Chìa Khóa Học Phật - Phần Giảng Giải
Chương Hai: THẾ NÀO LÀ PHẬT PHÁP? (tt7)
Chánh Văn: Trong các kinh còn đầy dẫy những đoạn chỉ dạy Chân Lý Tuyệt Đối này, chỉn e dẫn lắm thêm rườm, chúng ta hãy bước sang lãnh vực Thiền sư. Trước tiên là bài thuyết pháp kỳ diệu của Tổ Huệ Năng: Sau khi khai ngộ, được Ngũ Tổ truyền y bát bảo trở về phương Nam, Tổ đi đến ngọn Đại Dữu bị Huệ Minh đuổi theo kịp. Tổ để y bát trên tảng đá vào rừng ẩn. Huệ Minh đến gặp y bát, song giở lên không nổi, gọi: - Hành giả! Tôi đến đây vì pháp, không phải vì y bát. Tổ nghe gọi, bước ra ngồi trên tảng đá bảo: - Nếu ông vì pháp, hãy bình tâm nghe tôi nói. Huệ Minh đứng yên lặng giây lâu. Tổ bảo: - KHÔNG NGHĨ THIỆN, KHÔNG NGHĨ ÁC, CÁI GÌ LÀ BẢN LAI DIỆN MỤC CỦA THƯỢNG TỌA MINH? Nghe câu này, Huệ Minh liền đại ngộ. Bài thuyết pháp ngắn, gọn này phản ảnh trung thực một sự nghiệp to tát Tổ vừa lãnh hội nơi Ngũ Tổ và đang mang nó về phương Nam. Chính đó cũng là bản hoài của chư Phật. Bản lai diện mục là “bộ mặt thật xưa nay” của chúng ta, nó là tên khác của Đạo, của Pháp thân, của Phật tánh, của Chân tâm... Chúng ta có bộ mặt thật muôn đời không đổi, mà tự bỏ quên nó, bám vào thân hình tạm bợ cho là thật mình. Cái thân hình đang chấp giữ là thật mình, nó thay đổi từng phút giây, hợp tan không nhất định. Thế thì lấy gì bảo chứng cho nó là thật? Quả thật một hình tướng biến thiên, một hợp thể tạm bợ. Nó có, mà không thật có vì luôn luôn đổi thay, còn mà không thật còn vì hợp tan chẳng định. Nếu chấp chặt nó là ta, thật là cái ta tạm bợ làm sao! Hoặc có người biết thân này giả dối, chính cái tâm biết thiện, biết ác, biết phải, biết quấy, tốt xấu... mới thật là ta. Song cái tâm phân biệt hai bên, cũng là đổi thay tạm bợ. Vì vừa dấy nghĩ về lành về dữ thì nó đã sanh diệt rồi. Nếu buông hết mọi vấn đề đối đãi, tìm lại nó thì tung tích vắng tanh. Thế là, ta ở đâu? Mất rồi sao? Thật bối rối vô cùng, nếu chấp cái suy nghĩ làm ta. Chỉ vì chấp thân tạm bợ, tâm giả dối làm ta nên muôn kiếp trôi lăn trong sanh diệt, gọi là luân hồi. Ngay nơi thân tạm bợ, tâm giả dối, chúng ta nhận ra “bộ mặt thật xưa nay” của mình và sống hẳn với nó, dòng sanh diệt ngang đấy liền dừng, kiếp luân hồi đến đây giải thoát. “Bộ mặt thật xưa nay” chưa từng bị sanh diệt, một thực thể không do duyên hợp, làm gì bị đổi thay, tan hợp? Nó vẫn có và thường còn mà chúng ta quên đi, gọi là vô minh, nhận ra nó không còn lầm quên nữa, gọi là giác ngộ. Muốn chỉ “Bộ mặt thật xưa nay” cho người, không có cách kỳ diệu nào bằng câu “không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh” của Lục Tổ. Người ta cứ thắc mắc “cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh” mà chẳng nhớ “không nghĩ thiện, không nghĩ ác”, là tối quan trọng. Chính khi “không nghĩ thiện, không nghĩ ác” là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh chớ gì. Bởi khi tâm bình thường tỉnh táo, không dấy nghĩ thiện ác, phải quấy..., quả là “bộ mặt thật xưa nay” xuất hiện. Vừa dấy nghĩ thiện ác... là động, là chạy theo sanh diệt, “bộ mặt thật xưa nay” bị khuất lấp mất rồi. Cho nên qua câu nói này, Thượng tọa Minh khéo thấy được “bộ mặt thật xưa nay” của mình, gọi là ngộ đạo. Giảng: Đây là một đoạn chúng tôi dẫn câu chuyện Thượng tọa Minh đuổi theo tổ Huệ Năng để giành lại y bát và sau đó xin tổ Huệ Năng chỉ pháp cho, thì Tổ chỉ dạy một câu mà Thượng tọa Minh liền đại ngộ. Bây giờ thôi giải thích kỹ lại phần lịch sử của câu chuyện. Quý vị ai có đọc sử của 33 vị Tổ hay là đọc kinh Pháp Bảo Đàn thì biết Lục tổ Huệ Năng là người như thế nào rồi. Ở đây chúng ta có một cái nghi ngờ, tại sao Lục tổ Huệ Năng ở trong hội Ngũ tổ Hoằng Nhẫn cả thảy là năm trăm chúng tăng mà Lục tổ là