Thiền Tông Việt Nam
Chìa Khóa Học Phật - Phần Giảng Giải
Chương Hai: THẾ NÀO LÀ PHẬT PHÁP? (tt8)

Chánh Văn:

“Thiền sư Đạo Ngộ bảo đệ tử là Sùng Tín rằng:

- Ngươi làm thị giả ta, ta sẽ chỉ tâm yếu cho ngươi.

Sùng Tín nhận làm thị giả, trải qua mấy năm mà không được chỉ dạy điều gì. Sùng Tín thưa:

- Từ ngày con vào đây đến giờ, chưa được Hòa thượng chỉ dạy tâm yếu.

Đạo Ngộ bảo:

- Từ ngày ngươi vào đây đến nay, ta chưa từng chẳng chỉ dạy tâm yếu.

- Chỉ dạy ở chỗ nào?

- Ngươi dâng trà lên, ta vì ngươi tiếp. Ngươi bưng cơm đến, ta vì ngươi nhận. Ngươi xá lui ra thì ta gật đầu. Chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu? 

Giảng:

Quý vị thấy "tâm yếu" đơn giản làm sao! Chúng ta cứ tưởng qua lời nói mới dạy, không ngờ không nói mà "tâm yếu" nó tràn trề.

Chánh Văn:

Sùng Tín cúi đầu suy nghĩ giây lâu.

Đạo Ngộ bảo:

- Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai.

Ngay câu này, Sùng Tín khai ngộ.”

Đạo Ngộ nói Tâm yếu tức là Nam Tuyền nói Tâm bình thường. Trong mọi hành động ăn cơm, mặc áo, tới lui qua lại của chúng ta đều biểu lộ tâm yếu đầy đủ. Chỉ đáng tiếc, khi ăn chúng ta chẳng chịu ăn, lại nghĩ đến các việc này, khi mặc chẳng chịu mặc lại suy các việc nọ. Chúng ta không thể sống được với tâm bình thường trong mọi hoạt động của mình. Hằng bị vọng tưởng cuốn hút qua mọi lãnh vực hoạt động của nó. Do đó cả ngày chúng ta mãi đuổi theo vọng tưởng, hết thứ này đến loại khác, không bao giờ được dừng nghỉ.

Ở đây, Thiền sư Đạo Ngộ chỉ tâm yếu phát hiện nơi dâng trà, nhận cơm, gật đầu..., thật là bình thường đơn giản. Tâm yếu hằng hiện hữu nơi mọi hoạt động của chúng ta, mà chúng ta thông qua không chịu nhận. Bởi trong đầu óc chúng ta chứa dẫy đầy các thứ quái tượng, hiếu kỳ thì làm sao nhận được cái bình thường đơn giản này. Nói đến Tâm yếu, Đạo, Pháp thân..., chúng ta tưởng tượng phải là cái gì phi thường kỳ đặc mới được. Đâu ngờ, nó lại là cái rất giản đơn bình dị. Ném phắt mọi vọng tưởng cuồng loạn, chỉ sống với tâm thể an nhiên trong mọi hoạt động bình thường là chúng ta đạt đạo, ngộ tâm yếu. Các lượn sóng lặn hụp trên mặt biển là hiện tượng sanh diệt. Khi mọi lượn sóng đều lặng yên, chỉ còn một mặt biển phẳng lì, thử hỏi cái gì là sanh diệt? Có sóng nổi lên là có hình tướng sai biệt, khi sóng lặng hết tìm xem còn hình tướng gì? Song đến đó không thể nói không có mặt biển. Tâm thể chúng ta cũng thế, chỉ cần lặng hết mọi vọng tưởng thì thể tánh hiển bày. Thế nên vừa suy nghĩ là lấp mất thể tánh rồi.

Giảng:

Câu chuyện này quý vị thấy thật tình nó là chuyện lạ đời.

Sùng Tín là vị bán bánh bao ở ngoài đầu đường vô chùa của ngài Đạo Ngộ. Sùng Tín đem bánh bao cúng dường cho ngài Đạo Ngộ, cúng bốn, năm cái, ngài Đạo Ngộ nhận hai, ba cái chừa lại một, hai cái cho Sùng Tín đem về. Sùng Tín ngạc nhiên: "Bánh bao của con đem cúng cho Hòa thượng mà Hòa thượng cho lại con là sao?". Ngài nói ta cho lại ngươi để nuôi dưỡng con cháu. Sùng Tín lấy làm lạ, từ đó về sau mới bắt đầu suy nghĩ, suy nghĩ riết xin đi tu. Khi đi tu thì ngài Đạo Ngộ nhận cho làm thị giả. Ngài nói: "Ông làm thị giả cho ta, ta sẽ dạy tâm yếu cho ông". Sùng Tín đinh ninh, bây giờ mình đi tu là cốt làm sao cho ngộ tâm yếu, mà thầy hứa vậy sung sướng quá. Làm thị giả ba năm trời không nghe thầy dạy một câu nào hết.

