| Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải Phẩm Hóa Thành Dụ: Đoạn 16 - 21 CHÁNH VĂN: 16.- Thí như đường hiểm nhiều nạn dữ, dài năm trăm do-tuần, chốn ghê sợ hoang vắng không người. Nếu chúng đông muốn đi qua con đường nầy đến chỗ trân bửu, có một vị Đạo sư thông minh sáng suốt khéo biết rõ tướng thông bít của con đường hiểm, dắt chúng nhân muốn vượt qua nạn đó. Chúng nhân được dắt đi giữa đường lười mỏi bạch Đạo sư rằng: “Chúng con mệt nhọc lại thêm sợ sệt chẳng có thể đi nữa, đường trước còn xa nay muốn lui về.” Vị Đạo sư nhiều sức phương tiện mà tự nghĩ rằng: “Bọn nầy đáng thương, làm sao cam bỏ trân bửu lớn mà muốn lui về.” Nghĩ thế rồi dùng sức phương tiện ở giữa đường hiểm quá ba trăm do-tuần, hóa làm một cái thành mà bảo chúng nhân rằng: “Các ngươi chớ sợ, đừng lui về, nay thành lớn nầy có thể dừng ở trong đó tùy ý muốn làm gì thì làm, nếu vào thành nầy sẽ rất được an ổn, nếu có thể lại thẳng đến chỗ châu báu đi cũng được.” Bấy giờ, chúng mỏi mệt rất vui mừng khen chưa từng có, chúng ta hôm nay khỏi được đường dữ rất được an ổn. Đó rồi chúng nhân thẳng vào hóa thành sanh lòng tưởng cho rằng đã được độ rất an ổn. Lúc ấy Đạo sư biết chúng nhân đó đã được nghỉ ngơi không còn mỏi mệt, liền diệt hóa thành bảo chúng nhân rằng: “Các ngươi nên đi tới, chỗ châu báu ở gần đây, thành lớn trước đó là của ta biến hóa ra để nghỉ ngơi thôi.” Các Tỳ-kheo! Đức Như Lai cũng lại như thế, nay vì các ông mà làm vị Đại đạo sư, biết các đường dữ sanh tử phiền não hiểm nạn dài xa nên bỏ nên vượt qua. Nếu như chúng sanh chỉ nghe một Phật thừa thời chẳng muốn thấy Phật, chẳng muốn gần gũi, mà nghĩ thế nầy: “Đạo Phật dài xa lâu ngày chịu cần khổ mới có thể được thành.” Phật biết tâm chúng đó khiếp nhược hạ liệt dùng sức phương tiện mà ở giữa đường vì để ngơi nghỉ nên nói hai món Niết-bàn. Nếu chúng sanh trụ nơi hai bậc, đức Như Lai bấy giờ liền bèn vì nói: “Chỗ tu của các ông chưa xong, bậc của các ông ở gần với huệ của Phật. Phải quan sát suy lường Niết-bàn đã được đó chẳng phải chân thật vậy. Chỉ là sức phương tiện của Như Lai, ở nơi một Phật thừa phân biệt nói thành ba. Như vị Đạo sư kia vì cho mọi người ngơi nghỉ mà hóa làm thành lớn, đã biết nghỉ xong mà bảo đó rằng: Chỗ châu báu ở gần, thành nầy không phải thiệt, của ta biến hóa làm ra đó thôi.” Lúc đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 17.- Đại Thông Trí Thắng Phật 18.- Thế Tôn huệ Vô thượng 19.- Bấy giờ mười sáu vị 20.- Thí như đường hiểm dữ 21.