Chìa Khóa Học Phật - Phần Giảng Giải
Chương Hai: THẾ NÀO LÀ PHẬT PHÁP?
Chánh Văn: Phật pháp là những điều đức Phật chứng kiến được sau khi giác ngộ, đem chỗ chứng kiến ấy nói lại để cho mọi người hiểu biết để dứt sạch mê lầm và giác ngộ như Ngài. Chính từ chỗ chứng kiến của Ngài nói ra, không phải do suy tư phỏng đoán như nhiều triết thuyết khác. Vì thế, Phật pháp là những chân lý, tùy trình độ của người, Phật nói có sai biệt: Chân lý phổ biến, Chân lý tương đối, Chân lý tuyệt đối. Giảng: Có nhiều người không hiểu đạo Phật, họ phê bình đạo Phật là bi quan yếm thế, là mê tín dị đoan v.v... Đó là tại vì họ không hiểu, chớ sự thật đạo Phật không phải như vậy. Tại sao? Vì đức Phật là người giác ngộ. Đạo là phương pháp hay là một con đường, Phật là giác ngộ. Nói tới đạo Phật tức là nói tới phương pháp giác ngộ. Giác ngộ thì không có mê tín, mê tín thì không phải giác ngộ. Mê thì không phải giác mà giác thì không phải mê, nó rõ ràng như vậy. Nói đạo Phật là mê tín, đó là lầm. Mê tín là tại một số cá nhân họ làm sai, họ đi theo sự mê tín, chứ đạo Phật chân chánh không phải là mê tín. Đạo Phật giác ngộ thì mê tín chỗ nào? Tại sao nói đạo Phật không mê tín? Bởi vì đức Phật do sau khi giác ngộ chứng kiến sự thật rồi mới nói. Chứng kiến tức là thấy được, nhận được mà nói chứ không phải nghe hoặc suy nghĩ mà nói. Có những triết gia người ta suy luận, nói ra những lý thuyết chúng ta nghe thấy hay, nhưng mà sau đó có khi sai. Còn đức Phật không suy luận mà nói, cái gì Ngài thấy được, nhận được Ngài mới nói. Cho nên trong kinh Trung A Hàm có bài kinh đức Phật nói rằng: "Ta thấy chúng sanh sanh tử luân hồi như người ngồi trên tầng lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy kẻ đi bên đông, người đi bên tây, thấy rõ ràng". Những lời Phật nói đó do thấy mà nói chớ không phải do suy luận mà nói. Cho nên ở đây, chúng tôi dùng chữ chứng kiến chớ không dùng chữ suy luận. Mà đã chứng kiến thì đó là sự thật, là chân lý chớ không phải là chuyện mê mờ. Nếu mà lý luận với nhau bằng suy tưởng thì ngày nay mình lý luận có lý nhưng mai mốt nó lại sai đi. Còn cái thấy được nói ra thì không bao giờ sai, vì đó là lẽ thật. Phật pháp là chân lý chớ không phải là chuyện mơ màng. Trong những chân lý đó, tôi nêu lên ba chân lý: 1. Chân lý phổ biến là chân lý trùm khắp hết. 2. Chân lý tương đối có hai mặt: phải quấy, tối sáng v.v... luôn luôn đối đãi nhau. 3. Chân lý tuyệt đối là cứu cánh. Học Phật phải hiểu ba chân lý này. *** I. CHÂN LÝ PHỔ BIẾN Chánh Văn: Chân lý phổ biến là những sự thật hiện hữu tràn đầy trên vạn vật. Những sự thật ấy đức Phật chỉ ra, chúng ta chịu khó khảo sát một cách tinh tế sẽ thấy hiển nhiên không sai lệch. Trước hết nhìn theo dòng thời gian, Phật nói: 1. NHÂN QUẢ Tất cả sự vật có hình tướng, có tác động đều hình thành bằng nhân quả. Nhân quả trùm khắp cả mọi sự vật, không một sự vật nào có thể thoát ngoài nhân quả được. Song trong nhân đến quả có chánh nhân, trợ nhân, thuận nhân, nghịch nhân nên trở thành vấn đề phức tạp. Lại có những trường hợp vì nhân quá nhỏ nhiệm, nhân xa xôi khiến người ta không thể thấy, không thể nhớ mà biến thành khó hiểu. Chúng ta thử nhìn từ lãnh vực thực vật, động vật... để minh chứng lý nhân quả. Giảng: Đứng về thời gian, đức Phật nói chân lý phổ biến là nhân quả. Chân lý phổ biến tức là trên tất cả sự vật hiện hữu này, cái nào cũng nằm trong đó hết. Ở nhân gian này quý vị thử chỉ coi cái nào có hình tướng mà không phải nhân quả. Nếu có một cái có hình tướng mà không phải nhân quả là lời đức Phật nói chưa phải là chân lý. Bởi