Quý vị thấy hứa dạy mà ba năm không dạy một câu, lòng khao khát tràn trề, vừa khao khát vừa bực tức nghĩ ông thầy có nói gạt mình không? Tới bây giờ ba năm rồi mà không dạy. Do cái khao khát tìm kiếm đó nên Sùng Tín chịu đựng hết nổi, bữa nay ra thưa thật: "Từ ngày con vào đây tới giờ chưa được Hòa thượng chỉ dạy tâm yếu". Thì ngài Đạo Ngộ trả lời một cách ung dung rằng: "Từ ngày ngươi vào đây đến nay, ta chưa từng chẳng chỉ dạy tâm yếu". Ngài Sùng Tín liền khởi nghi: "Chỉ dạy ở chỗ nào?". Ngài Đạo Ngộ nói: "Ngươi dâng trà lên, ta vì ngươi tiếp. Ngươi bưng cơm đến, ta vì ngươi nhận. Ngươi xá lui ra thì ta gật đầu. Chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu?". Ngài Sùng Tín bắt đầu suy nghĩ: "Vậy cái đó là tâm yếu sao?". Ngài Đạo Ngộ liền cho một câu nữa: "Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai". Ngay câu này, Sùng Tín liền nhận ra.

Lối giảng của tôi ở đây, quý vị cứ nghe, nghe rồi nhận được thì nhận chứ đừng bóp đầu suy nghĩ câu đó nói sao, hay hay dở, đừng thèm suy nghĩ gì hết, cứ nghe khéo nhận thì được, không thì thôi, đừng thắc mắc.

Bấy giờ tôi dẫn thêm câu chuyện nữa.

Thiền sư Ô Sào là Thiền sư ở trên ổ quạ. Sau khi ngộ đạo rồi Ngài lên trên rừng thấy một cây có cháng ba đẹp quá, Ngài bẻ nhánh cây đan lại giống ổ quạ rồi ở đó tu. Người ta thấy chỗ Ngài ở giống ổ quạ nên gọi Ngài là Thiền sư Ô Sào.

Sau này có một ông thị giả tới xin tu với Ngài. Ngài cũng hứa nhận, để ông thị giả ở dưới, Ngài ở trên. Thị giả hầu hạ Ngài thời gian lâu quá không thấy Ngài dạy gì, ông buồn. Bữa đó ông từ giã Ngài đi: "Thưa thầy con ở lâu quá mà không thấy thầy dạy con về thiền, con từ giã thầy đi hành cước để học thiền". Thì Ngài nói: "Nếu nói thiền ta cũng có chút ít, ngươi cần thì ta dạy cho". Thị giả thưa: "Con muốn đi học thiền đây". Ngài xăn tay áo, áo Ngài là áo bông, Ngài xé một miếng bông thổi khì, bay bay, đệ tử ngộ đạo.

Đơn giản làm sao! Dạy thiền bằng cách đó khác gì "ngươi dâng trà thì ta nhận, ngươi bưng cơm đến ta tiếp, ngươi xá lui thì ta gật đầu" của ngài Đại Ngộ.

Rồi thêm chuyện ngài Triệu Châu cũng vậy. Khách tới, Ngài hỏi ăn cơm chưa? - Dạ, ăn cơm rồi. Ngài nói: Rửa bát đi. Đi rửa chén liền ngộ đạo. Như vậy dạy cái gì? Quý vị có thấy tâm yếu ở chỗ bình thường không? Trong cái bình thường nếu không nghĩ lăng xăng lộn xộn thì tâm yếu hiện tiền, chứ có gì đâu. Nếu nhận ra được là thấy đạo khỏi tìm đâu xa xôi. Hết sức đơn giản.

Ở đây tôi dùng thí dụ mặt biển nổi sóng, khi gió dấy lên, tất cả lượn sóng nổi dậy. Sóng nổi dậy thì chúng ta nhìn có lượn sóng lớn, sóng nhỏ, lượn sóng dài, ngắn v.v... sai biệt. Khi những lượn sóng lặng xuống hết thì nói mặt biển hết sóng. Sóng thì hết nhưng mặt biển có hết không? Hết sóng chứ mặt biển vẫn còn đó. Cũng như vậy, vọng tưởng lặng hết thì hết vọng tưởng, chứ cái tâm chân thật đâu có mất. Mà cái tâm chân thật mới là cái bình thường, còn vọng tưởng là cái bất bình thường, là cái động. Cái động là cái sanh diệt, là luân hồi. Cho nên động cơ luân hồi chính là tâm vọng tưởng. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy nhà thiền hết sức đơn giản, chỉ cho chúng ta cái tâm chân thật sẵn có từ thuở nào chớ không phải là mới đây.

Bây giờ đến vị thứ tư.

Chánh Văn:

“Thiền sư Hoài Hải (Bá Trượng) theo hầu Mã Tổ đi dạo vườn, bỗng có bầy chim bay qua. Mã Tổ hỏi:

- Bay đó là gì?

Hoài Hải thưa:

- Bầy vịt trời.

- Bay đi đâu?

- Bay qua mất.

Mã Tổ nắm lỗ mũi của Sư vặn mạnh một cái, đau quá Sư la thất thanh.

Mã Tổ bảo:

- Sao không nói bay qua mất?

Nhân đây Sư tỉnh ngộ.” 

Giảng:

Thầy trò như giỡn chơi, không nói đạo lý gì hết mà ngộ; còn mình nói đạo lý ròng rặc mà không ai ngộ hết trơn. Chúng ta thấy lối dạy đạo của các Thiền sư như đùa, vậy mà chí lí làm sao!