- Ta cũng lại như vậy GIẢNG: Để cho rõ nghĩa hơn, Phật nói ví dụ: Có một đoàn người đi lấy trân bảo phải đi qua con đường rất dài, hoang vắng không người, nhiều tai nạn nguy hiểm. Đoàn người này đi qua được một đoạn đường dài khá mệt nhọc mà chưa tới chỗ trân bảo, nên sanh tâm chán nản muốn thoái lui. Khi đó vị hướng đạo là người thông minh tài trí rõ biết đường đi, không muốn cho đoàn người mất lợi ích bèn dụ dẫn đoàn người rằng, ở phía trước có một cái thành rất an ổn, hãy ráng đi chút nữa rồi sẽ vào thành nghỉ ngơi cho khỏe. Nghe vị hướng đạo nói, mọi người rất vui mừng, nỗ lực tiếp tục đi đến thành, vào trong ấy được mọi nhu cầu tiện nghi rất an ổn, nên muốn nghỉ luôn ở đó. Vị hướng đạo thông minh tài trí biết đoàn người nghỉ đã hết mệt, bèn nói với họ rằng thành này do ta hóa ra để cho các người nghỉ, chớ không phải là chỗ chứa trân bảo. Hãy ra khỏi thành này và đi thêm một đoạn đường nữa sẽ đến chỗ chúng ta muốn đến. Đoàn người hết mệt nhọc nên tiếp tục đi đến đích. Đây là tâm bệnh chung của tu sĩ chúng ta, khi mới xuất gia tuổi còn trẻ phấn chấn tu hành, nhưng khi tu được năm, mười năm, chưa chứng đạo quả bèn sanh tâm lười mỏi muốn thoái lui, vì thấy quả Phật khó thành. Trên đường tu hay gặp những chướng nạn Ma vương như sắc, tài, danh, lợi cám dỗ. Người tu không khéo tỉnh giác thì mắc bẫy, sa hầm sụp hố. Nên tuổi trẻ đi tu thì nhiều nhưng giữ được phạm hạnh thanh tịnh cho tới tuổi già thì rất ít. Số còn lại, người thì tay bồng tay dắt, kẻ thì lạc ngõ tẽ này, kẻ thì lạc lối quanh nọ... Rốt cuộc rồi tu chẳng tới đâu. Nên người hướng dẫn biết tâm bệnh đó phải khuyến khích, chẳng hạn như tôi nói tu một giờ là tiến một giờ, tu một ngày là tiến một ngày, tu một tháng là tiến một tháng. Vọng tưởng khởi, biết, không theo là giác, vọng tưởng khởi một trăm lần, giác một trăm lần là tiến rồi. Tôi lấy cái nhỏ để khuyến khích họ, chớ bảo tọa thiền nhập định năm, bảy ngày thì họ không thực hiện nổi, phải tùy theo trình độ mà hướng dẫn, điều phục họ tiến cho xuôi đường thẳng lối, làm thầy khó là khó ở chỗ đó. Đây là phần hợp pháp thí dụ: Vị Đạo sư dẫn đường là dụ cho đức Phật. Đoàn người đi tìm trân bảo dụ cho các bậc Thanh văn, Duyên giác đang tu theo sự hướng dẫn của Phật. Hóa thành là Niết-bàn Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và chỗ chứa trân bảo tức quả Phật. Phật biết hàng Tỳ-kheo tu theo hạnh Thanh văn với tâm nguyện nhỏ hẹp, nên trước Ngài nói tu đoạn sạch phiền não liền chứng Niết-bàn tịch diệt. Niết-bàn đó chỉ là phương tiện, là Niết-bàn tạm thôi, vì chỉ làm lợi ích cho mình, thiếu phần công đức lợi tha cho người nên chưa được viên mãn. Vì vậy muốn được Niết-bàn cứu kính chân thật ngoài phần tự tu cho mình giác ngộ thành Phật, còn phải giáo hóa cho người cũng được giác ngộ thành Phật như mình, tới đó mới là viên mãn. Như vậy quí vị mới thấy tinh thần Tiểu thừa và Đại thừa dị biệt ở chỗ nào. Thật ra tu mà giữ phạm hạnh, hết phiền não tâm thanh tịnh, sánh với chúng ta thì quá quí. Tuy nhiên được