một cư sĩ chưa xuất gia, chưa cạo tóc, tới ở mới được mấy tháng mà được Ngũ tổ truyền y bát? Sau khi được Ngũ tổ truyền y bát, Ngài lén mang đi trong ban đêm nhưng vẫn bị chúng đuổi theo để lấy lại. Quý vị có ngạc nhiên tại sao hồi xưa được truyền y bát rồi mà cũng có người ganh tỵ muốn giật trở lại? Như vậy hồi xưa cũng có người xấu nữa sao? Nói chuyện xấu của người xưa để đem lại chuyện hiện nay cho chúng ta. Giả sử ở tại Tu viện Chơn Không này, trong chúng có năm bảy người, người nào cũng tu lâu, cũng học một, hai khóa và đều ở đây cũng lâu hết. Mà bất thần hôm nào đó có ông cư sĩ tới ở chừng vài tháng, tôi giao hết chuyện chùa chiền này cho ông cư sĩ thì quý vị có bằng lòng không? - Không. Ai cũng bất bình hết. Cũng vậy tại sao ở trong hội chúng xuất gia năm trăm người theo Ngài học đạo bao nhiêu năm mà bây giờ Ngài giao hết y bát cho ông cư sĩ mang đi. Ông cư sĩ đó lại là người nhà quê ở miền Lãnh Nam, giống như miền cao nguyên đồng bào Thượng ở Việt Nam vậy. Y bát là sự nghiệp của Tổ Tổ truyền nhau, đâu phải là việc thường mà lại giao cho một ông cư sĩ quê mùa, không tức sao được! Cho nên tăng chúng phẫn nộ đuổi theo để cướp lại y bát. Tổ làm như vậy e mất uy tín của chúng hết, năm trăm vị mà không có ai xứng đáng sao? Việc đó mới nghe thấy như vô lý, nếu mình ở trong hội đó mình cũng bực mình như thường. Nhưng Tổ không có lầm, tại mình phàm tục nên mình lầm. Tổ biết lựa người, mình thì quen cái tính ỷ công tu thôi. Ở chùa nhiều năm tu chớ không thấy được người nào là đại căn cơ. Huệ Minh nói: "Hành giả! Tôi tới đây vì pháp không vì y bát". Hành giả, chữ Hán chỉ cho cư sĩ. Huệ Minh giở y bát lên mà giở không được, bây giờ thấy có cái gì đó huyền bí, trong lòng tự khâm phục cho nên mới đổi quan niệm cướp lại y bát trở thành cầu pháp. Ngài thì rất tử tế. Ngài nghĩ bụng nếu ông giành y bát thì tôi để y bát trên tảng đá đó cứ ôm về đi. Bây giờ không giành y bát, muốn cầu pháp thì tôi nói pháp cho nghe. Cho nên Ngài bảo Huệ Minh rằng: Nếu ông vì pháp hãy bình tâm nghe tôi nói. Bình tâm nghĩa là đứng yên, tâm lặng lẽ. Khi Huệ Minh đứng bình tâm giây lâu rồi, Ngài nói: "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?". Bản lai diện mục, như tôi đã nói với quý vị là chân lý tuyệt đối sẵn có nơi mọi chúng ta. Tại sao nói bản lai diện mục? Bản là xưa, lai là nay, diện là mặt, mục là con mắt; tức là mắt, mặt chân thật xưa nay của chính mình. Mắt mặt sẵn có từ xưa đến giờ của chính mình, cái đó mới thật là mình. Còn mặt mày hiện giờ có phải là mình không? - Không. Hiện giờ ai cũng nghĩ mặt mày này là tôi chứ ai. Mặt tôi thế này thế kia, nhưng vì chúng ta nhận cái mặt mày hiện giờ mà quên mất mặt mày chân thật từ thuở xưa đến nay. Mặt mày chân thật đó, tạm nói mặt mày chứ nó không có mặt mày. Nghĩa là sao? Nghĩa là nó không có tướng mạo hoặc là mặt tròn, mặt xẹp hay mặt dài gì, mà nó chỉ là cái biết chân thật của chính mình. Cái biết chân thật đó có chỗ gọi là Tánh giác, tức là Phật tánh. Chỗ khác gọi là Chân tâm, là cái biết chân thật của chính mình. Hoặc các chỗ khác gọi là Pháp thân nơi tất cả chúng ta. Ở đây gọi là Bản lai diện mục. Bây giờ Ngài muốn chỉ "bản lai diện mục" cho Thượng tọa Minh. Ngài bảo rằng: Im lặng đừng nghĩ gì hết. Hỏi: "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?". Tất cả quý vị ở đây giả sử tôi hỏi câu đó có ai đại ngộ không? - Không. Vì đâu có đuổi theo mà đại ngộ. Sở dĩ đại ngộ là vì lòng thiết tha theo đuổi. Tuy Huệ Minh đuổi theo để giành y bát lại, nhưng cũng có một cái gì khao khát nên vừa nghe nói tới đó là đúng chỗ ông tìm, liền đại ngộ. Người ít khao khát, chỉ nghe kinh cho hiểu tu chớ không muốn tìm bản lai diện mục, do đó có hỏi cũng