Chánh Văn:

Tâm yếu luôn luôn hiển lộ đầy đủ nơi sáu căn, mà chúng ta không nhận thấy. Chúng ta một bề buông thả sáu căn chạy theo sáu trần. Mắt đối sắc cho là có thấy, sắc trần qua mất nói là không thấy, lệ thuộc hẳn ngoại cảnh. Sắc trần là tướng sanh diệt chợt có chợt không, cái thấy biết sắc trần có khi nào sanh diệt, mà chúng ta chỉ nhận sắc trần không nhận cái thấy. Cái thấy là hiện thân của tâm yếu, là mạng sống ngàn đời của chúng ta. Thế mà, chúng ta quên đi mạng sống của chính mình, phóng tâm đuổi theo dòng sanh diệt của ngoại giới. Trường hợp Thiền sư Hoài Hải cũng thế, chỉ nhớ bầy chim bay qua mất, không nhớ tánh thấy thường còn của mình. Mã Tổ nắm lỗ mũi vặn mạnh, bảo “sao không nói bay qua mất”. Sư chợt tỉnh ngộ cái không mất của mình, hay thức được giấc mê “quên mình theo vật”.

Chúng ta sống nhờ lỗ mũi hít vô thở ra, nó là sanh mạng của mình, lỗ mũi hằng có mặt thường trực ở trước chúng ta, mà chúng ta khó thấy và ít nhớ. Hằng ngày chúng ta chỉ nhớ những vấn đề: ăn, mặc, đẹp, xấu... còn hơi thở là điều tối thiết yếu lại quên đi. Quên hơi thở tức là đã quên mạng sống của mình. Mạng sống đã quên đi thì sự sống không còn ý nghĩa của sự sống. Sống của cái chết, của cái cuồng loạn. Phật, Tổ cố đánh thức chúng ta nhớ lại mạng sống của chính mình. Hằng sống với mạng sống của chính mình, làm gì có nghĩa chết. Như mãi còn thở ra vào, sao nói chết được. Bởi vì chết là mất đi cái sống, là dừng hơi thở. Tánh thấy hằng hiện hữu nơi chúng ta mà chúng ta không thấy, ví như lỗ mũi thường có mặt ở trước mắt mà chúng ta dễ quên. Cái nắm mũi vặn mạnh của Mã Tổ, khiến Thiền sư Hoài Hải đau la thất thanh, liền đó tỉnh ngộ, quả là diệu thuật trong nhà Thiền, cũng là một bài thuyết pháp không lời kỳ diệu.

Giảng:

Quý vị thấy những câu chuyện nhỏ như vậy mà chứa đầy đủ những gì thâm sâu ở trong.

Hai thầy trò đi dạo vườn hết sức bình thường, thấy bầy chim le le bay ngang. Mã Tổ thấy, Bá Trượng Hoài Hải cũng thấy, tức là thầy thấy trò thấy. Nhưng mà Mã Tổ lại hỏi học trò: "Bay đó là gì?". Người học trò thật thà nói: "Bầy vịt trời". Mã Tổ hỏi: "Bay đi đâu?". Nếu chúng ta có trả lời cũng y như Hoài Hải: "Bay qua mất". Mã Tổ liền nắm lỗ mũi vặn một cái thật mạnh, đau quá Hoài Hải la thất thanh. Mã Tổ nói: "Sao không nói bay qua mất đi?". Chừng đó Hoài Hải mới giật mình liền ngộ đạo. Ngộ đạo đây là nhớ lại cái thấy không mất của chính mình.

Thật là một bài thuyết pháp kỳ diệu. Cho nên nói Mã Tổ đại dụng, đại cơ là chỗ đó, là cái khéo lạ đời. Ngài có cái thuật dạy đệ tử mà bây giờ không ai dám dạy như vậy. Có một thiền khách tới hỏi Ngài: "Thế nào là Pháp thân?". Ngài bảo: "Lại gần đây". Ông kia lại gần, Ngài tát một bạt tai tóe lửa! Ngài nói: "Sáu cái không đồng mưu". Ông ấy ngộ đạo.

Một vị nữa cũng tới hỏi: "Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?". Ngài bảo lại gần đây. Ngài đạp cho một đạp té nhào. Thiền khách đứng dậy cười ngất! Ngộ đạo. Thật là diệu thuật bất khả tư nghì. Bây giờ có ai dạy như vậy không? Nếu dạy như vậy thì chắc thầy trò lỗ mũi đỏ hết. Tát cho trò một bạt tai, trò đập lại thầy bể lỗ mũi, nó không ngộ đạo nó đập lại mình. Hồi xưa người học tin người dạy không phải là người thường, cho nên một hành động của thầy người học trò phải tìm lại cái thật của họ. Mỗi hành động của thầy người học cho là một lối dạy chớ không nghĩ đó là sân si. Còn bây giờ cái gì động tới họ, họ tưởng mình nổi sân si đánh họ, rồi họ đập lại mình, cho nên mỗi hoàn cảnh mỗi khác.