vì nói về nhân quả thì thế gian này không có gì thoát ngoài nhân quả được hết. Chúng ta nói cho tôi ăn cơm là nói quả. Hỏi tại sao đòi ăn cơm? Trả lời vì đói bụng. Đói bụng là nhân, đòi ăn cơm là quả. Tất cả lý luận ở thế gian đều luôn luôn đặt câu hỏi tại sao? Vì sao? Đều là nhân quả hết. Từ cái nhân đưa tới cái quả, cái gì xảy ra cũng đều có nguyên nhân rồi mới có quả. Như cái nhà là quả. Hỏi tại sao có cái nhà? Do có thợ nề, có thợ mộc, có gỗ, có xi măng, có gạch... ráp lại thành cái nhà. Những cái đó là nhân, thành cái nhà là quả. Hỏi tại sao có con người? Cha mẹ là nhân, thành con người là quả. Nói tóm lại trên thế gian này không có cái gì ngoài nhân quả hết. Cho tới một lời nói, một ý nghĩ cũng đều có nhân quả nữa. Mình mở miệng nói cái gì cũng đều có nhân quả, chớ không phải khi không mà có. Nghĩa là thành một câu nói, thành một lý luận đều nằm trong nhân quả. Thí dụ như nói tôi không thích chị đó. Hỏi tại sao không thích là hỏi cái nhân, trả lời lý do này lý do kia tức là chỉ cái nhân. Thế gian hay nói tại cái này, tại cái kia. Tại là chỉ cái nhân. Thí dụ chúng ta đi ngã té. Ngã té là cái quả. Hỏi tại sao té là tìm cái nhân. Hoặc vấp cục đất, hoặc bị ai xô, hoặc cái gì đó; có cái nhân nó mới té. Như vậy quý vị thấy ở thế gian này có cái gì thoát ngoài nhân quả đâu. Từ ngôn ngữ nói năng, hành động cho tới sự vật đều không ngoài nhân quả. Có cái cây tức nhiên là có cái hạt, từ cái hạt lên cây. Nếu không có cái hạt cũng là cái nhánh, không phải cái nhánh cũng là cái lá nẩy lên cái cây. Có cái nhân rồi mới thành quả, chớ không bao giờ khi không mà có. Ai nói khi không mà có là không hiểu nhân quả. Cho nên người Phật tử tránh nói thế này, như gặp cái gì tốt thì nói: May quá, tôi được cái này. Gặp cái xấu thì nói: Rủi quá, tôi bị cái đó. Nếu nói may nói rủi thì không có nhân quả. Không có may rủi mà là được cái gì tốt là phước. Tôi có phước được điều này. Tại sao có phước? Vì biết làm lành nên được quả lành. Gặp điều khổ thì hỏi tại sao khổ? Tại vì làm ác nên bị quả khổ. Có nhân xấu bị quả xấu, có nhân tốt được quả tốt. Đó là có nhân quả có quả chớ không phải khi không mà có. Nhưng người ta không chịu nhớ nguyên nhân mà cứ gặp cái tốt thì nói may, gặp cái xấu thì nói rủi, đó là phủ nhận nhân quả, là trái với đạo lý của đạo Phật. Tôi xin hỏi quý vị tất cả thế gian này có cái gì thoát ngoài nhân quả không? Nếu có một cái gì thoát ngoài nhân quả thì nhân quả Phật nói không phải là chân lý. Còn nếu không có cái gì thoát ngoài nhân quả thì nhân quả là chân lý chứ gì? Hiện tại như vậy, vị lai như vậy, quá khứ như vậy. Hồi xưa do nhân quả mà có cả thế gian, ngày nay cũng do nhân quả mà có cả thế gian, ngày mai cũng vậy. Quá khứ, hiện tại, vị lai đều như vậy không phải chân lý là gì? Bây giờ quý vị thử tìm hết tất cả hiện tượng ở đây coi. Như mưa, hỏi tại sao mưa? Hồi xưa chúng ta nói trời mưa, bây giờ khoa học giải thích do hơi nước bốc lên. Hơi nước là nhân, đọng lại rơi xuống thành mưa là quả. Như vậy nhân quả là khoa học chớ không phải mê tín. Hoặc thấy sấm sét, hồi xưa hỏi tại sao có sấm sét? Chúng ta không hiểu nhân quả nên nói thiên lôi đánh, bây giờ khoa học giải thích do điện âm điện dương chạm nhau nên có sấm sét. Từ cái quả sấm sét tìm ra cái nhân là điện âm điện dương chạm nhau. Như vậy chúng ta thấy lý nhân quả rất khoa học chớ không phải mê tín. Tin nhân quả là chánh tín, không tin nhân quả là mê tín. Hầu hết Phật tử không tin nhân quả mà tin những chuyện viển vông đâu đâu. Về y học, hồi xưa chúng ta thấy một người trùm mền run bây bẩy thì nói