không ngộ. Có những người tu cũng muốn tìm ra lẽ thật của chính mình nhưng không có khả năng. Muốn tìm không biết đâu mà tìm, rồi thôi thông qua, cứ sống với cái thân tạm tạm đây, rồi sáu mươi, bảy mươi tuổi tắt thở là xong, không biết cái chân thật của chính mình ra sao! Đối với người biết tu, biết học Đạo, khi nào mà chưa nhận ra cái chân thật của chính mình thì lòng bất an, muốn tìm, tìm chừng nào được mới là an ổn. Chính Thượng tọa Minh nghe được câu này liền đại ngộ. Đại ngộ tức là nhận ra cái thật của chính mình mà bao nhiêu năm đang tìm kiếm. Bài thuyết pháp có một câu mà Thượng tọa Minh ngộ đạo thì kỳ diệu tới bực nào! Còn tôi nói khô cổ mấy năm nay mà chưa ai ngộ hết, cho nên tôi không có kỳ diệu chút nào hết. Ngài chỉ nói một câu mà người ngộ đạo. Vì vậy tôi cho là bài thuyết pháp kỳ diệu. Quý vị thấy bài thuyết pháp ngắn gọn này phản ánh trung thực một sự nghiệp to tát mà Lục tổ vừa lãnh hội nơi Ngũ tổ và đang mang nó về phương Nam. Theo lời dạy của Ngũ tổ phải về phương Nam để giáo hóa. Bài thuyết pháp ngắn gọn phản ánh trung thực một sự nghiệp to tát là sau khi Ngài vào thất của Ngũ tổ, nghe kinh Kim Cang đến câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" Ngài liền đại ngộ. Ngài liền nhận ra "bản lai diện mục" nơi mình, hay là nhận ra pháp thân thanh tịnh, hay thể tánh nơi mình. Cái "thể tánh" đó chúng tôi dùng danh từ ở đây gọi là "chân lý tuyệt đối". Cái thể tánh đó sẵn có ở chính mình. Vừa lãnh hội được thể tánh đó là mang sự nghiệp to tát cả đời tu của Ngài về phương Nam, bây giờ gặp người hỏi liền thổ lộ ngay cái gì mình vừa lãnh hội. Ở trước chúng ta học phần tương đối đã thấy rõ thế gian này tất cả đều sống trong cái tương đối. Nói cái gì ra cũng đều nói theo tương đối. Làm việc gì cũng làm theo tương đối. Suy nghĩ cũng đều suy nghĩ theo tương đối. Thí dụ bây giờ mỗi người muốn nói chuyện, nói vài câu thì hỏi cái đó phải hay quấy? Thành ra lời nói ra đều có ý nghĩa tìm phải quấy, hoặc hay dở, hoặc là lành dữ, luôn luôn là nằm ở hay bên. Hành động cũng vậy, hành động đó là tốt hay xấu, hành động đó là có lợi hay bất lợi v.v... Nói, làm, suy nghĩ đều nằm trong hai bên, không có cái nào thoát ngoài hai bên được. Vừa dấy niệm nghĩ là nằm trong hai bên. Cho nên Lục tổ muốn chỉ cái không mắc kẹt ở hai bên, Ngài mới bảo rằng: "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?". Nếu mình sáng thì liền thấy, không nghĩ thiện không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của chính mình? Khi không nghĩ thiện, không nghĩ ác, người ta quên cái đó mà chỉ nhớ cái vế sau: cái gì là bản lai diện mục. Cứ nhớ cái gì là bản lai diện mục hoài mà không nhớ chính khi không nghĩ thiện, không nghĩ ác, ngay đó là cái chân thật. Bây giờ sở dĩ quý vị nghe mà không nhận được là tại sao? Là vì chúng ta cứ thừa nhận cái nghĩ thiện nghĩ ác là tâm của chúng ta. Có người nào không nói cái đó là tâm mình không? - Không. Tâm tôi nghĩ thế này, tâm tôi nghĩ thế kia, đó là tâm của tôi. Nhưng khi tôi nghĩ thì tôi có tâm, rồi lúc tôi không nghĩ thì tôi không có tâm sao? Nếu thật là tâm của tôi thì khi tôi nghĩ lành, nghĩ dữ, nghĩ tốt, nghĩ xấu thì tôi có tâm, lúc ngồi chơi không nghĩ gì hết, lúc đó tôi không có tâm sao? Định nghĩa rõ tâm là "tri" tức là "biết". Khi không nghĩ quý vị có biết không? Nếu không nghĩ thì chỉ trong đầu không nghĩ thôi chứ lỗ tai nghe tiếng cũng biết tiếng, con mắt thấy cảnh cũng biết cảnh, gió xúc chạm vào thân cũng biết mát. Như vậy toàn thể đều là "tri" hết. Tại sao chúng ta lại quên cái đó, mà chỉ cho cái nghĩ lành nghĩ dữ, nghĩ tốt nghĩ xấu mới là tâm mình, còn tất cả cái kia lại bỏ quên? Vì vậy Tổ chỉ thẳng, buông hết những cái nghĩ đó đi