Mã Tổ là một vị đặc biệt nhất. Cho nên dưới Ngài có tám mươi mấy người đệ tử đều là nổi tiếng. Thuật của Ngài, mà nhất là Hoài Hải là một vị thị giả từ thuở bé cho tới lớn theo hầu Ngài, bây giờ bị Ngài kéo lỗ mũi một cái giật mình ngộ đạo. Cái kéo lỗ mũi đó thật là hay. Bởi vì lỗ mũi trong nhà thiền dùng để tượng trưng cái đặc biệt. Lỗ mũi của mình nếu không có gương, quý vị có thấy không? Nó trung thực ở trước mặt mình, không vắng lúc nào hết, mà không bao giờ mình thấy nó rõ ràng. Nếu có thấy chăng là thấy một chút chót mũi thôi. Nó tối quan trọng, nó còn quan trọng hơn cái miệng. Nguồn sống quan trọng ở nó, mà nó không lép xép như cái miệng. Cái miệng thì lép xép hoài, chớ nó thì im lìm nằm sẵn ở đó, là mạch sống của chính mình, trước mặt mình mà mình không thấy. Nó tượng trưng cho cái thể chân thật. Nó sẵn đó mà mình không bao giờ thấy, nó không lúc nào vắng mặt hết.

Vì vậy kinh Lăng Nghiêm nói: Nếu chúng sanh quên mình theo vật là luân hồi. Nếu chuyển vật về mình là đồng Như Lai. Bây giờ thấy bầy chim bay qua, mình biết bầy chim bay qua rồi mất, đó là quên mình theo vật. Còn nếu thấy bầy chim bay qua, nó mất mình cũng thấy, cái thấy không bao giờ mất. Tổ hỏi là hỏi cái thấy của Hoài Hải chớ không phải hỏi bầy chim, cho nên Ngài nắm lỗ mũi kéo, Hoài Hải biết đau la thì Ngài nói: "Sao không nói mất đi". Chừng đó Hoài Hải giật mình, mình còn nhớ không phải mất. Nếu mất thì kéo không đau, không có la. Còn biết đau biết la thì đâu có mất, cho nên ngộ, ngộ chỗ chưa bao giờ mất.

Chúng ta sống cũng vậy, luôn luôn là theo vật. Có người có vật thì có nghĩ có suy, thấy có mình. Người vật mất đi rồi, lúc đó thấy mất mình luôn, mình chới với. Cho nên người ta ngộ, mình hiểu không nổi, còn mình thì cứ kiếm người này nói chuyện, kiếm người kia nói chuyện. Có một đối tượng nào với mình, mình mới chịu nổi, còn cô đơn là khó chịu, buồn bã, bứt rứt v.v... Đó là triệu chứng quên mình, lệ thuộc vào ngoại cảnh.

Cho nên người ta ít ai chịu ngồi một chỗ. Ngồi một chỗ chừng một buổi là thấy khó khăn lắm. Còn nếu rảnh đi đông đi tây, nói chuyện đầu trên xóm dưới thì một ngày qua mau lắm, mà vui nữa. Còn nếu ở nhà một mình từ sáng tới chiều thì bữa đó buồn bã ủ rũ. Đó là triệu chứng quên người theo vật của con người.

Bây giờ có cảnh thì chúng ta thấy cảnh, không cảnh thì chúng ta thấy không cảnh. Có tiếng người thì chúng ta nghe tiếng người, không tiếng người thì chúng ta không nghe tiếng người. Cái thấy nghe nó tràn trề ở tai ở mắt, có thiếu vắng lúc nào đâu? Cái đó mới là mình thật, còn cái do tiếp xúc bên ngoài có thấy có nghe rồi cảnh tới thì biết có, cảnh đi thì nó mất, đó là bị mất mình. Như vậy nếu chúng ta cứ chạy theo cảnh bên ngoài thì không bao giờ nhận ra cái thật. Còn nếu chúng ta nhận ra cái thật thì tất cả chuyện bên ngoài nó có hay có dở, có đẹp có xấu, không còn quan trọng nữa. Nếu lệ thuộc cảnh bên ngoài, đẹp thì mình vui, xấu thì mình buồn, rồi cứ bị nó chi phối.

Ở đây chúng tôi giải thích về cái mũi rất quan trọng mà ít ai nhớ.

Cái mũi không bao giờ ngưng làm việc, mà chúng ta ít có nhớ nó. Nó cứ hít vô thở ra. Nó là mạch sống của con người, rất quan trọng mà ít ai nhớ cái mũi mình đang thở. Ngồi chơi thì nhớ chuyện này chuyện kia, không nhớ mình đang thở. Vì vậy mà thở ngắn thở dài mình không biết, nó vào ra sao mình không hay, cứ nhớ chuyện trên trời dưới đất, mà không nhớ lại chính cái quan trọng của mình. Người tu thiền trở về cái quan trọng của mình là nhớ lại mạng sống của chính mình được tượng trưng bằng cái mũi. Cho nên nói nắm cái mũi là để chỉ cho cái chân thật, nó còn hiện tiền trước mặt mình chớ không vắng không thiếu. Khi ngủ khi thức có lúc nào cái mũi vắng mặt không? - Không. Nó thở đều đều, có mặt đầy đủ. Tôi dẫn một vài câu chuyện trong nhà thiền nói về cái lỗ mũi cho quý vị nhớ.

Thiền sư Tuyệt Chiêu nói một bài kệ về cái lỗ mũi:

Tương biệt nhất hà cửu

Tương phùng chỉ cựu thời

My mao phân bát tự

Tỷ khổng đại đầu thùy.

Hai câu đầu không quan trọng lắm, không giải thích, tôi giải thích hai câu kế:

My mao phân bát tự. My mao là chân mày, phân bát tự là phân ra thành hình chữ bát. Lâu nay bát tự dịch lầm là tám chữ. My mao phân bát tự là chân mày hình chữ bát.

