| Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải Phẩm Tựa: Đoạn 6 - 18 CHÁNH VĂN: 6.- Khi ấy, ngài Di-lặc Bồ-tát nghĩ rằng: “Hôm nay đức Thế Tôn hiện thần biến tướng, vì nhơn duyên gì mà có điềm lành này? Nay đức Phật đương nhập chánh định, việc biến hiện hi hữu không thể nghĩ bàn này nên hỏi ai, ai đáp được?” Ngài lại nghĩ: “Ông Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi này đã từng gần gũi cúng dường vô lượng các đức Phật đời quá khứ, chắc đã thấy tướng hi hữu này, ta nay nên hỏi ông.” Lúc đó, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ và các trời, rồng, quỉ, thần v.v... đều nghĩ rằng: “Tướng thần thông sáng chói của đức Phật hiện đây, nay nên hỏi ai?” 7.- Bấy giờ, ngài Di-lặc Bồ-tát muốn giải quyết chỗ nghi của mình, Ngài lại xét tâm niệm của bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ và của cả chúng hội trời, rồng, quỉ, thần v.v... mà hỏi Văn-thù-sư-lợi rằng: “Vì nhơn duyên gì mà có tướng lành thần thông này, Phật phóng ánh sáng lớn soi khắp một muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, đều thấy cõi nước trang nghiêm của các đức Phật?” GIẢNG: Theo Duy thức học thì Bồ-tát Di-lặc tượng trưng cho Thức phân biệt. Bởi Thức phân biệt nên không thể hiểu được những hình ảnh biểu trưng Tri kiến Phật (lý Trung đạo), vì Tri kiến Phật vượt khỏi pháp Nhị nguyên tương đối của thế gian. Bồ-tát Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí hay Bản giác có sẵn nơi mỗi chúng sanh. Do gần gũi, bảo hộ, cúng dường, thâm nhập Tri kiến Phật nên Ngài mới hiểu được những điềm lành mà Phật hiện ra; vì vậy Bồ-tát Di-lặc mới có dự ý thưa hỏi. Đây là những vị Bồ-tát tượng trưng để nói lên ý nghĩa thâm sâu trong việc tu hành của mỗi người chúng ta, chớ không phải là hàng Bồ-tát đi hoằng truyền Chánh pháp giáo hóa chúng sanh trong đời. Đa số kinh Đại thừa, phẩm đầu thường là Bồ-tát Văn-thù thưa hỏi và phẩm kết thúc là hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền. Như kinh Pháp Hoa, mở đầu là Bồ-tát Văn-thù giải nghi cho Bồ-tát Di-lặc và bốn chúng, phần cuối cùng nêu lên hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền. Bồ-tát Phổ Hiền tượng trưng cho Trí sai biệt. Trí căn bản là trí đã có sẵn, bởi vô minh vọng tưởng che phủ nên không hiển lộ. Nhờ tu hành lần lần sạch hết vô minh phiền não, Trí căn bản mới hiển hiện tròn sáng. Lúc đó có đủ diệu dụng, tùy duyên giáo hóa chúng sanh gọi là Trí sai biệt. Chúng sanh căn cơ trình độ không đồng nhau, kẻ thì đần độn, người thì lanh lợi; Trí sai biệt của Phật có đủ diệu lực thấu suốt trình độ sai biệt ấy, nên tùy theo căn cơ mà phương tiện nói pháp sai biệt giáo hóa họ. Chính Trí sai biệt làm căn bản cho hàng Bồ-tát làm hạnh lợi tha không lười mỏi, không thối chuyển. Vì chúng ta tu chưa được viên mãn, chưa có Trí sai biệt, khi hành hạnh lợi tha mà không biết trình độ căn cơ của chúng sanh, không rõ được cái gốc đau khổ của muôn loài, nói pháp chỉ khế lý mà không khế cơ, nên người nghe không tin không theo tu học; kết quả là giúp người mà người không hết khổ, chán nản, nên thối Bồ-đề tâm. Lỗi đó không phải tại người cứng đầu không chịu nghe, mà tại mình chưa có Trí sai biệt biết rõ căn cơ trình độ của người, để nói pháp hợp thời đúng bệnh. Nếu nói pháp hợp thời đúng bệnh thì người nghe mới kính tin vâng theo mà tu tập hết khổ đau. Sở dĩ người không nghe là vì chúng ta nói pháp không đúng bệnh, không hợp thời, khiến người nghe không tin, bất mãn, xa lánh. Đó là muốn giúp người được lợi ích mà hóa ra hại người mất tín tâm, lỗi đó là tại mình. Vì vậy, nếu được Trí sai biệt thì sự giáo hóa chẳng những khiến chúng sanh được lợi ích, mà người giáo hóa cũng không lười mỏi, không chán nản, nên mới gọi là Đại Hạnh Phổ Hiền. Phần Trùng tụng là phần lặp lại ý của văn Trường hàng ở trên, nhưng lặp lại có phần chi tiết. CHÁNH VĂN: Khi đó, ngài Di-lặc muốn nói lại nghĩa trên, dùng kệ hỏi rằng: 8.- Ngài Văn-thù-sư-lợi! GIẢNG: Đoạn này lặp lại chỗ nghi vấn của Bồ-tát Di-lặc và hội chúng về hình tướng biểu trưng cho cái chân thật tuyệt đối. 