thì cái chân thật hiện ra! "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?". Chính chỗ đó chúng ta mới thấy Tổ không giấu giếm, Tổ chỉ thẳng nhưng chúng ta vì si mê quen rồi, cứ chấp cái suy nghĩ là tâm mình, cho nên khi bỏ cái suy nghĩ, sợ quá, thấy như cái gì đó nó lạ, nó khác hơn tất cả những cái thường. Bây giờ chúng tôi chỉ cho quý vị thấy ở đoạn dưới và bàn cho quý vị nghe những cái này. Về thân, thân chúng ta là cái giả dối, cái thân này là tướng sanh diệt. Hôm trước vua Ba Tư Nặc nói thân này sanh diệt từng khoảng mười năm, sanh diệt từng khoảng một năm, sanh diệt từng khoảng mỗi tháng, sanh diệt từng ngày cho tới sanh diệt từng phút từng giây. Mà cái đã sanh diệt từng phút từng giây, cái đó thật không? - Không. Nó cứ thay đổi luôn luôn làm sao nói nó thật? Cái thật thì không đổi dời, mà cứ đổi dời thì không phải thật. Như vậy ngay nơi thân này là thân tạm bợ, do duyên hợp đổi thay từng phút từng giây. Bám vào đây nói thân này thật là lầm. Cái vọng thức phân biệt nghĩ lành, nghĩ dữ, nghĩ tốt, nghĩ xấu, nghĩ cái này rồi nghĩ cái kia, nghĩ cái nọ không dừng, nó luôn luôn đổi thay; mà đã là đổi thay thì không thật là mình. Vậy mà chấp thân là mình, chấp vọng tưởng suy nghĩ là mình. Cái mình chân thật không biết ở đâu! Chấp cái giả làm thật thì ngàn đời không biết cái thật. Bây giờ chúng ta tu là phải biết cái nào giả. Thân này là duyên hợp, là vô thường cho nên nó giả. Cái vọng tưởng này là tướng duyên hợp, đổi thay vô thường cho nên nó giả. Cái chưa từng duyên hợp và chưa từng đổi thay, cái đó không phải là giả. Quý vị thấy ngay nơi mình có cái chưa từng duyên hợp, chưa từng thay đổi không? - Dạ chưa thấy. Chúng ta nghĩ thiện nghĩ ác, cái đó là tướng duyên hợp. Còn khi chúng ta cứ "liễu liễu thường tri", tức là mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe. Có tiếng không có tiếng cũng nghe, có cảnh không cảnh cũng thấy. Có gió mát thì cảm giác gió mát, không có gió mát thì cảm giác thường. Như vậy toàn thân chúng ta có một cái "tri" mà chúng ta quên mất. Chúng ta cứ nhớ vọng tưởng phân biệt, chấp cái đó là mình, vì vậy chúng ta bị nó lôi đi trong sanh tử. Cái tướng sanh diệt của thân và cái tướng sanh diệt của tâm là hai cái đổi thay luân hồi. Chấp cái đổi thay luân hồi là mình, làm sao không đi trong luân hồi được! Ở đây Tổ muốn chỉ cho chúng ta cái chân thật chưa bao giờ luân hồi, đó là "mặt thật xưa nay" nơi mình. Mà muốn sống với cái không luân hồi đó thì không gì hơn là đừng nghĩ thiện, đừng nghĩ ác. Nói tới không nghĩ thiện, không nghĩ ác, đại đa số quý vị sẽ ngạc nhiên, vì quý vị đi chùa hay học đạo bất cứ tôn giáo nào cũng đều dạy người tín đồ của mình phải bỏ điều xấu làm điều tốt, phải bỏ điều dữ làm điều lành. Dễ hiểu quá phải không? Bởi vì làm cái xấu thì mình thành người xấu, làm cái dữ thì mình thành kẻ ác. Cho nên mình phải làm lành để thành người tốt, mình làm những điều tốt để thành người hay. Nhưng ở đây bảo bỏ luôn cái nghĩ thiện. Nghĩ ác bỏ đành rồi, nghĩ thiện cũng bỏ nữa thì còn cái gì mà tu? Quý vị nghe tới đó hoảng hốt lên, như vậy tu là tu cái gì? Người mà không nghĩ thiện chắc hết làm lành rồi! Vì bỏ cái ác còn cái thiện, giờ bỏ luôn cái thiện nữa làm sao đây? Mà nếu không làm lành sao gọi là người tu? Đó là chỗ khó, nhưng tôi sẽ giải thích. Tổ bảo bỏ cái thiện, cái ác đối đãi để chỉ cái chân thật, không đối đãi. Vì thiện ác là huân tập của hoàn cảnh bên ngoài, do người nào đó dạy mình cái này lành, cái này dữ, mình học theo đó. Những cái đó không có trước khi mình huân tập. Thí dụ hồi chúng ta mới năm, sáu tuổi, chúng ta đâu biết cái nào lành, cái nào dữ. Lớn lên được nhà trường dạy hoặc ông bà, cha mẹ dạy, hoặc xã hội dạy mới