chắc bị bà thủy bà hỏa gì quở rồi. Nhưng bây giờ khoa học có chấp nhận bà thủy bà hỏa đâu, mà biết hiện tượng đó là rét. Rét là có vi trùng, có vi trùng rét mới có hiện tượng run. Vi trùng là nhân, hiện tượng run rẩy là quả. Trên cái quả nào cũng có cái nhân hết. Nếu không có nguyên nhân thì thầy thuốc bó tay, làm sao trị được. Thầy thuốc luôn tìm nguyên nhân. Trị hết nguyên nhân thì quả tự hết. Như vậy tất cả ở thế gian này quý vị thấy khoa học phát minh cũng là nhân quả chứ gì? Từ những hiện tượng là quả phăng lần tới nhân, rồi cái nhân này tìm tới cái nhân vi tế. Nhân vi tế chừng nào thì phát minh sâu chừng nấy. Thí dụ từ những hạt bụi li ti rồi tìm cho tới những nguyên tử, điện tử, v.v... Đó là từ cái quả phăng tới cái nhân hết sức nhỏ li ti ở trong. Như vậy chúng ta mới thấy nhân quả rất khoa học, rất thực tế, không phải là chuyện mê tín dị đoan. Nhân quả trùm cả thế gian, không có gì thoát ngoài hết. Chúng tôi gọi nhân quả là chân lý phổ biến. Nhưng nói nhân quả là đứng về thời gian. Thí dụ bây giờ mình té thì mình biết trước đó một phút hai phút, một giây hai giây có cái gì xảy ra nên mới có hiện tượng té, hoặc vấp cục đất hoặc bị ai xô, luôn luôn nhân trước quả sau, đó là chiều thời gian. Bây giờ dẫn chứng để quý vị thấy rõ hơn nhân quả qua các lãnh vực. Chánh Văn: a) Về thực vật. Không một thứ cây loại cỏ nào mà chẳng từ nhân thành quả. Hoặc có thứ nhân của nó là hạt, có thứ nhân nó là lá, có thứ nhân nó là ngọn, có thứ nhân nó là rễ, là thân. Từ cái nhân ấy nẩy mầm sanh trưởng thành cây, đơm hoa, kết quả. Không có loài thực vật nào ngẫu nhiên không nhân thành quả. Giảng: Đứng về lãnh vực thực vật, chúng ta nhìn thấy có cây nào mà ngẫu nhiên có đâu, chính hồi xưa tôi có viết một bài "nhân hoa mà quả cỏ". Nghe câu nói ngược ngạo không? Lúc đó chúng tôi ở thất có người Phật tử đem cho tôi một ít hạt hoa Đà Lạt mà tôi thích. Tôi xới đất, làm cỏ sạch sẽ sẵn sàng rồi tôi ương hạt hoa. Ít bữa thấy lên lấm tấm tôi mừng nghĩ hoa lên rồi, nhưng không ngờ là cỏ. Cho nên tôi viết bài "nhân hoa mà quả cỏ". Tại sao nhân quả nó ngược ngạo vậy? Tại vì khi tôi ương hạt hoa nhưng không khéo giữ kiến. Kiến thích hạt hoa cho nên tha hết, ở dưới đất đã có hạt cỏ sẵn. Tối ngày tôi tưới hạt cỏ mọc lên, thấy mầm lên tôi tưởng là hoa, không ngờ là cỏ. Bài đó tôi viết để nhắc nhở những người khi làm điều lành là gieo nhân lành, nhưng mà lâu lâu người ta trả lại cái dữ cho mình, khiến mình tức tối! Nhưng mà không ngờ khi làm điều lành đó, mình không khéo giữ. Thí dụ có những người thường giúp đỡ người khác lại ỷ mình là người có công giúp đỡ nên lên mặt chị cả khinh khi người ta. Cái đó mình đâu có để ý. Lâu ngày người ta nói chị đó phách lối, họ ghét. Thành ra làm lành mà bị quả dữ, chừng đó mình hối hận. Hỏi tại sao? Mình cho rằng lý nhân quả không đúng mà không ngờ tại không khéo gìn giữ. Cũng như tôi, tại không khéo giữ kiến cho nên gieo nhân hoa mà được quả cỏ. Quý vị phải hiểu nhân quả cho kỹ như vậy, chớ không thì chúng ta bị lầm, từ cái nhân tốt mà mắc cái quả xấu. Chính bây giờ có nhiều Phật tử cũng trách như vậy đó. Tại sao tôi ăn ở hiền lành, tôi biết đi chùa, cúng Phật, biết tụng kinh mà gặp tai nạn hoài? Nói vậy có nghĩa là không tin nhân quả rồi. Tôi làm lành, ở tốt như vậy lẽ ra gặp điều lành điều tốt, sao gặp điều xấu điều dữ? Đó là những điều mà sau này tôi sẽ giải thích. Chánh Văn: Ví dụ, hạt cam là nhân, lên thành cây cam có trái cam là quả. Hạt ớt là nhân, lên thành cây ớt có trái ớt là quả... Có nhân ắt phải có quả. Giảng: Câu này người ta thường hay