Thiền Tông Việt Nam
Hai Quãng Đời Của Sơ Tổ Trúc Lâm
Cư Trần Lạc Đạo Phú - Hội Thứ Ba

Nếu mà cốc,
Tội ắt đã không;
Phép học lại thông.
Gìn tánh sáng, mựa lạc tà đạo;
Sửa mình học, cho phải chánh tông.
Chỉn Bụt là lòng, xá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ;
Vong tài đối sắc, ắt tìm cho phải thói Bàng công.
Áng tư tài tánh sáng chẳng tham, há vì ở Cánh Diều Yên Tử;
Răn thanh sắc niềm dừng chẳng chuyển, lọ chi ngồi am Sạn non Đông.
Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc;
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ công.
Nguyền mong thân cận minh sư, quả bồ-đề một đêm mà chín;
Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa ưu-đàm mấy kiếp đơm bông.

GIẢNG:

Nếu mà cốc,
Tội ắt đã không;
Phép học lại thông.

“Cốc” là biết, “nếu mà cốc” nghĩa là nếu mà biết. Nếu mà biết được như trên thì tội ắt đã không, việc học việc tu lại thông suốt.

Gìn tánh sáng, mựa lạc tà đạo;
Sửa mình học, cho phải chánh tông.

“Gìn” là giữ, “mựa” là chớ. Gìn tánh sáng chớ để lạc vào tà đạo. Chúng ta tu theo Phật giáo cốt lấy Tánh giác làm trọng tâm, cho nên phải giữ gìn Tánh giác, chớ để rơi vào tà đạo. Hiện nay người tu theo Phật bị lạc vào tà đạo rất nhiều. Tuy họ tu rất công phu, nhưng chỉ mong được phép thần thông, được quả báo tốt, chớ không biết xoay lại Tánh giác, không biết tu Phật cốt để giác ngộ. Tu là dẹp sạch tham sân si cho Tánh giác của mình hiện bày, đó là gốc của đạo Phật.

Sửa mình học, cho phải chánh tông. Chúng ta tu học thế nào cho đúng chánh tông của đạo Phật, đừng để sai lệch. Đạo Phật là đạo giác ngộ nên phải lấy giác ngộ làm gốc, làm chủ yếu, mà lấy giác ngộ làm chủ yếu thì đâu cần có thần thông hay huyền bí. Sở dĩ chúng ta tu lệch lạc sai lầm vì cứ mong cầu những gì không đúng gốc của đạo Phật. Chính đức Phật đi tu được thành Phật cũng do nơi giác ngộ. Đức Phật là vị Giáo chủ, là thầy của chúng ta. Ngài tu được giác ngộ thành Phật, thì ngày nay chúng ta tu phải lấy giác ngộ làm chủ đích. Như vậy mới theo đúng con đường chân chánh của người tu Phật, đó mới là chánh tông.

Chỉn Bụt là lòng, xá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ;
Vong tài đối sắc, ắt tìm cho phải thói Bàng công.

Chỉn Bụt là lòng. Chữ chỉn là chỉ, Bụt là Phật, lòng là tâm. Nghĩa là chỉ Phật là tâm, Phật tức tâm. Thế kỷ thứ 13, ở nước ta gọi Phật là Bụt. Bây giờ mình gọi Phật là Phật. Như vậy bây giờ gọi trúng hay thuở trước gọi trúng? Muốn biết rõ điều này, chúng ta hãy lùi lại lịch sử Phật giáo nước ta thuở trước.