biết cái này lành, cái này dữ, cái này xấu, cái này tốt v.v... Từ đó mới biết phân biệt lành dữ, tốt xấu. Cho tới bây giờ nó quen rồi, mình cứ sống với cái phân biệt đó. Như vậy khi chúng ta đã có mặt trên nhân gian này đâu phải chúng ta đã biết cái lành, cái dữ trước. Cái biết không do huân tập bên ngoài đem vào, cái đó mới thật của mình. Còn cái do bên ngoài đem vô chứa trong đầu làm sao là của mình được! Đã là bên ngoài đem vô mà nói của mình là chuyện vô lý. Chủ yếu là đi thẳng vào "chân lý tuyệt đối", tức là cái thật nơi mình, không còn đối đãi nữa. Muốn tìm cái chân thật đó phải buông hết những cái bên ngoài đem vào. Bên ngoài vào thì đâu phải thật mình. Cái thật là mình thì cái đó phải có sẵn từ bao giờ ở nơi mình. Còn nếu từ bên ngoài đưa vào thì cái đó là cái mình học được. Chúng ta bị lầm lẫn qua những lời dạy của người khác, rồi cho cái mình học được là cái của mình. Cái mình thật, cái đó không phải học được, cái đó sẵn có từ bao giờ. Chỗ Lục tổ chỉ cho Huệ Minh là buông những cái gì huân tập được. Buông hết đi thì cái chân thật hiện ra. Quý vị buông có dễ không? Bây giờ tôi dạy tu thiền hay dạy niệm Phật là dạy quý vị "định tâm", là không nghĩ thiện, không nghĩ ác. Không nghĩ ác, còn nghĩ thiện cũng là động. Tại sao Phật dạy cái gì cũng phải định? Vì có định rồi mới có tuệ. Giới định tuệ, người tu nào cũng phải giữ giới, định được tâm mới phát sanh trí tuệ. Chủ yếu Phật dạy định để làm gì? Bởi vì chúng ta đều nghĩ theo cái sở học, cái tập tục, cái thói quen do bên ngoài huân tập. Bây giờ những cái đó chúng ta loại hết để trở về cái thật có của chính mình. Mình sống trở về được với nó rồi thì mình không bị ngoại cảnh chi phối. Không bị ngoại cảnh chi phối tức là giải thoát. Còn bị ngoại cảnh chi phối tức là mất tự do. Mà muốn được như vậy thì phải nhận ra cái nào giả, cái nào thật. Như vậy là trí tuệ, là giác ngộ; giác ngộ rồi mới được giải thoát sanh tử. Nếu không giác ngộ thì không bao giờ giải thoát sanh tử. Như vậy định là gì? Buông hết những cái giả mà lâu nay bị huân tập là định, buông hết để nhận ra cái thật của chính mình hiện có. Khi những cái giả lặng hết rồi, chừng đó mới nhận ra cái thật, chớ còn cái giả mà mình cho là mình thì ngàn đời không bao giờ thấy cái thật. Như tôi thường thí dụ, chúng ta vào nhà một người bà con, mà từ nhỏ đến lớn mình chưa tới lần nào, bây giờ tới nhà người đó. Trong nhà có mấy người, có chủ có khách lộn xộn nên khách tưởng là chủ. Khi tưởng khách là chủ thì mình có thể biết được chủ không? Đinh ninh người khách là ông chủ thì không bao giờ biết được ông chủ. Chừng nào mình phân biệt được những người khách thì mới nhận ra người chủ, chớ còn không nhận ra khách thì không bao giờ biết chủ. Nếu khách mà nhận lầm là chủ thì đại họa. Mình bây giờ đang ở trong đại họa đó. Thân này là tướng duyên hợp tạm bợ mà cho là thân thật của mình. Vọng tưởng là cái do huân tập ở ngoài đem vào mà cho là tâm thật của mình. Cả ngày sống với cái giả dối đó cho là mình thì làm gì biết được cái mình chân thật. Cho nên đức Phật nói cả thế gian này đều sống trong vô minh là vậy! Nhiều người tự cho mình là trí tuệ, là thông minh mà sự thật là đang ở trong vô minh, bởi vì chính họ không biết cái thật của mình. Vì vậy nên tôi vẫn thường nói Phật học khác hơn khoa học ở chỗ đó. Khoa học cứ tìm những cái bên ngoài để chỉ cho người ta thấy, còn Phật học thì tìm cái thật ở chính mình. Dù anh có nói được cái gì ở bên ngoài hay mấy đi nữa, mà anh quên anh thì cũng trở thành vô nghĩa. Cái giá trị chân thật là biết được chính mình. Cái đó mới là cái gốc, cái đầu mối quan trọng. Như vậy chủ yếu của đạo Phật là trở về với mình. Mà nhận ra cái thật là mình rồi thì giải