lầm, nói nhân nào thì quả nấy, có nhân ắt phải có quả. Như vậy coi như là xác định, nhưng có hai ba trường hợp; như mấy người biết tháp cây, nhân cây này mà tháp qua nhánh khác thì thành cây khác. Như vậy nhân này mà quả khác thì biết mình có thể chuyển được. Nhân quả có thể chuyển được cho nên nói: Chánh Văn: Song trong ấy còn tùy thuộc thuận nhân hay nghịch nhân, mà thành quả hay bất thành quả. Giảng: Nếu nhân gặp những điều kiện thuận thì nó thành quả, còn nếu gặp điều kiện nghịch thì nó không thành quả. Nói như vậy thì quý vị nên hiểu rõ hơn về lý nhân quả. Trong khi gieo nhân lành mình phải nuôi dưỡng, phải bảo vệ nó mới thành quả lành. Khi gieo nhân lành rồi, không biết nuôi dưỡng nhiều khi quả lành nó mất mình không hay. Đó là trường hợp tôi nói hồi nãy. Nhân hoa mà quả cỏ vì không biết bảo vệ, không biết gìn giữ. Hoặc ngược lại, thí dụ mình ương hạt cam mới lên mầm, mình vun phân tưới nước thì nó tốt. Nhưng bất thần có con dế cắn ngang thì nó hư. Con dế đối với cái nhân này là nghịch nhân, cây cam không thành được. Tuy có hạt, tuy nảy mầm mà không thể thành cây cam vì bị nghịch nhân. Cũng vậy, chúng ta làm lành muốn có quả lành, nhưng nửa chừng chúng ta làm ngược lại thì quả lành bị mất. Hoặc chúng ta làm ác, lý đáng có quả ác, nhưng nửa chừng chúng ta làm ngược lại thì quả ác mất. Cho nên nhân quả linh động chớ không nhất định cứng khằn. Nếu cứng khằn thì chúng ta làm dữ, cái dữ sẽ tới với chúng ta, chúng ta làm lành, cái lành nó tới với chúng ta. Nhưng trong khi làm lành, nửa chừng chúng ta làm dữ thì quả lành mất. Có hai gia đình ở gần nhau, gia đình ông A thì cố tình làm lành đối với gia đình ông B. Ngày nào cũng sẵn sàng mọi phương tiện giúp đỡ, giúp được năm năm, ba năm bất thần ông B làm mất lòng ông A. Ông A không dằn được, nổi nóng chửi đánh. Khi ông A chửi đánh thì cái ơn mấy năm nay của ông B còn không? Mất hết. Như vậy cái nhân lành ông A vun bón mấy năm mà chỉ có cái nhân dữ ngược lại trong vòng vài tiếng đồng hồ thì mất quả lành. Nhân lành bị hoại, nhân dữ có bị hoại không? Cũng bị hoại. Nếu chúng ta xử sự với người láng giềng xấu, đó là gieo nhân dữ rồi. Bây giờ người láng giềng gặp tai nạn rất trầm trọng, chúng ta hy sinh tận lực giúp đỡ, khi qua tai nạn đó họ còn giận chúng ta không? - Hết. Những cái xấu của chúng ta ngày xưa ngang đó họ xóa liền. Như vậy cái nhân dữ cũng được chuyển. Nhân lành bị chuyển thì nhân dữ cũng được chuyển. Do đó mới nói vấn đề tu, nếu không chuyển được thì tu làm gì? Chúng ta lỡ làm điều gì dở rồi thì làm những điều lành ngược lại để chuyển cái dở. Giá trị tu là ở chỗ đó. Từ nhân này chuyển qua nhân khác. Từ nhân xấu chuyển thành quả tốt. Từ quả xấu chuyển lần lần để không thành quả xấu nữa. Hiểu được lẽ đó rồi chúng ta mới thấy giá trị của sự tu. Nhân có thuận và nghịch. Nghịch có hai chiều: nghịch của cái thiện và nghịch của cái ác. Nếu làm thiện mà có cái ác nghịch lại thì cái thiện đó mất; làm ác mà có cái thiện nghịch lại thì cái ác đó mất. Nhân quả có nhiều thứ như vậy. Chánh Văn: Như có hạt cam là chánh nhân, có phân, đất, nước, ánh nắng... là trợ nhân, được săn sóc vun quén là thuận nhân, hạt cam ấy sẽ nẩy mầm sanh trưởng thành cây cam và có trái cam không sai. Ngược lại, có hạt cam mà thiếu phân đất nước ánh nắng... thì không thể nẩy mầm sanh cây cam, huống là có trái cam. Hoặc có hạt cam, có phân đất nước ánh nắng... mà thiếu người săn sóc vun quén thì có thể có cây cam mà khó mong có quả cam. Hoặc có hạt cam, có phân đất nước ánh nắng... có người vun quén, song bị sâu trùng ăn gốc, đục trong thân