Khi xưa các nhà sư Ấn Độ theo thuyền buôn vào Việt Nam và truyền bá đạo Phật ở vùng Luy Lâu. Các Sư người Ấn gọi Phật là Buddha. Chữ “Bud” là giác, chữ “dha” là người, nếu đọc theo âm Trung Quốc là Phật-đà. Chữ Bụt với chữ “Bud” rất gần, nên Tổ tiên ta đọc trại chữ “Bud” thành ra Bụt. Còn “dha” là người, nhưng vì để tỏ lòng tôn kính, ta không gọi người mà gọi ông. Vì vậy người Việt Nam xưa gọi Phật là ông Bụt. Sau này ảnh hưởng theo âm Phật-đà của Trung Quốc, nhất là từ đời Minh về sau, người Hán đem kinh tạng từ Trung Hoa sang Việt Nam truyền bá, nên chúng ta phát âm theo tiếng Hán là Phật. Hiểu rõ như vậy nên biết gọi Bụt hay Phật là do ảnh hưởng ngôn ngữ của Ấn Độ hoặc Trung Hoa, tùy theo từng thời kỳ khác nhau mà ra, chớ không ai sai cả.

Xá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ. Chữ “xá” là đâu cần, “ướm hỏi” cũng như gạn hỏi. Ngày xưa Mã Tổ chủ trương “tức tâm tức Phật”, Thiền sư Pháp Thường nhận được yếu chỉ này rồi về núi Đại Mai tu. Sau Mã Tổ cho người lên xem thử, hỏi: Ngài về núi đến nay đã tu hành thế nào? Ngài Pháp Thường đáp: Tôi từ khi được Mã Tổ chỉ dạy “tức tâm tức Phật”, đến nay cũng chỉ thế ấy mà thôi. Vị khách bảo: Ngày nay Mã Tổ không còn nói “tức tâm tức Phật” nữa, mà Ngài nói “phi tâm phi Phật”. Thiền sư Pháp Thường bảo: Mặc cho ông già “phi tâm phi Phật”, tôi chỉ biết “tức tâm tức Phật” thôi. Vị khách trở về thưa lại với Mã Tổ việc trên. Tổ nhóm chúng tuyên bố: Trái mai đã chín. Nghĩa là xác nhận lòng tin của Thiền sư Pháp Thường đã kiên cố, công phu đã chín, rõ biết “tức tâm tức Phật”.

Thế nên nếu chúng ta nhận ra được “tức tâm tức Phật” rồi thì cần gì tìm hỏi Mã Tổ nữa. Bởi mục đích của Tổ là dạy cho chúng ta điều đó, nay mình đã nhận rõ yếu chỉ ấy rồi thì hỏi Mã Tổ là dư.

Vong tài đối sắc. Chữ “vong tài” là quên hết tiền bạc, của cải, “đối sắc” là đối với tất cả hình tướng bên ngoài. Ắt tìm cho phải thói Bàng công. Chữ “thói” là lề lối. Ắt phải quyết tìm cho đúng con đường của Bàng Long Uẩn. Ông Bàng Long Uẩn là một nhà Nho, trước làm quan thuộc hàng khá giả. Sau khi ngộ được lý Phật, ông chở hết tiền bạc của cải đổ xuống sông Tương. Từ đó gia đình ông sống cuộc đời đạm bạc. Ông đan sáo, bà trông coi nhà cửa, con trai đi cày ruộng, còn người con gái là cô Linh Chiếu đi bán sáo. Như vậy Ngài dạy chúng ta đối với tiền bạc của cải đừng có ham mê, phải quên đi và phải học theo gương, theo tư cách của ông Bàng Long Uẩn.

Áng tư tài tánh sáng chẳng tham, há vì ở Cánh Diều Yên Tử;
Răn thanh sắc niềm dừng chẳng chuyển, lọ chi ngồi am Sạn non Đông.

Chữ “áng” có nghĩa là đám hay nhóm, “tư tài” là tiền của. Đối với nhóm tiền của, tánh sáng chúng ta không tham đắm. Tánh sáng không tham đắm tiền của thì đâu cần ở Cánh Diều Yên Tử. Cánh Diều Yên Tử tức là trên dãy Yên Tử có một ngọn núi tên Cánh Diều. Nếu đối với tiền bạc của cải, lòng chúng ta không một chút tham đắm, dính mắc, thì đâu cần phải lên tận trên núi Yên Tử chi cho xa, ngay ở thành thị tu cũng được như thường.