quyết được mọi việc. Còn nếu không nhận được mình thì giải quyết cái gì rồi cũng ở trong lẩn quẩn loanh quanh. Quý vị thấy cả thế giới bây giờ khoa học tiến bộ biết mấy, nhưng mà nhân loại có hết khổ chưa? Cũng khổ dài dài, mà có thể khổ đậm hơn nữa. Tại sao? Tại họ không biết được họ rồi bày cái này, bày cái kia, rồi người ta lợi dụng khoa học để làm khổ cho nhau. Cho nên trở về con người thật của chính mình rồi thì mình mới có một tình thương chân thật. Quý đạo hữu, nhất là những đạo hữu khoảng sáu mươi tuổi trở lên, ai cũng có con cháu và ai cũng thương con thương cháu. Nhưng lại có người giận con cháu không thương, quý vị biết tại sao không? Tại tư tưởng con cháu không giống tư tưởng mình. Mà ở đời này, quý vị thấy có con cháu nào giống hệt như cha mẹ không? Không bao giờ nó giống hệt như mình. Tại sao vậy? Bởi vì tư tưởng là cái huân tập được. Huân tập được thì xã hội của người sáu mươi tuổi huân tập khác, xã hội của mười lăm, mười bảy tuổi huân tập khác. Mà huân tập khác thì làm sao giống nhau được? Như vậy mình đòi hỏi nó giống mình có phải là mình tham lam hay không? Cái huân tập hồi xưa mình bị nhồi vào trong đầu những cái gì đó. Bây giờ nó cũng nhồi vào trong đầu nó những cái gì đó. Hai cái nhồi khác nhau, mà bây giờ bảo giống làm sao giống được. Chỉ có một cái giống mà người ta không biết. Quý vị thấy có cái giống không? Tất cả chúng ta đều "thấy" như nhau, đều "nghe" như nhau, đều "biết" đói, "biết" lạnh như nhau, tại sao chúng ta không nhìn nhận cái giống hệt nhau đó. Nếu chúng ta biết được "cái giống hệt" đó thì tất cả huân tập này đều là giả dối, không có gì hết. Còn cái "thật" đó mọi người không khác. Chẳng những con cái giống cha mẹ mà cả thế giới đều giống hệt nhau. Cái chân thật đó thật là đồng, cho nên nói không có nam, không có nữ, không có khôn, không có dại. Tất cả đều bình đẳng như nhau. Vì vậy trong kinh Kim Cang có câu: "Thị chư pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ". Pháp này mới là bình đẳng không có cao thấp, không có nam nữ, không có ai hơn, ai thua. Còn cái cao thấp là cái sở học, cái huân tập. Người này huân tập được cái hay, xã hội cần họ thì họ có giá trị nhiều. Người kia huân tập cái dở, xã hội không cần họ thì họ có giá trị ít. Tất cả cái đó đều là cái huân tập. Người ta vin theo cái huân tập đó mà đánh giá, không thấy được cái chân thật của nhau. Bây giờ đây nếu quý vị buông hết những cái huân tập ra, tâm chỉ biết sống bằng cái chân thật của chính mình thì lúc đó có nghĩ xấu, nghĩ tốt gì đâu. Thành ra người sống trở về cái chân thật rồi thì mọi hành động, mọi ngôn ngữ đều là lành. Cũng như đức Phật nói ra đều là lành. Còn mình ở đây cố gắng nói lành rồi một hồi cũng xen cái sân ngầm ở trong hoặc cũng móc ngoéo bậy bạ, không có ngay thẳng, không có chân chính hoàn toàn. Cho nên đừng sợ rằng chúng ta buông hết thiện ác rồi, chúng ta trở thành kẻ không biết thiện ác. Chính khi chúng ta buông được rồi thì chúng ta mới thật là đại từ bi, nghĩa là thấy tất cả trên bình đẳng. Nếu có một người chưa nhận được cái chân thật thì mình rất thương, muốn làm sao cho họ thức tỉnh như mình. Vì vậy mà trong kinh Pháp Hoa, chư Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên là khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Không những một đức Phật mà tất cả chư Phật đều có một chuyện duy nhất là chỉ cho mọi người ngộ được "tri kiến Phật" của mình. Đó là lòng đại từ đại bi. Còn mình học đạo mà học trên phương diện tương đối, mình làm lành mà thấy người kia không làm lành như mình, mình không chịu, mình bực bội. Nhiều khi chính vì cái thấy muốn làm lành của mình mà mình trở thành dữ. Thí dụ ông thầy trụ trì nuôi vài chú đạo. Tối