi thì họ không thấy không biết, vì họ không nhận được sự lợi ích, vẫn còn mê mờ khổ đau. Còn người học Phật chân chánh, càng tu càng thấy công ơn của Phật đối với chúng ta lớn lao vô kể, và công ơn của Thầy Tổ trực tiếp hướng dẫn chúng ta tu học cũng không phải nhỏ. Tại sao vậy? Vì ở thế gian chúng ta học về ngôn ngữ, luận lý, công nghệ, giúp cho chúng ta khôn ngoan lanh lợi, ăn nói lưu loát. Có nghề nghiệp để sanh sống thì chúng ta có danh vị quyền lợi, được giàu sang no ấm, cao lắm là một đời người bốn năm mươi năm, mà chúng ta còn mang ơn thầy dạy suốt đời. Đối với đức Phật, từ vô lượng kiếp chúng ta vô minh tạo nghiệp, đi trong luân hồi sanh tử chịu khổ triền miên. Nay được Phật chỉ dạy cho phương pháp tu hành, nhận ra Tri kiến Phật thoát ly sanh tử, đời đời kiếp kiếp không còn khổ đau. Như vậy, công ơn của Phật đối với chúng ta chừng bao nhiêu? Không thể tính kể, khó mà đền đáp! Cho dù tâm cung kính đảnh lễ, đầu đội Phật, vai cõng Phật, hoặc dâng cúng thức ăn, y phục, thuốc thang, sàng tòa toàn bằng vật quí báu, hoặc xây tháp miếu thờ tượng Phật trải qua vô lượng kiếp, cũng không đền đáp được công ơn của Phật. Tại sao vậy? Vì tất cả việc làm đó đều là hình thức, là tướng sanh diệt nên có giới hạn. Còn Phật chỉ bày Tri kiến Phật là cái không hình tướng, không giới hạn, chúng ta nhận ra và hằng sống với nó thì dứt khổ đau vĩnh viễn. Lấy cái giới hạn mà đáp cái vô hạn làm sao đáp được? Khi đã biết ơn Phật đối với chúng ta lớn lao vô kể, thì cái ơn gần nhất là Thầy Tổ, đã có công nối tiếp nhắc nhở lời Phật dạy cho chúng ta nghe để tu, thì công ơn ấy cũng không thể kể xiết. Vì vậy ngài Ma-ha Ca-diếp tán thán công ơn của Phật không thể tính kể, không thể đền đáp. Vì thương và làm lợi ích cho đệ tử mà đức Phật đã phương tiện, tùy nghi phân biệt giảng dạy từ thấp lên cao, cuối cùng đưa các ngài từ quả vị Thanh văn đến đạo Nhất thừa rốt ráo. Mục Lục | Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải | 
Phẩm Tín Giải: Đoạn 10 - 16