 9.- Ánh sáng giữa chặng mày GIẢNG: Nương ánh sáng do Phật phóng ra, mà cả hội chúng đồng thấy tất cả nhân quả luân hồi của sáu loài chúng sanh, ở một muôn tám ngàn cõi nước về phương Đông. CHÁNH VĂN: 10.- Lại thấy các đức Phật GIẢNG: Bồ-tát Di-lặc cùng bốn chúng thấy các đức Phật đang ở cõi nước của các ngài với Phạm âm vi diệu, tùy căn cơ dùng phương tiện nói pháp khai ngộ cho hàng Thanh văn, Duyên giác. CHÁNH VĂN: 11.- Ngài Văn-thù-sư-lợi! 12.- Tôi thấy ở cõi kia GIẢNG: Bồ-tát Di-lặc tường trình chỗ thấy nghe của Ngài như: Có vô số Bồ-tát bố thí vàng bạc, châu báu, bố thí xe cộ, bố thí thân mạng, vợ con để cầu Phật đạo. CHÁNH VĂN: 13.- Ngài Văn-thù-sư-lợi! GIẢNG: Bồ-tát Di-lặc lại thấy các quốc vương thưa hỏi đạo Vô thượng, rồi bèn bỏ nước, bỏ ngôi vua, quần thần, thê thiếp, cạo bỏ râu tóc xuất gia. CHÁNH VĂN: Hoặc lại thấy Bồ-tát GIẢNG: Bồ-tát Di-lặc cùng hội chúng thấy các Bồ-tát ở nơi vắng vẻ, mỗi vị dùng mọi phương tiện tu hành khác nhau để cầu Phật đạo. CHÁNH VĂN: 14.- Lại thấy vị Bồ-tát GIẢNG: Bồ-tát Di-lặc thấy Bồ-tát ở cõi kia cúng dường tứ sự quí giá cho Phật và Tăng để cầu đạo Vô thượng.    CHÁNH VĂN: 15.- Lại có vị Bồ-tát GIẢNG: Bồ-tát Di-lặc thấy Bồ-tát các cõi kia, vị thì dùng pháp tịch diệt giáo hóa chúng sanh, vị thì quán pháp tánh không hai, vị thì ly dục dùng trí tuệ nhiệm mầu cầu Phật đạo.   CHÁNH VĂN: 16.- Ngài Văn-thù-sư-lợi! GIẢNG: Bồ-tát Di-lặc thấy Phật ở cõi kia tịch diệt, Bồ-tát xây vô số bửu tháp cao đẹp quí báu, trang hoàng cờ, phướn, màn, linh. Rồi trời, người, rồng, thần dâng hương hoa kỹ nhạc để cúng dường xá-lợi Phật. CHÁNH VĂN: 17.- Phật phóng một luồng sáng 18.- Xin Phật tử Văn-thù GIẢNG: Vì Bồ-tát Di-lặc cùng hội chúng nương hào quang của Phật, thấy được những việc chưa từng có ở các cõi nước của chư Phật khác, nên yêu cầu Bồ-tát Văn-thù giải nghi về những điềm lành mà Phật hiện: Có phải Phật sắp nói pháp hay sắp thọ ký chăng? Xin Ngài giải đáp cho, vì đại chúng đang trông cậy Ngài. Mục Lục | Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải | 
Phẩm Tựa: Đoạn 6 - 18