cây - nghịch nhân - thì cây cam ấy sẽ bị hoại. Hoặc có trường hợp dường như không nhân mà thành quả. Như chúng ta dọn sạch một thửa đất để trồng trọt. Thửa đất ấy, chúng ta cuốc không còn một gốc cỏ, lượm sạch không sót một cọng cỏ, ta tự cho là đất thật sạch. Thế mà, qua một vài trận mưa, chúng ta thấy từ lòng đất cỏ vọt lên lấm tấm đều hết. Cỏ này từ đâu đến? Phải chăng đất sanh cỏ? Thật không phải thế, bởi những hạt cỏ li ti đã nằm sẵn trong lòng đất mà mắt chúng ta không thể thấy. Gặp mưa, chúng nẩy mầm lên cây là lý đương nhiên. Đây là vì nhân nhỏ nhiệm chúng ta không thấy, nên có những nhận xét sai lầm. Giảng: Thường thường những người quê hay nói đất sanh cỏ. Sự thật là tại vì hạt cỏ nhỏ quá, nó nằm li ti không thấy được cho nên cỏ lên người ta không biết nên nói đất sanh cỏ. Nếu đất sanh cỏ thì trái với nhân quả rồi. Hạt cỏ sanh chớ không phải đất sanh cỏ, nhưng vì nó nhỏ nhiệm quá, không thể thấy được rồi tưởng như vậy. Chánh Văn: Lại có trường hợp khác, một hôm Tăng chúng trong chùa chúng tôi ra thăm vườn, bẻ được hai trái mãng cầu xiêm, từ hai cây mãng cầu cách nhau độ bốn thước tây. Khi xẻ ra ăn, cả chúng đều ngạc nhiên, trố mắt nhìn nhau, đặt câu hỏi: Tại sao cùng một loại, chung một thửa đất, mà trái này ngọt, trái kia chua? Mỗi người đều có giả thuyết khác nhau, riêng tôi chỉ cười thôi. Cuối cùng, tôi giải thích cho họ nghe: Sở dĩ hai cây cùng một loại, chung một thửa đất mà mùi vị khác nhau, do trước kia tôi lấy hạt của hai trái mãng cầu chua và ngọt ương trồng, nên kết quả như thế. Đó là vì nhân xa xôi khiến người ta không thể biết, nên sanh nghi ngờ. Bởi những lý do trên, nhân quả trở thành tế nhị phức tạp, nếu người nhận xét nông nổi đơn thuần thì khó thấu triệt được. Giảng: Thật ra nhân quả rất nhỏ nhiệm, rất là xa xôi khó mà biết, khó mà thấy hết. Bởi không biết, không thấy hết cho nên người ta cứ nói đơn giản bằng cách đổ thừa cái này đổ thừa cái nọ, may quá rủi quá. Cứ đổ thừa chứ không biết từ cái gì mà ra. Tại sao có sự tốt đó? Tại sao có sự xấu đó? Không tìm hết được, không thấu triệt được cho nên mới nói may mới nói rủi. Nói may nói rủi là hết tìm. Còn nếu nói cái này có cái nhân xa xôi gì đó, để từ từ mình tìm ra. Như vậy nhân quả nó phức tạp chứ không phải đơn giản như người ta tưởng. Chánh Văn: b) Về động vật. Tất cả loài động vật hình thành cũng từ nhân đến quả. Có loài động vật nhân là trứng, có loài động vật nhân từ bào thai, có loài động vật nhân từ loài khác hóa ra. Không có loài động vật nào tự nhiên mà có, song có cũng tùy thuộc chánh nhân, trợ nhân, thuận nhân, nghịch nhân, sự sanh trưởng của nó được hoàn hảo hay suy kém, hoặc hoại diệt chẳng hạn. Đây là nói nhân quả trên vạn vật có hình tướng. Chúng ta có thể khẳng định rằng “tất cả loài sanh vật trên quả địa cầu và cả quả địa cầu này đều nằm gọn trong lòng nhân quả”. Giảng: Quý vị thấy chẳng những con người, sự vật có mặt trên quả địa cầu này là từ nhân quả, mà kể cả quả địa cầu cũng từ nhân quả luôn. Giả sử có người hỏi quả địa cầu này từ cái gì mà thành? Trả lời sao? Hồi xưa người ta nói Tạo hóa tạo ra. Sự thật căn cứ vào khoa học mà nói thì trái đất chúng ta ở cũng từ những hạt bụi li ti hợp thành. Tóm lại đất, nước, gió, lửa hợp lại thành quả địa cầu. Vì người ta không hiểu tột cái nhân đó, rồi tự đặt ra giả thuyết. Như giả thuyết ông Hóa Công hay ông Tạo hóa làm ra là tùy theo giả thuyết người ta đặt, chứ sự thật đều là nhân quả. Như vậy từ con người, sự vật và quả địa cầu đều là nhân quả. Chánh Văn: c) Về tác động. Chẳng những nhân quả trùm khắp mọi loài mọi