Tỷ khổng đại đầu thùy. Tức là đầu to của lỗ mũi duỗi trở xuống.

Đó là chỉ cho hai chân mày và cái lỗ mũi. Thường thường trong nhà thiền nói rằng, nếu mình tới chỗ đầu đường, nghĩa là giữa hai chân mày hình chữ bát thì cái lỗ mũi ở bên cạnh đó. Cho nên nói đã tới đầu đường, tức là tới hình chữ bát này thì lẽ thật lỗ mũi ở một bên đó rồi.

Hoặc giả như một Thiền sư, ngài Bạch Vân Nghĩa Đoan. Ngài bình câu chuyện của ngài Thần Quang khi tìm tâm không được, tổ Bồ Đề Đạt Ma nói ta đã an tâm cho ngươi rồi, Ngài ngộ đạo. Thì ngài Bạch Vân Nghĩa Đoan mới bình rằng:

Trước sau tìm tâm không thấy, không được

Thánh tăng không tìm ra được người Thiếu lâm

Nhớ lại trước sân tuyết kia càng cho mình biết thêm lạnh.

Nhớ lại lỗ mũi nó đã nằm sẵn trên môi rồi.

Lỗ mũi mình vẫn như xưa nằm trên môi. Tức là nói lên ý khi mà Thần Quang tìm tâm vọng tưởng không thấy thì lúc đó cái chân thật nằm bên cạnh đó.

Lỗ mũi nằm ở trên gần sát cái môi. Như vậy để thấy cái cửa vào từ khi không thấy vọng tưởng, hay vọng tưởng lặng xuống hết thì cái chân thật hiện tiền, chớ không xa xôi gì. Như vậy các ngài đều nói về cái lỗ mũi. Lỗ mũi quan trọng như vậy đó. Vì vậy câu chuyện nắm lỗ mũi kéo là câu chuyện thật là kỳ diệu. 

Chánh Văn:

“Tướng quốc Bùi Hưu vào viếng chùa Khai Nguyên, thấy trên vách chùa có vẽ hình Cao tăng, Bùi Hưu hỏi Thiền sư Hy Vận (Hoàng Bá):

- Hình thấy tại đây, Cao tăng ở đâu?

Sư cất giọng trong thanh gọi:

- Bùi Hưu!

Bùi Hưu:

- Dạ!

Sư hỏi:

- Ở đâu?

Bùi Hưu liền ngộ được hạt châu trên búi tóc.”

Chúng ta đến thăm nhà người bạn, vừa ấn nút chuông điện ngoài cổng, liền có người mở cửa, bao nhiêu lần cũng thế. Chúng ta biết chắc chắn rằng nhà này có người gác cửa thường trực. Cũng vậy, nơi tai chúng ta nếu không có cái linh tri thường trực, khi động làm sao có phản ứng kịp thời. Ở đây vừa gọi liền đáp, không có phút giây chờ đợi nghĩ suy gì cả. Cho đến đang lúc ngủ say, bỗng có tiếng gọi to cũng giật mình thức giấc. Càng thấy rõ cái linh tri nơi tai chúng ta không khi nào vắng mặt. Chỉ khi thức các cơ quan hoạt động thì nó sáng, lúc ngủ các cơ quan đóng bít thì nó mờ. Cái linh tri này mới thật là Chủ nhân ông hay “Bộ mặt thật xưa nay” của chúng ta. Chúng ta quên lửng ông chủ, cứ chạy theo khách trần bên ngoài. Một bề quên mình theo vật, nên mãi trầm luân sanh tử. Đang lúc hoạt động lăng xăng, có người hỏi: cái gì là ông chủ, chúng ta bàng hoàng sửng sốt không biết đáp thế nào. Thế là, hằng ngày chúng ta nói sống vì mình, lo cho mình, mà quả thật chúng ta đã mất mình. Nếu biết rõ ông chủ của mình, chúng ta mới dám nói thật sống, bằng không biết ông chủ thế nào, làm sao nói rằng mình đang sống được. Có hoạt động có sống cũng chỉ là cuộc sống vay mượn mà thôi.

Ông Bùi Hưu thấy hình Cao tăng mà không biết Cao tăng ở đâu. Đó là tâm trạng quên mất ông chủ, đang thao thức dò tầm. Một tiếng gọi của Thiền sư Hy Vận, dường như một tiếng sét ngang tai, khiến ông bất chợt ứng thanh “dạ”, chồng thêm một câu hỏi “ở đâu”, hốt nhiên ông sáng mắt. Ông chủ đã lâu ông băn khoăn thắc mắc kiếm tìm, bất chợt hiện lồ lộ trước mắt. Hạt châu quí trong búi tóc của nhà vua, trong kinh Pháp Hoa, chỉ dành tặng riêng cho vị tướng quân có công to nhất, hôm nay ông nhận được. Cái cao cả quí báu nhất trong đời sống con người là ông chủ. Nhà không có chủ là nhà hoang, xác thân không nhận ra ông chủ là xác thân rỗng. Vì thế, mục đích duy nhất của Phật, Tổ là chỉ cho chúng ta nhận ra ông chủ. Ông chủ ấy hằng có mặt nơi tai, mắt... chúng ta, chỉ khéo nhận liền thấy.