Chữ “thanh” là tiếng, “sắc” là hình sắc, “chẳng chuyển” là không chạy theo. “Lọ chi” là cần gì, am Sạn non Đông là tên một am trên ngọn núi Yên Tử ở về phía Đông. Nghĩa là răn nhắc lòng mình không còn những niệm đuổi theo thanh sắc nữa, thì cần gì phải lên ở am Sạn non Đông.

Tóm lại, hai câu này Ngài muốn dạy cho chúng ta thấy rõ rằng người tu hành chân chánh phải giữ tâm mình trong sáng, không tham tiền bạc của cải, thì không cần phải lên ở Cánh Diều Yên Tử. Ngay đây mà tu, đừng để vọng tưởng chạy theo thanh sắc, thì khỏi cần phải tìm kiếm nơi thanh vắng yên ở, mà chúng ta vẫn được an ổn như thường.

Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc;
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ công.

Hai câu này thật là Ngài nói hết tình với chúng ta vậy. Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc. Nghĩa là ở ngay nơi trần tục này mà nên, mà tốt, thì phước ấy càng quí rất mực. Chữ “hết tấc” là rất mực. Nếu chúng ta ở ngay cõi trần tục này mà được hay được tốt, thì phước của mình đáng cho người ta yêu quí rất mực hay tột cùng.

Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ công. “Chẳng cốc” là chẳng biết. Ở trên rừng trên núi mà chẳng biết, chẳng hiểu đạo lý, không thấy được lẽ thật, đó là họa chỉ làm uổng công của mình mà thôi. Chữ “đồ” là luống uổng. Ngài dạy thật rõ ràng, dù chúng ta thích tu ở nơi nào cũng phải quyết chí tu cho đúng, thì tuy ở trần tục cũng được người quí kính. Còn trốn chạy vào rừng núi nhưng không biết đúng lẽ thật thì chỉ là họa, uổng công vô ích mà thôi.

Tuy nhiên khi đã lên sơn lâm rồi cũng phải “thực cốc” là thực biết, được thế chẳng phải họa mà là phước, chẳng phải đồ công mà là kỳ công. Nếu chúng ta ở sơn lâm mà có được cái biết thật thì phước thật là lớn, công kỳ đặc chớ không phải thường. Cho nên chúng ta lên sơn lâm mà phải “thực cốc”, mới không uổng công mà trở thành kỳ công. Đây chủ yếu Ngài dạy chúng ta trọng tâm của sự tu là hiểu đúng, tu đúng, biết đúng, chớ không quan trọng ở chỗ nơi.

Nguyền mong thân cận minh sư, quả bồ-đề một đêm mà chín;
Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa ưu-đàm mấy kiếp đơm bông.

Hai câu này rất đẹp, mong sao cho mình được gần gũi với bậc minh sư, do gần với minh sư nên quả bồ-đề một đêm được chín. Như trường hợp ngài Nhất Túc Giác tức là ngài Huyền Giác chỉ qua một đêm mà được chín, tức được giác ngộ. Như vậy gần gũi được minh sư thì quả bồ-đề nhất định sẽ đến, sẽ có kết quả. 

Nếu chúng ta có phước, tình cờ gặp được hàng thiện tri thức thì hoa ưu-đàm của mình đơm bông. Hoa ưu-đàm là tiếng Phạn, Việt Nam tạm dịch là hoa sung. Hoa sung rất hiếm thấy, thấy được rất quí. Hoa ưu-đàm cũng ít thấy ít gặp. Vì vậy người nào có phước gặp thiện tri thức cũng giống như hoa ưu-đàm đã lâu không trổ bông, bây giờ mới đơm bông.

Hai câu này nói lên sự cần yếu của bậc minh sư, thiện hữu tri thức. Trên đường tu nếu không có minh sư, không có thiện hữu tri thức, thì sự tu hành của chúng ta chỉ tốn công mà không đi đến đâu hết.

Mục Lục