phần mình rồi, nhìn lại người còn đang mờ tối quờ quạng khổ đau, mà làm ngơ không hóa độ thì lòng từ chưa khai mở. Nên ở trước Phật mới ví Niết-bàn Thanh văn giá đáng chừng một bữa ăn là vậy. Phật dùng thí dụ này cho hàng Thanh văn thấy rõ thêm các ngài đã có chủng tử Tri kiến Phật và Niết-bàn các ngài được chỉ là tạm, chưa phải cứu kính, không nên an trú trong đó. Phải khởi tâm đại bi, ra giáo hóa chúng sanh cho công hạnh tự giác giác tha viên mãn thành Phật. Vì thương chúng sanh, vì thương đệ tử đi chưa tới chỗ cứu kính viên mãn, nên Phật dùng mọi phương tiện để giáo hóa, thúc đẩy đi cho tới chỗ rốt ráo như Ngài, Ngài mới toại nguyện. Nên khi Phật nói kinh Pháp Hoa rồi Ngài nhập Niết-bàn rất là hợp lý, vì đã có người tin nhận chỗ Ngài muốn chỉ. Vì vậy, Phật niết-bàn rồi mà Phật pháp vẫn còn tồn tại ở thế gian không mất. Đây tôi nhắc lại một lần nữa, bản hoài của đức Phật là muốn cho mọi người đều được giác ngộ thành Phật, chớ không bằng lòng cho bất cứ một ai dừng ở bất cứ chặng đường nào. Nếu chúng ta hài lòng ở chặng đường nào đều bị Phật quở. Phẩm này có thể phân bốn đoạn: 1.- Trí tuệ Phật không bị hạn cuộc ở thời gian, vì định lực Phật rất thâm sâu nên có thể nhớ vô số kiếp về quá khứ, thấy biết một cách tường tận không sai lầm. Và vì Trí tuệ Phật là thể sáng suốt thanh tịnh, vượt ngoài ý niệm về ngày tháng năm theo thông lệ của thế gian. 2.- Trí tuệ Phật không bị giới hạn bởi không gian, vì Phật đã trải qua vô lượng kiếp tu tập trí tuệ, nên Trí tuệ Phật viên mãn không giới hạn. Và Trí tuệ Phật là thể sáng suốt không hình tướng trùm khắp, nên không giới hạn bởi không gian. 3.- Mười sáu vị vương tử từ đức Phật Đại Thông Trí Thắng mà được thành Phật, rồi phân vị mà giáo hóa ở tám phương. Điều này cho chúng ta thấy sức hiểu biết của Phật không thể nghĩ bàn, không riêng ở cõi Ta-bà mới có Phật như từ lâu chúng ta nghĩ tưởng, mà ở những thế giới khác cũng có Phật giáo hóa. Trí tuệ Phật là Thể sáng suốt viên mãn trùm khắp tất cả không đâu không có. Và không ai tu mà không từ Trí tuệ Phật khởi tu để được thành Phật. 4.- Dụ hóa thành cho thấy rằng Trí tuệ Phật rộng lớn không ngằn mé. Công hạnh Phật không thể tính kể, với ý chí tầm thường của phàm phu không thể theo nổi, nên Phật tùy căn cơ chúng sanh phương tiện nói Ngũ thừa Phật giáo hướng dẫn từ thấp lần lên cao, cuối cùng đưa chúng sanh đến mục đích cứu kính mà Phật muốn chỉ là Phật thừa. Còn kết quả được ở Ngũ thừa chỉ là quả an vui tạm bợ không nên an trụ nơi ấy. Muốn đạt được quả Phật thì phải trải qua nhiều kiếp tu lâu dài cho công hạnh Bồ-tát đầy đủ, Trí tuệ Phật viên mãn mới thành Phật. (1) Cai: một trăm triệu. Mục Lục | Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải | 
Phẩm Hóa Thành Dụ: Đoạn 16 - 21