Giảng:

Câu chuyện này quý vị thấy vừa đơn giản, vừa lạ lùng.

Ông Bùi Hưu là Tướng Quốc đời Đường, tới chùa Khai Nguyên, thấy vẽ hình các vị cao tăng hồi xưa trên vách chùa, cũng như mình bây giờ vô chùa thấy vẽ hình Bồ tát, La Hán. Thấy vậy, ông mới hỏi thầy trụ trì: Hình cao tăng ở đây mà cao tăng ở đâu?

Thầy trụ trì bí, không biết trả lời. Ông Bùi Hưu hỏi: Ở đây có Thiền sư không? - Dạ có. Xin mời Thiền sư ra cho tôi hỏi một câu.

Ngài Hoàng Bá lúc đó đang ẩn trong chúng, nghe mời thì Ngài ra. Bùi Hưu cũng lặp lại câu hỏi đó, ông nói có vẻ khiêm nhượng: "Vừa rồi tôi có hỏi một câu mà thầy trụ trì tiếc lời, không trả lời cho tôi xứng đáng. Xin mời Thiền sư đáp dùm cho tôi câu hỏi này". Ngài Hoàng Bá nói: Ông hỏi đi.

Bùi Hưu hỏi: Hình cao tăng ở đây mà cao tăng ở đâu?

Ý câu hỏi, hình chỉ là tướng mạo, vậy cái thật của người đó ở đâu? Nếu mình thì trả lời sao? Hoặc là về Cực lạc hoặc là lên thiên đường hoặc ở đâu, chớ mình đâu có cái tài lạ đời như ngài Hoàng Bá. Ngài không trả lời ở đâu mà kêu to: "Bùi Hưu!". Khi kêu to thì tự nhiên ông "Dạ!". Khi ông dạ rồi, Ngài hỏi: "Ở đâu?". Ông ngộ liền.

Lạ đời không? Lối dạy đạo khác hơn chúng ta, không phải hỏi rồi theo câu hỏi mà trả lời ngay. Ông Bùi Hưu thắc mắc cái hình ở đó mà con người thật ở đâu? Cũng như mình ở đây mà cái chân thật của mình ở đâu? Bất thần Ngài kêu "Bùi Hưu", ông phát lên "Dạ". Khi dạ có suy nghĩ gì không? - Không. Vừa kêu liền dạ. Ngài hỏi: "Ở đâu?", ông nhận ra ngay đây rồi. Như vậy thể chân thật sẵn sàng ở đây, cho nên vừa kêu liền ứng thinh "Dạ". Nếu không sẵn sàng làm sao vừa kêu liền "Dạ" được. Như vậy là ông biết được cao tăng ở đâu. Cao tăng ở đâu hay là bản lai diện mục của ông ở đâu?

Những câu chuyện thật là đơn sơ mà có giá trị vô cùng vô tận.

Hồi nãy Mã Tổ kéo lỗ mũi để nhận ra cái biết không bao giờ mất. Bây giờ kêu thì dạ liền, tức là cái nghe nó đã sẵn sàng ở ông rồi còn hỏi ở đâu nữa làm chi?

Tất cả những vị Thiền sư thường có cái thuật kêu như vậy đó. Thí dụ như ngài Huệ Trung Quốc Sư cũng vậy, kêu: Thị giả. Thị giả: Dạ. Ba lần kêu ba lần dạ, Ngài nói một câu: "Tưởng ta cô phụ ngươi, không ngờ ngươi cô phụ ta". Ai hiểu nổi? Kêu đâu dạ đó mà nói cô phụ, cô phụ chỗ nào? Nếu kêu mà không dạ, làm thinh thì nói là cô phụ. Ngài kêu như kiểu kêu của ngài Hoàng Bá để cho nhận ra cái chân thật của chính mình, mà ông thị giả cứ nghe kêu liền dạ thôi, không nhận ra cái thật của mình nên Ngài nói cô phụ Ngài.

Như vậy yếu chỉ của các Thiền sư là chỉ cho mình nhận ra cái chân thật hiển lộ ra từ nơi tai, nơi mắt của mình mà mình lại quên cái đó, mình cứ chấp cái suy nghĩ trong đầu, trong trán là mình, có phải là oan uổng không?

Cho nên mới nói dùng thí dụ, bây giờ chúng ta tới nhà người quen, vừa ấn nút chuông điện reng là có người ra mở cửa liền. Mà lần nào tới vừa ấn nút chuông điện thì có người ra mở cửa, như vậy là nhà có người gác cửa thường trực chứ gì. Nếu không gác cửa thường trực làm sao ấn chuông có người mở cửa? Cũng vậy, vừa kêu đáp liền tức là có người thường trực rồi, đâu có vắng. Như vậy hỏi ở đâu chi nữa, nó đã hiện sờ sờ đây rồi. Hết sức là rõ ràng, không còn nghi ngờ gì nữa.

Tới đoạn sau. Nếu Ngài kêu mà dạ không thì chắc chưa ngộ, thêm câu hỏi: "Ở đâu?" làm ông giật mình. "Ở đâu?" là câu hay nhất. Hồi trước ông tưởng nơi nào trên thượng giới đâu đâu, bây giờ vừa kêu ứng ra dạ. Hỏi ở đâu? Biết ở đây chứ đâu còn nói gì nữa. Đó là chuyện hết sức rõ ràng.

