| Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải Phẩm Thí Dụ: Đoạn 25 - 35 CHÁNH VĂN: Đức Phật muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 25.- Thí như ông Trưởng giả GIẢNG: Nhà đã hư mục xiêu vẹo, bị lửa lớn đốt cháy, trong nhà có những cảnh khổ đang diễn ra như: các loài thú dữ, các loài ma quỉ độc ác... luôn luôn tìm cách đe dọa và chực cắn nuốt lẫn nhau. Những chúng sanh trong cõi tam giới cũng thế. Ở cõi Dục, ngoài cái khổ sanh, già, bệnh, chết bức ngặt bản thân; ngoài cái khổ do tham, sân, si, mạn, nghi, đố kỵ... ở nội tâm dày vò, giằng co, còn bị những cái khổ bên ngoài như nghèo thiếu, đấu tranh, chúng sanh với chúng sanh gây họa hại cho nhau, chém giết lẫn nhau... không sao kể xiết. Ở đây đức Phật diễn tả bằng những hình ảnh cọp sói giành giựt mồi cắn xé lẫn nhau, yêu quỉ, hung thần rình rập ăn nuốt thịt người, ăn nuốt thịt thú... Những chúng sanh ở cõi Sắc và Vô sắc tuy có sung sướng thỏa mãn khoái lạc, không còn bị khổ xác thân nhưng vẫn còn bị sự biến dịch của tâm hồn, vẫn còn bị luật vô thường chi phối, hết phước cũng bị đọa lạc nên vẫn còn khổ. CHÁNH VĂN: 26.- Nhà cũ mục trên đó GIẢNG: Đoạn này đức Phật diễn tả lại cảnh khổ của các người con trong nhà lửa, nào là các loài quỉ dữ, các giống thú dữ, các loài trùng độc đang làm hại lẫn nhau... Ông Trưởng giả là người đã ra khỏi nhà lửa, là vị chủ nhân của căn nhà này. Thấy lửa đang cháy, các con đang bị lửa thiêu đốt vô cùng khốn khổ, ông thương và lo cho những người còn ở trong nhà này. CHÁNH VĂN: 27.- Lúc bấy giờ chủ nhà GIẢNG: Ông Trưởng giả ra khỏi nhà lửa, biết đàn con mình đang bị lửa thiêu đốt mà không hay, cứ say mê chơi giỡn, thích ưa đồ chơi không có giá trị, không biết lối ra, mắc phải nạn lửa thiêu đốt. CHÁNH VĂN: 28.- Bấy giờ Trưởng giả kia GIẢNG: Ông Trưởng giả khi biết đàn con đang say mê chơi giỡn trong nhà lửa, ông lấy làm lo ngại, muốn cho chúng ra khỏi nhà lửa, phải dùng phương tiện dụ dỗ cho các thứ đồ chơi quí báu như xe dê, xe hươu, xe trâu tùy theo ý thích, nếu chạy ra thì sẽ được cho. Những người con nghe nói thế, đua nhau chạy ra khỏi nhà. Khi các con ra khỏi nhà lửa thì ông Trưởng giả rất vui mừng và đàn con bu quanh xin ông cho đồ chơi báu đẹp. Những người con trong nhà lửa này khi ra khỏi nhà lửa là đã thoát nạn mà không nghĩ mình đã thoát nạn, vẫn còn mang lòng tham, mong cầu đồ chơi quí đẹp. Cũng vậy, chúng ta tu cứ nghĩ tới chứng đắc quả vị này quả vị khác, chớ không biết rằng chủ yếu của sự tu hành là xả ly mọi cố chấp mọi loạn tưởng; hết chấp hết loạn tưởng thì tự nhiên được an vui giải thoát. Hiểu như vậy mới thấy được lý đạo. Phần nhiều chúng ta tu bị kẹt trên phương tiện, hết kẹt phương tiện này đến phương tiện khác, đó là do bệnh si mê, nói lẽ thật không chịu tin nhận, cứ tham lam ham chứng đắc nên mãi chìm trong luân hồi sanh tử. CHÁNH VĂN: 29.