vật có hình tướng, mà nhân quả cũng bao gồm mọi tạo tác mọi hành động của mọi loài. Ở đây chúng ta chú mục vào loài người để thấy rõ nhân quả. Những tác động về thân miệng của chúng ta có tánh cách lợi người, đem lại nguồn an vui cho người, là tác động lành. Nó sẽ mang lại cho ta sự an vui ngay hiện tại, hoặc sau này, gọi là quả lành. Những tác động có tánh cách thương tổn khiến người đau khổ, gọi là nhân dữ. Nó sẽ chuốc lấy sự đau khổ trở về ta ngay hiện tại, hoặc mai kia, gọi là quả dữ. Ví dụ, chúng ta ra tay cứu giúp người hoạn nạn nguy khốn, qua cơn hoạn nạn họ vui vẻ cám ơn ta. Chính khi thấy họ an ổn, lòng chúng ta cũng vui lâng lâng. Mặc dù chúng ta không mong gì hơn nữa, song người thọ ơn bao giờ cũng nghĩ đến đền đáp, nếu gặp cơ hội tốt, họ sẽ đền ơn ta. Ngược lại, chúng ta làm thương tổn khiến người đau khổ, họ sẽ bực tức oán hờn phản kháng ta. Chính khi ấy lòng chúng ta cũng bị bất an. Nếu mai kia họ gặp dịp thuận tiện sẽ trả thù, khiến chúng ta bị khổ đau hơn, họ mới vừa lòng. Đó là nhân lành gặt quả lành, nhân dữ chịu quả dữ. Nhưng cũng có những trường hợp dường như ngoại lệ, mà thật không phải. Như chúng ta đã gieo nhân lành hoặc dữ, mà suốt đời không gặt được kết quả; vì nhân chưa chín muồi mà báo thân chúng ta đã hoại, nhân ấy sẽ còn tiếp tục theo thời gian chớ không mất. Hoặc có khi chúng ta không gây nhân lại chịu quả. Vì nhân xa xôi còn lưu lại, chúng ta không nhớ. Giảng: Tới chỗ này tôi nói rõ để quý vị thấy tường tận nhân quả. Nhân quả có cái thấy ngay trong hiện tại, nhưng có cái thấy có nhân mà không có quả. Thí dụ một người có giá trị và hoàn cảnh tương đương với mình mà mình chửi họ, đương nhiên họ chửi lại mình. Còn nếu người giá trị họ kém hơn mình, thế lực họ yếu hơn mình, mình chửi họ, họ không dám chửi lại. Họ nhịn nhưng mà họ căm tức! Căm hờn để đó, chờ cơ hội giá trị họ bằng mình hoặc hơn mình thì lúc đó họ trả lại. Như vậy có quả liền sau khi gây nhân, có quả lại xa chẳng có liền, mình tưởng như có nhân mà không có quả. Có nhân thì sớm muộn gì cũng có quả, trừ khi mình biết tạo nghịch duyên làm cho nó tan hoại đi thì không có. Thí dụ mình nghe anh Xoài nói anh Mít có ý xấu với mình rồi mình nổi tức lên, khi gặp anh Mít mình liền mắng chửi. Khi mắng chửi anh Mít, anh ấy còn yếu thế hơn nên anh nhịn nhưng trong lòng căm hờn. Cái nhân thù hằn đó anh chưa quên được, anh định chờ cơ hội trả thù. Nhưng một hôm mình nghe lại chuyện hôm trước là lầm, bây giờ mình ăn năn hối hận, việc làm đó là việc bậy, nghe sai mà mình mắng chửi người ta như vậy là mình lỗi. Liền tới xin lỗi, hôm đó tôi mắng chửi anh vì tôi nghe sai, tôi có lỗi, xin anh tha lỗi. Gan dạ xin lỗi thì cái căm hờn đó mất đi. Thái độ biết hối hận sửa đổi đó có thể chuyển quả xấu trở thành không có quả, tức là làm một cái ngược lại để phá tan cái quả xấu đi. Có khi cái nhân nhỏ mà cái quả to, có khi cái nhân to mà quả nhỏ tùy theo hành động của mình. Từ nhân tới quả mình biết làm cho tăng trưởng hay làm cho tiêu mòn, đó là cái khéo của mình. Biết nhân quả thì chúng ta lúc nào cũng tu hết, bởi vì mỗi tác động của mình đều có quả. Tác động lành thì có quả lành, tác động dữ thì có quả dữ. Chúng ta biết tránh cái nhân dữ thì giờ phút nào cũng biết tu. Chánh Văn: Tác động của ý còn thầm lặng bên trong chưa phát lộ ra, song nó rất nguy hiểm. Vì thân miệng đều do nó chủ động sai khiến. Nó dấy nhân lành thì thân miệng theo đó tạo nhân lành, nó dấy nhân dữ thì thân miệng theo đó tạo nhân dữ. Cho nên, người hiểu lẽ nhân quả đối với tác động của ý, phải dè dặt tối đa. Tác động của