Bây giờ đi xa hơn một chút, bao nhiêu người sống trên nhân gian này, ai cũng nói tôi ráng lo cho mình được no ấm. Lo cho mình, sống vì mình, cái gì cũng vì mình hết. Hỏi mình là cái gì thì nói cái gì là mình? Nếu thân này là mình thì thân này do đất nước gió lửa hợp lại thành. Đất là những chất cứng như móng tay. Móng tay lâu lâu nó dài, chúng ta cắt bỏ dưới bàn, cái đó phải mình không? - Không. Những sợi tóc trên đầu nhổ bỏ dưới bàn có phải mình không? - Không. Chất cứng đâu phải mình. Rồi máu, máu lâu lâu đứt tay nhỏ một ít giọt, hỏi phải mình không? - Không. Nếu mồ hôi ra hứng chừng một chung nhỏ, hỏi phải mình không? - Không. Hơi thở vô ra hỏi phải mình đó không? - Không. Như vậy hỏi cái gì là mình đây? Không trả lời được.

Còn cái suy nghĩ, nếu nói suy nghĩ là mình thì có khi suy nghĩ, có khi không suy nghĩ. Khi có suy nghĩ là mình thì khi không suy nghĩ là cái gì? Như vậy, nói mình sống vì mình mà không biết mình là cái gì. Thí dụ như cái nhà có chủ thì nhà đó đàng hoàng, có người ra vô săn sóc kỹ càng, còn nhà không chủ thì nhà đó gọi là nhà hoang. Bây giờ mình không biết thân mình là cái gì, tức là không biết ông chủ. Không có ông chủ thì có đi, có đứng, có hoạt động thì cũng như không có chủ, như là nhà hoang vậy. Nhà hoang thì vô giá trị, không có nghĩa gì hết. Như vậy thì giá trị quan trọng là phải biết ông chủ ngay trong nhà này.

Cái gì là mình?

Người ta học đạo mà không biết cái gì là mình hết. Tu mà không biết mình là cái gì thì làm sao tu? Vì vậy cho nên biết được mình là cái tối quan trọng. Nếu không biết mình thì mọi hành động của mình trở thành rỗng, thành ra vô nghĩa. Biết được mình là một điều tối thiết yếu.

Như vậy, chúng ta không lôi thôi chỉ cho những cái biết bên ngoài là đủ, mà chúng ta phải nhận ngay mình là cái gì. Biết được mình thì mới có thể sống chân thật. Còn nếu không biết có mình thì cái sống đó không có nghĩa. Nếu sống vì ăn uống, nhai nuốt vô rồi nay mai nó cũng ra mất, có cái gì đâu là thật. Sống vì cái gì rồi cũng không quan trọng, có cái chân thật mà không biết thật là đáng thương. Cho nên người học đạo mà chưa nhận ra được cái chân thật thì không bao giờ tâm an ổn. Lòng bất an bởi vì mình cố tìm cái vĩnh cửu thoát ly sanh tử, mà cái vĩnh cửu tìm không được, rồi sống với cái tạm bợ này, rồi chết thì ai cũng như ai, người đời với người tu cũng giống hệt nhau, không hơn kém gì hết. Cho nên nhận ra cái chân thật mới là quý báu, mới là siêu xuất thế gian. Nếu chưa nhận ra thì chưa có gì quý báu và siêu xuất.

Đây thêm một vị Thiền sư nữa.

Chánh Văn: 

“Thiền sư Sư Bị (Huyền Sa) ngồi trong thất, có vị Tăng đứng hầu, nhìn xuống nền thất có một điểm trắng, Sư hỏi Tăng:

- Ông thấy chăng?

Tăng thưa:

- Thấy.

Sư bảo:

- Ta thấy ông cũng thấy, tại sao có người ngộ người không ngộ?”

Hai thầy trò đồng thấy một điểm trắng trên nền thất, tại sao thầy ngộ mà trò lại mê? Bởi vì trò thấy chỉ thấy cái bị thấy, cho nên quên mất ông chủ tức là mê. Thầy thấy mà không chạy theo cái bị thấy, nhân cái bị thấy nhận ra ông chủ hay thấy của chính mình, tức là ngộ. Đồng một cảnh mà mê ngộ khác nhau, gốc tại quên mình theo vật hay nhân vật nhận được mình. Ở hội Linh Sơn đức Phật đưa cành hoa sen lên, Tôn giả Ca-diếp miệng cười chúm chím, đồng ý nghĩa này. Chư Tổ Thiền tông tận dụng mọi phương tiện, nào đưa tay, dựng phất tử... khiến người nhận được ông chủ qua cái thấy của mình.

Ngay khi thấy sự vật, tâm không bị dấy một niệm nào, chính khi ấy “bộ mặt thật xưa nay” bày hiện. Vì có thấy là có biết, cái biết không do suy nghĩ, không do phân biệt, mới là cái biết chân thật, thoát ngoài đối đãi sanh diệt. Cái biết do suy nghĩ, do phân biệt đều là động, tạm có rồi không, làm sao nói chân thật được. Cái suy nghĩ phân biệt lặng xuống, tánh giác tri hiện bày rỡ rỡ, nó mới thật là ông chủ muôn đời của ta. Giác tri mà lặng lẽ thì làm gì có sanh diệt. Chỗ này còn nghi ngờ gì, không nói nó chân thật vĩnh cửu. Thế nên, mắt thấy sắc tướng mà nhận được tánh thấy của mình, là ngộ đạo, trái lại là mê.