- Trưởng giả giàu có lớn GIẢNG: Khi các con ra khỏi nhà lửa, đến vây quanh ông Trưởng giả xin đồ chơi. Với tâm bình đẳng, ông cho các con toàn xe trâu trắng trang hoàng bằng những vật báu ngoài sức tưởng tượng, ngoài sự mong ước của các con. CHÁNH VĂN: 30.- Bảo Xá-lợi-phất này GIẢNG: Tòa nhà xiêu vẹo hư mục đang bốc cháy, dụ như ở trong ba cõi, chính bản thân của chúng sanh đang bị lửa vô thường thiêu đốt, không thân nào, cảnh nào là không bị lửa tàn phá. Ở trong nhà lửa có đủ thứ hình tướng ghê tởm, đủ thứ hung hiểm ác độc đe dọa sát hại lẫn nhau, đó là dụ cho tham sân si biến ra thiên hình vạn trạng làm khổ con người mà không ai biết. Vì vậy Phật phương tiện dẫn dụ Niết-bàn Thanh văn, Niết-bàn Duyên giác, Niết-bàn Bồ-tát để cho chúng sanh thích, tu hành thoát khỏi phiền não khổ đau. Sau cùng Phật chỉ thẳng Tri kiến Phật là chỗ cứu kính viên mãn. Nếu người đến được chỗ rốt ráo này thì an vui tự tại vô ngại. CHÁNH VĂN: 31.- Phật thừa đây vi diệu GIẢNG: Phật thừa là pháp vi diệu thanh tịnh bậc nhất, trong thế gian này không có pháp nào hơn được, nên phải khen ngợi. Nếu người nào ưa vui tin nhận được pháp này thì chắc chắn những người đó sẽ thành Phật. CHÁNH VĂN: 32.- Nếu có người trí nhỏ GIẢNG: Đối với những người tâm ý nhỏ hẹp không nhận được pháp lớn, nên Phật phương tiện nói Khổ đế, rồi từ Khổ đế Ngài chỉ nguyên nhân gây ra khổ là Tập đế. Khi đã biết Khổ đế, Tập đế, Ngài mới nói Diệt đế tức là Niết-bàn, muốn đến Niết-bàn là phải biết đường lối tu hành tức là Đạo đế. Nếu người y cứ pháp Tứ đế tu hành thì sẽ chứng được quả A-la-hán. Nhưng quả A-la-hán chưa thật là diệt độ, chưa thật là Niết-bàn. Tại sao? Vì các vị tu pháp Tứ đế thấy thân tâm này bị vô thường chi phối nên mới khổ đau. Gốc của khổ đau là tham, sân, si mà tham, sân, si lại là hư vọng. Những thứ hư vọng đó sạch hết tức là dứt được cái nhân luân hồi sanh tử gọi là Diệt đế. Thanh văn chỉ dẹp được phiền não hư vọng chưa nhận được Tri kiến Phật nơi mình, nên đây Phật nói: “Chỉ xa rời hư vọng gọi đó là giải thoát.” Còn hàng Bồ-tát hay Phật thừa thì nhận ra nơi mình có Tri kiến Phật. Nhận ra nơi mình có Tri kiến Phật rồi thì buông hết những cái hư vọng không thật. Ví dụ cái áo bị dính những vết nhơ, khi tẩy hết những vết nhơ thì nói cái áo đã sạch, kỳ thật chỉ hết những vết nhơ chớ chưa thật sạch. Muốn sạch, sau khi tẩy các vết nhơ rồi phải đem cả cái áo ra giặt giũ, chừng đó mới thật sạch. Những vết nhơ sạch là cái sạch tương đối, cái áo sạch toàn diện mới là cái sạch tuyệt đối. Cũng vậy, khi dứt được tham, sân, si, phiền não hư vọng thì tâm lặng lẽ gọi là Niết-bàn giải thoát. Niết-bàn này chỉ là Niết-bàn tiêu cực, chưa có diệu dụng tích cực, nên có nhiều vị A-la-hán chứng Niết-bàn an trụ trong vắng lặng, rồi diệt độ luôn không làm lợi ích chúng sanh. Còn hàng Bồ-tát nhận ra Tri kiến Phật, đoạn dứt nhân luân hồi sanh tử có đủ diệu dụng như: Thập lực, Tứ vô sở úy... ra giáo hóa làm lợi ích chúng sanh. Đó là tinh thần tiêu cực và tích cực của Thanh văn và Bồ-tát. CHÁNH VĂN: 33.