ý có nhân quả cũng y hệt thân miệng. Tuy nhiên, nhân quả, không phải đơn giản như nhiều người đã hiểu “gây nhân lành được quả lành, tạo nhân dữ bị quả dữ”. Vẫn có những trường hợp dường như trái lại. Bởi vì nhân quả là một dòng biến động theo thời gian. Thời gian có quá khứ, hiện tại, vị lai thì nhân quả không thể chặn một quãng mà đoán định được. Chúng ta muốn hiểu thấu đáo nhân quả phải căn cứ vào ba thời mà khảo sát. Nắm chắc lý nhân quả, chúng ta sẽ có sức tự tín mãnh liệt, vì không còn lệ thuộc vào sức thiêng liêng bên ngoài. Chúng ta tự nhận là chủ nhân ông toàn cả cuộc đời của mình. Nhân quả là dòng biến động sanh diệt tiếp nối, nên nó là hiện thân của Vô thường. Vì vô thường nên mãi lăn lộn trong vòng sanh diệt, cũng là thành quả của luân hồi. Chủ thuyết nhân quả không phải cố định cứng khằng, mà linh động thăng giáng, tùy theo sự đủ thiếu các nhân của nó. Người học Phật nhận chắc lý nhân quả, là đã có căn bản vững vàng trên đường tiến tu. Đồng thời cũng gạt phắt những thuyết mê tín vu vơ như: đồng bóng, bói xăm, tướng số, may rủi... Vì biết rõ mọi tác động đẹp xấu của chúng ta, sẽ cải tạo xây dựng một cuộc đời vui khổ trong hiện tại và vị lai. Còn băn khoăn trông đợi, thắc mắc điều gì mà phải đi coi bói tướng số? Thế là, chúng ta can đảm nhận chịu mọi trách nhiệm hay dở do mình gây nên, không còn oán hờn kêu than chi cả. Cũng phá tan những bệnh chấp: định mạng, nhất nhân, vô nhân. Vì biết rõ vạn vật trên thế gian không có cái gì cố định, duy nhất, ngẫu nhiên, mà đều do nhân quả hình thành. Giảng Quý vị thấy ứng dụng đúng lý nhân quả thì có mê tín không? - Không. Chúng ta hiểu nhân quả thì phải hiểu qua ba thời gian. Vì đã nói nhân quả là căn cứ trên thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai. Cái nhân từ quá khứ, hiện tại, vị lai. Cái nhân từ quá khứ, cái quả trong hiện tại; cái nhân trong hiện tại, cái quả trong vị lai. Nó luôn luôn chia ra ba thời như vậy chớ không phải cái nhân liền cái quả. Có cái gần thì tạo nhân giây phút trước, quả theo giây phút sau. Có cái nhân tạo một, hai năm trước mà quả năm, mười năm sau. Thí dụ bây giờ ta đem đậu xanh ương trồng, chỉ có hơn hai tháng là có đậu. Nhưng bây giờ chúng ta đem hạt xoài ương thì mấy tháng có xoài? Đồng thời ương đậu xanh và hạt xoài mà kết quả không đồng thời. Chỉ cần hai tháng sau là có đậu xanh, nhưng phải ba bốn năm sau mới có trái xoài, nếu mình khéo săn sóc. Như vậy nhân quả không cố định cái nào như cái ấy. Nhiều người thấy sao người này làm lành lâu lâu gặp điều lành, còn mình làm lành sao không gặp, rồi đâm ra buồn. Vì nhân quả nó sai biệt. Có khi nhân quả hiện tại còn chịu ảnh hưởng của quá khứ nữa. Tuy hiện tại làm lành, nhưng mà nhân ác quá khứ còn nhiều quá. Nhân lành trong hiện tại nó chưa đến quả, mà cái quả ác của quá khứ nó đến thì làm sao đây? Quả ác của quá khứ nó đến tức nhiên là gặp điều dữ rồi. Chúng ta chỉ nhớ nhân lành hiện tại của mình, không nhớ nhân dữ quá khứ, rồi đổ thừa sao làm lành mà gặp điều dữ hoài, như vậy nhân quả e không đúng. Đó là tại vì chúng ta chỉ nhớ từ hồi mình lớn lên tới giờ, còn về trước đâu có nhớ, nhất là quá khứ nhiều đời. Cho nên hiện tại tuy làm lành mà có khi không gặp quả lành. Vì sao? Vì quả dữ của quá khứ còn, chưa trả hết. Có khi làm lành liền bị quả dữ. Thí dụ có người làm ra đồng nào thì được hưởng đồng nấy, có người làm ra tiền mà họ không được hưởng gì hết. Tại sao? Làm ra cứ lo trả nợ. Những người làm ra được hưởng là tại họ không thiếu nợ. Lúc trước họ không thiếu nợ, giờ làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu, thật