Giảng:

Tới đây dẫn thêm một câu chuyện về tánh thấy. Hai thầy trò nhìn một vật, cũng như quý vị cùng với chúng tôi nhìn đồng hồ thì ai cũng thấy như nhau. Nhưng có người thấy nói đồng hồ đẹp hoặc xấu, có giá trị hoặc không giá trị. Còn có người thấy chỉ thấy cái đồng hồ, tức là biết mình có cái hay thấy. Nhớ cái hay thấy mà không nhớ cái đồng hồ giá trị hay không giá trị, đẹp hay xấu, quan trọng là nhớ mình có cái hay thấy đồng hồ.

Như vậy hai người thấy khác nhau ở chỗ nào?

Nhớ đồng hồ có giá trị hay không giá trị, đẹp hay xấu là bị cảnh chuyển, tức là chạy theo cảnh. Còn thấy cái đồng hồ mình liền nhớ ông chủ nơi mình thì mình chuyển được vật. Cho nên nhân thấy vật mà nhớ mình có ông chủ, còn thấy vật khởi niệm tốt xấu v.v... là bị vật nó lôi, hai cái khác nhau. Nhớ lại mình là ngộ, còn bị vật chuyển tức là mê. Mê tức là quên ông chủ, ngộ tức là nhớ ông chủ.

Thành ra chữ mê ngộ không có gì lạ hết. Mê là quên, ngộ là nhớ. Nhớ lại ông chủ là ngộ, quên ông chủ là mê. Nó đơn giản như vậy. Cái tu của mình hết sức dễ dàng. Nghĩa là chúng ta thấy hết tất cả mà không chạy theo tất cả. Nghĩa là thấy người, thấy vật, thấy hết mà mình cứ nhớ mình có cái hằng đang thấy, là ông chủ nơi mình. Còn người người, cảnh cảnh không làm mờ mắt được. Như vậy là mình chuyển được vật. Còn nếu thấy mà cứ phân biệt người này đẹp, người kia xấu, cái này hay, cái kia dở thì bị vật chuyển. Nếu mình chuyển được vật là đồng Như Lai, còn bị vật chuyển thì đồng với chúng sanh, luân hồi sanh tử.

Quý vị thấy khó không? Không khó chút nào hết. Chỉ có cái là đừng chạy ra ngoài, nghĩa là không phải cấm không cho thấy. Trong nhà thiền nói rằng thấy mà như đui. Nghĩa là thấy hết tất cả mà nhớ mình có cái hay thấy. Thí dụ như bây giờ tôi thấy tất cả quý vị mà tôi nhớ tôi có ông chủ đang thấy, vậy thôi. Tôi không nhớ người này có lỗ mũi dài, người kia có lỗ mũi ngắn, người này lỗ mũi cao, người kia lỗ mũi thấp. Tôi không nhớ cái đó mà tôi chỉ nhớ tôi có cái hay thấy tất cả quý vị là tôi chuyển được vật. Thành ra thấy mà không nhớ người nào ra làm sao thì cũng như không thấy, gọi là thấy như mù. Mù mà không phải là mù. Như vậy là tôi chuyển được vật. Còn nếu thấy mà phân biệt cô đó mặt tròn, cô kia mặt vuông gì gì thì đó là bị vật chuyển rồi. Như vậy là người đó bị đi trong luân hồi. Chỉ có một cái thấy mà khác nhau chỗ đó. Cho nên hai thầy trò đồng thấy mà người mê, người ngộ.

Còn chuyện này nữa, ngài Bảo Phước là huynh đệ với ngài Huyền Sa. Ngài Bảo Phước đang ngồi trong phương trượng, có vị tăng đứng hầu. Ngài xoay qua nói: "Tại sao tâm ông thô vậy?". - "Thưa Hòa thượng thô chỗ nào?". Ngài làm thinh, Ngài lượm cục đất đưa: "Ông đem cục đất này quăng ngoài kia". Ông tăng cầm cục đất quăng đi, trở vào hỏi: "Bạch Hòa thượng, thô chỗ nào?". Ngài nói: "Tại vì động tới là mờ mịt cho nên ta nói tâm ông thô".

Quý vị thấy vị tăng đó thô hay không thô? Giả sử như quý vị ở trường hợp đó có thô không? Hồi nãy Thiền sư Đạo Ngộ nói ông đưa chén trà ta tiếp, ông chào ta cúi đầu, đó là chỉ tâm yếu. Bây giờ Thiền sư Bảo Phước bảo đem cục đất ra ngoài quăng, tâm yếu trong đó mà không biết, trở vào hỏi: "Con thô chỗ nào?". Không phải thô là gì? Lúc nào cũng mờ mịt không biết gì hết. Lối nói đó khéo lạ. Mình nghe mình không biết thô chỗ nào. Giả sử quý vị bị quở như vậy chắc cũng tức lắm. Đưa cục đất tưởng đâu cục đất dơ Ngài bảo quăng, ai ngờ đâu quăng rồi cũng còn bực trong bụng: "Con thô chỗ nào?". Đó gọi là bị đầu lưỡi các Hòa thượng lừa. 

Mục Lục