- Phật vì người trí sâu GIẢNG: Phật vì người trí sâu nói kinh Pháp Hoa, bởi hạng người này mới có đủ khả năng tin nhận. Còn hạng trí cạn hẹp như Thanh văn, Duyên giác thì không thể hiểu. Chính ngài Xá-lợi-phất đối với kinh Pháp Hoa phải do lòng tin mà vào, huống là những hàng Thanh văn khác. CHÁNH VĂN: 34.- Lại nầy Xá-lợi-phất! GIẢNG: Người chấp ngã đắm mê dục lạc thế gian, nghe kinh Pháp Hoa họ không tin lại còn khinh chê làm khuất mờ hạt giống Phật nơi mình, lại còn nói cho người khác không tin làm mờ khuất hạt giống Phật nơi người. Đó là làm đoạn mất hạt giống Phật ở thế gian nên mù mịt mê mờ, mặc tình tạo tội rồi mắc quả báo ở địa ngục. Khi hết quả báo địa ngục còn dư báo làm súc sanh, làm người thì thân thể tàn tật, đau bệnh, nghèo đói... Tất cả mọi khổ đau đều do không tin và khinh chê kinh Pháp Hoa, nên mất ánh sáng trí tuệ mà tạo nghiệp ác thọ quả khổ. CHÁNH VĂN: 35.- Bảo cho Xá-lợi-phất! GIẢNG: Ở trước, Phật dạy những người khinh mạn lười biếng, trí kém... thì không nên vì họ mà nói kinh Pháp Hoa, e họ không đủ sức tin, khinh chê rồi tạo tội mắc quả khổ. Tới đây, Phật dạy đối với những người lợi căn trí sáng, người đã từng gặp Phật có căn lành với Phật, người tinh tấn thường tu tập lòng từ, người cung kính nghe lời Phật dạy không chán nhàm luôn ở chỗ vắng vẻ tu hành, người xa bạn ác gần gũi bạn lành, người giữ giới thanh tịnh cầu pháp Đại thừa, người ít giận tâm dịu hòa, kính Phật, thương chúng sanh, người có tâm thuần tịnh hay dùng phương tiện giảng nói kinh pháp, người thọ trì kinh điển Đại thừa, Tỳ-kheo cầu Nhất thiết trí, người nghe kinh điển thành tâm kính lễ tu tập, không ưa thích sách vở ngoại đạo; nên vì những người đó mà nói kinh Pháp Hoa, vì những hạng người này có khả năng tin thọ. Chủ yếu của phẩm Thí Dụ là Phật chỉ cho tất cả hàng đệ tử tu theo Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ-tát thừa biết rõ ba thừa đó, Phật tùy căn cơ của chúng sanh mà phương tiện tạm lập, nên không có thật. Chỗ chân thật cứu kính mà Phật muốn chỉ là Phật thừa. Ngoài điểm chủ yếu đã nói, trong phẩm Thí Dụ đức Phật còn nêu lên những cảnh tượng khổ đau đang bức bách con người trong nhà lửa, để cho người tu Phật thấy rõ lẽ thật là người vật đang bị lửa vô thường, lửa tam độc thiêu đốt thân tâm. Thấy được lẽ thật là tỉnh giác, do tỉnh giác mà tiến tu để thoát khỏi lửa thiêu đốt. Đó là người trí mạnh do tỉnh giác mà được giải thoát. Còn người trí yếu, nhờ nghe lời Phật dạy, tuy chưa đủ sức tỉnh giác, nhưng tin lời Phật nói là đúng, y theo đó mà tiến tu, nhờ tiến tu nên cũng được giải thoát. Dụ như trường hợp các con của ông Trưởng giả tin cha cho ba xe, nên cố gắng chạy ra khỏi nhà lửa. Không bị lửa vô thường, lửa tam độc chi phối là giải thoát, còn bị lửa vô thường, lửa tam độc bức bách thì còn trầm luân trong luân hồi