ông thầy muốn các chú đạo tụng kinh đàng hoàng. Chú đạo tụng kinh một hồi thì gục. Ông thầy thấy chú đạo thiếu nghiêm chỉnh, trước bàn Phật mà không trang nghiêm, gục lên gục xuống, ông cầm dùi mõ khỏ lên đầu chú. Như vậy ông thầy đó có đạo đức không? Thật tình ông muốn học trò đàng hoàng, lễ phép với Phật, trang nghiêm khi tụng kinh, nhưng ông thầy cầm dùi mõ khỏ lên đầu đệ tử trước Phật, ông có nghiêm chỉnh không? - Không. Như vậy nó mâu thuẫn ngay trong cái tương đối. Bởi vì mình chấp cái tương đối thì nó trở thành xấu. Còn nếu mà mình đã vượt qua cái tương đối, vượt qua tâm niệm ác rồi chỉ thuần là một lòng thanh tịnh thì cái nào cũng thiện hết. Vì vậy cho nên đừng sợ khi chúng ta buông hết tất cả vọng tưởng thiện ác là lúc đó chúng ta thành người không có đạo lý, đừng lo điều đó. Đó là tôi dẫn một câu chuyện thứ nhất, bây giờ tới câu chuyện thứ hai. Chánh Văn: Dưới đây thêm những bài thuyết pháp đơn giản bình dị mà hay tuyệt của các Thiền sư. “Thiền sư Tùng Thẩm (Triệu Châu) đến tham vấn Nam Tuyền (Phổ Nguyện), hỏi: - Thế nào là đạo? Nam Tuyền đáp: - Tâm bình thường là đạo. - Lại có thể nhằm tiến đến chăng? - Nghĩ nhằm tiến đến là trái. - Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo? - Đạo chẳng thuộc biết chẳng biết, biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không thênh thang rỗng rang đâu thể gắng nói phải quấy. Ngay câu nói này, Sư ngộ đạo.” Đạo là tên khác của Bản lai diện mục hay Pháp thân... Nó là thực thể tuyệt đối nằm sẵn nơi tâm tánh chúng ta. Chúng ta vừa dấy niệm tìm nó, tiến đến nó là trái mất rồi. Khởi nghĩ biết nó đã rơi vào vọng giác, không nghĩ biết nó để tâm mờ mờ mịt mịt lại thuộc bệnh vô ký. Dấy tâm phán đoán phải quấy càng xa với đạo. Câu TÂM BÌNH THƯỜNG LÀ ĐẠO, quả thật đã vén bức màn vô minh cho mọi người thấy được “Bộ mặt thật xưa nay” của mình rồi. Bởi khởi tâm tìm kiếm là mất bình thường, xét đoán phải quấy là mất bình thường... Chỉ tâm tỉnh táo sáng suốt mà không dấy động, mới thật TÂM BÌNH THƯỜNG. Tâm bình thường không tướng mạo, không hình dáng, thể nó thênh thang rỗng rang đồng với hư không. Thấy được tâm thể này là người đạt đạo. Giảng: Quý vị thấy nhà thiền dạy quá đơn giản. Ngài Triệu Châu Tùng Thẩm đến ngài Nam Tuyền (Phổ Nguyện) để hỏi đạo. Hỏi "thế nào là Đạo?". Ngài Nam Tuyền đáp: "Tâm bình thường là Đạo". Nghe nói tâm bình thường, đại đa số nghĩ rằng chắc là mình đi chơi, đi nhong nhong là tâm bình thường, hoặc là mình ngồi trong nhà ngó trời ngó mây, đó là tâm bình thường rồi. Nhưng thật ra tất cả tâm chúng ta đều là bất bình thường hết. Ở thế gian nói tâm bất bình thường là điên hoặc là loạn trí. Tâm vừa dấy động là bất bình thường rồi. Cũng như mặt nước phẳng lặng thì đó là mặt nước bình thường, vừa gợn sóng là bất bình thường rồi. Cho nên tâm bình thường rất đơn giản là không dấy niệm, vừa dấy một niệm là bất bình thường, tức là có nghĩ tức là có bất bình thường, chớ không phải đợi nổi giận đỏ mặt đỏ mày mới bất bình thường. Như vậy câu nói: "Tâm bình thường là Đạo" của ngài Nam Tuyền với câu "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác" của Lục tổ có khác nhau không? - Không. Không nghĩ thiện, không nghĩ ác là bình thường. Vừa dấy niệm lên là có thiện ác rồi! Thành ra lối nói dường như khác nhau mà sự thật là không khác. Vì vậy cho nên đa số chúng ta đi cầu Đạo, tìm Đạo, mà Đạo ở đâu? Trong kinh nói tìm không gặp. Mình lấy làm lạ, tại sao đi tìm mà không gặp? Vì dấy niệm tìm tức là bất bình thường; bất bình thường là mất đạo rồi, vì vậy cho nên nói tìm là không gặp. Tìm là không gặp. Như vậy rồi nói, tôi không cần tìm, tôi cứ lêu lỏng đi chơi hoài rồi cũng có Đạo, được không? Cũng không được. Chỉ có