nhẹ nhàng. Còn có người đã thiếu nợ mấy năm về trước, bây giờ có tiền không hưởng được, vì chủ nợ đòi phải lo trả nợ. Hiểu như vậy rồi chúng ta làm lành mà không gặp lành có buồn không? Nếu chưa gặp lành thì cái lành còn đó chứ mất đi đâu. Bây giờ gặp dữ là cái dữ của quá khứ nên sẵn sàng trả. Khi nhân dữ hết rồi, quả lành tới thì mình hưởng. Chớ nhân dữ của quá khứ không chịu trả thì quả lành hiện tại này mình có hưởng được không? Quá khứ còn làm sao mà hưởng trọn vẹn. Cũng như làm ra tiền mà mình còn thiếu nợ, mình không chịu trả rồi cứ ngồi đó mà hưởng thì không được, vì chủ nợ đòi. Chỉ khi nào trả hết nợ cũ rồi thì mới hưởng trọn vẹn, không ai phiền hà mình hết. Biết rõ nhân quả thì cái gì thuộc về quá khứ mình không nhớ, nhưng nó tới thì sẵn sàng nhận, biết rằng vui khổ đến đều có nhân quả hết. Cái vui là nhân lành của thuở xưa, cái khổ là nhân dữ của thuở xưa. Như vậy cái gì tới mình cũng sẵn sàng chấp nhận để trả, đó là người biết ứng dụng nhân quả, biết sống đúng nhân quả. Còn nếu gặp khổ mình không chịu, gặp vui thì thích thú, đó là mình không biết sống theo nhân quả, tức là không vui lòng trả quả của quá khứ. Người sống theo nhân quả là tự mình hoàn toàn làm chủ mình chứ không lệ thuộc vào ai hết. Mình tạo nhân lành, được hưởng quả lành. Mình gây nhân dữ thì chịu quả dữ. Mình khổ mình vui là tại mình chứ không tại ai hết. Mình là chủ nhân ông tạo nhân tạo quả. Tự mình làm chủ thì còn đi hỏi mấy ông thầy bói làm gì nữa. Hỏi thầy bói tức là không tin mình là chủ. Ông thầy bói nói chuyện trên trời dưới đất đâu đâu. Nếu biết rằng việc lành việc dữ tới đều do mình làm ra. Hằng ngày mình cứ làm lành đi thì cái quả lành sẽ đến, đi hỏi ai làm gì? Một lần đi tới ông thầy bói tốn năm đồng, mười đồng. Thay vì năm mười đồng để coi bói, chúng ta mua vài ổ bánh mì cho mấy đứa nghèo đói ăn, có phước mà khỏi lo gì hết và thấy rõ ràng ngày nay mình đã làm lành. Còn coi thầy bói, ông nói đúng thì không nói gì, còn nói sai mình lo thêm nữa. Cho nên người ta nói: Tay cầm tiền quý bo bo Đem cho thầy bói mang lo vào mình. Thầy bói nói thế này thế kia chỉ thêm lo chứ không có lợi gì hết. Người hiểu nhân quả thì hằng ngày cứ tạo nhân lành là sẽ được hưởng quả lành. Cứ tạo, cứ bồi bổ nhân lành mãi thì làm gì không có quả lành. Còn bây giờ đi coi thầy bói chỉ là chuyện vô ích, mà người ta chịu cái vô ích đó hơn là thực tế. Cho nên hiểu nhân quả thì mới thấy chúng ta là chủ nhân ông của tất cả khổ vui. Chúng ta là chủ, chịu khổ chịu vui là do mình tạo chớ không do ai hết. Cho nên đừng trách, đừng oán, đừng hờn, đừng giận. Gặp khổ là cười, nói hồi xưa đã tạo thì bây giờ phải trả. Còn gặp vui cũng đừng vui thái quá. Đây không có nghĩa là mình cố chấp theo định mệnh khoanh tay mà trả, vừa trả quả cũ vừa tạo nhân lành trong hiện tại. Hiện tại luôn luôn vươn lên chứ không cố chấp theo định mệnh, giàu là do tuổi giàu, nghèo là do tuổi nghèo, rồi khoanh tay chịu. Không phải vậy. Nghèo là do nhân xấu đời trước, nhưng hiện tại cứ cố gắng làm tốt đi, sau chúng ta sẽ tốt, chứ có gì đâu mà cam chịu. Cho nên hiểu được nhân quả là chúng ta linh động, hiểu biết, chứ không phải là bó tay gọi là thúc thủ đầu hàng. Lúc nào cũng cố gắng vươn lên, bao giờ cũng thấy mình có quyền quyết định số phận của mình, khổ vui do mình chứ không phải do ai hết. Như vậy, quý vị thấy học Phật là tạo sức mạnh, chứ không phải đầu hàng vô điều kiện. Đó là mới nói sơ sơ nhân quả mà đã thấy mạnh như vậy rồi. Mục Lục
|
Chìa Khóa Học Phật - Phần Giảng Giải
|
Chương Hai: THẾ NÀO LÀ PHẬT PHÁP?