sanh tử. Thông thường giáo lý Phật nói tu đến chỗ viên mãn thì không còn chấp ngã chấp pháp, nghĩa là không còn thấy thân tâm này là ngã, không còn thấy có pháp để tu để chứng. Lúc không còn thấy ngã pháp là lúc an trụ Niết-bàn tịch diệt. Không còn ngã là không còn mình, vậy ai an trụ Niết-bàn? Không còn pháp là không có Niết-bàn, vậy tu đến chỗ tịch diệt, chỗ tịch diệt đó có phải là hư không chăng, vì không người không vật? Nếu tu để trở thành hư không vô tri thì không nên tu, tu vô ích! Đó là một vấn đề mà người tu ít ai để ý, cứ tin Niết-bàn là tịch diệt vắng lặng, không còn gì hết, hiểu như vậy là họa cho người học Phật. Hình ảnh ông Trưởng giả kêu các con và khi các con ra khỏi nhà lửa, được ông cho xe trâu trắng mập, đẹp, trang hoàng bằng bảy báu ngoài sức tưởng tượng, ngoài sự ước mơ của các con. Cũng vậy, tu đến chỗ không còn bị lửa vô thường, lửa tham sân si thiêu đốt, đâu phải ngang đó là hết, mà còn cái chân thật không hình tướng, không sanh diệt, thanh tịnh sáng suốt mầu nhiệm, vượt khỏi tầm hiểu biết suy lường của con người, nên đức Phật không nói. Vì Phật không nói nên chúng sanh không biết không tin. Khi xả được kiến chấp về giả ngã và buông được kiến chấp về giả pháp, mà Phật đã tùy căn cơ của chúng sanh giả lập thì cái chân thật hiện bày đầy đủ diệu dụng bất khả tư nghì. Nhiều người học Phật, nghĩ Niết-bàn vắng lặng chắc buồn lắm vì trống vắng. Còn ngã còn pháp thì mình có cái này được cái kia, khi tới Niết-bàn thì vô ngã, không có một pháp thì hưởng cái gì? vui cái gì? Họ đâu ngờ chính khi hết vô minh phiền não, thoát khỏi luân hồi sanh tử trong tam giới thì được tự tại vô ngại, đầy đủ diệu dụng lợi ích chúng sanh. Ví dụ nhà lửa làm sáng tỏ ý nghĩa này. Phẩm Thí Dụ còn nói lên rằng: Người đến với đạo Phật mà không tin mình có Tri kiến Phật, đó là tự hủy hoại tự đoạn dứt căn lành của người, làm mất hạt giống Phật ở thế gian. Nên biết rõ Tri kiến Phật không rời thân năm uẩn sanh diệt giả tạm này mà riêng có. Vì vậy, việc tin nhận Tri kiến Phật ở chính mình là việc rất thực tế, không phải là chuyện mơ hồ viển vông. Tin nhận Tri kiến Phật ngay nơi mình thì mới thấy rõ thân năm uẩn giả hợp này là huyễn hóa không thật, nếu ai mê chấp nó là thật thì trầm luân đau khổ. Thế nên nói tin kinh này thì được vô lượng trí tuệ công đức; nếu không tin thì mê muội tạo vô số tội ác, chịu quả khổ cùng cực. Tin là tin mình có giống Phật, nếu tu sẽ được thành Phật, chớ không phải tin trên ngôn thuyết chữ nghĩa suông. Lý này đến phẩm Thường Bất Khinh Bồ-tát sẽ thấy rõ hơn. Qua phẩm Thí Dụ, chúng ta thấy lòng từ của Phật đối với chúng sanh vô lượng vô biên không ngằn mé. Ngài dùng mọi phương tiện để dẫn dụ giáo hóa cho chúng sanh mau thoát khỏi nhà lửa Tam giới, được đầy đủ diệu dụng, tiến đến quả Phật như Ngài mới thôi. Mục Lục | Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải | 
Phẩm Thí Dụ: Đoạn 25 - 35