những ai biết lặng hết tâm bất bình thường, người đó sẽ thấy Đạo, chứ không thể không tìm mà được. Tìm đã không gặp, lêu lỏng chơi không tìm càng không gặp. Cho nên ở đây ngài Triệu Châu hỏi: "Lại có thể nhằm tiến đến chăng?" Thiền sư Nam Tuyền mới nói rằng: "Nghĩ nhằm tiến đến là trái rồi". Vừa nghĩ tiến lên là sai rồi. Thật ra học đạo hết sức dễ mà cũng hết sức khó. Tại sao? Nếu người không khéo nhận chân được thì nghe nói Đạo thế này rồi muốn tìm tới, tìm tới thì sai. Thành ra người học Đạo phải khéo nghe rồi buông thì đúng. Vì vậy đối với người cầu Đạo, các Tổ nói rằng: "Đi Đông đi Tây tìm đạo, không bằng nhìn lại gót chân ông". Đạo dưới gót chân mà nếu càng chạy, càng tìm thì càng xa với Đạo. Chỉ ngồi lặng lẽ nhìn lại tâm mình thì tự nhiên Đạo nó hiện tiền. Đây là chỗ rất quan trọng. Ngài Triệu Châu hỏi không nghĩ làm sao biết nó là Đạo? Thiền sư Nam Tuyền mới giải thích, Đạo chẳng thuộc biết, chẳng biết. Chữ "biết" này lạ lắm! Đạo là tánh giác, là chân tâm, là cái biết chân thật, nhưng mà vừa dấy niệm biết nó là sai. Bởi vì nó là "thể hay biết", biết Đạo tức là cái Đạo bị biết rồi. Cho nên nói rằng không thuộc biết hay chẳng biết. "Biết là vọng giác, không biết là vô ký. Như vậy, nếu thật đạt Đạo thì chẳng nghi". Nếu ai thật nhận ra thì không có nghi, chớ nói biết không biết gì cũng đều nằm trong đối đãi hết. "Ví như hư không thênh thang rỗng rang, đâu có thể gắng nói phải quấy". Như vậy thì khi chúng ta buông xả hết vọng tưởng rồi thì lúc đó tâm chúng ta ra sao? Có tướng mạo không? Quý vị diễn tả tôi coi. Bây giờ tôi hỏi lại từng giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất. Giả sử như hiện giờ quý vị buông hết những vọng tưởng đi, đừng nghĩ gì hết, lúc đó có quý vị không? - Có. Có cái thường biết không? - Có. Cái đó tướng mạo ra sao? - Không tướng mạo. Chỗ đó trong nhà Phật thường nói những chữ mà không bao giờ mình hiểu nổi. Nói rằng nó là tướng không. Nghe nói tướng không thì mình tưởng trống rỗng không có gì hết. Hư không trống rỗng mà vô tri. Cho nên nói không cũng không được, mà nói có cũng không được, có thì có tướng mạo. Bây giờ chỉ coi tướng mạo ra sao? Không có tướng mạo làm sao chỉ, cho nên nói có không được, mà nói không cũng không được. Vậy thì làm sao đây? Đó thật là cái khó nói. Khó nói mà không phải là không có. Do đó nói có cũng được, nói không cũng được; mà nói có cũng sai, nói không cũng sai. Vì vậy mà trong kinh nói chúng ta đọc không hiểu nói cái gì. "Phi hữu phi vô, diệc hữu diệc vô", nói gì cũng được hết. Bởi vì nó không có tướng mạo nên nó đồng với hư không. Nhưng mà hư không là vô tri mà nó là giác tri. Như vậy là nó khác rồi. Bây giờ nói tướng mạo làm sao, ai diễn tả được tướng mạo của nó? Nếu khởi nghĩ cái núi thì nhớ hình tướng cái núi, mình diễn tả được. Còn bây giờ không khởi nghĩ cái gì hết thì lúc đó tướng mạo ra sao? Mà nếu không có tướng mạo tức là không bị giới hạn. Cái gì có tướng mạo là có giới hạn. Cao như cái núi cũng có giới hạn. Còn cái không có tướng mạo thì lấy đâu làm giới hạn. Mà nếu không có giới hạn thì nó bao lớn? Nghĩa là nó bằng với hư không. Hư không tới đâu thì nó tới đó. Mà bằng với hư không rồi, hỏi chết đi về đâu? Nếu còn cái tâm sanh diệt có tướng mạo thì có chỗ đi. Thí dụ mình nghĩ lành thì nó đi theo đường lành, nghĩ dữ thì nó đi theo đường dữ, vì nó còn có đường đi. Buông hết cái lành dữ, tâm thênh thang, hỏi đi đâu? - Không đi đâu hết. Vì vậy mà người nào nói tôi tu cho tôi biết chết đi đâu rồi mới chịu tu, đó là người tu mong đi trong luân hồi sanh tử. Chớ còn mình nhận ra được cái tâm thênh thang đó rồi hỏi đi đâu sao được? Có nhiều người hỏi sau khi chết đi về đâu? Tổ Quy Sơn nói: "Đi làm con trâu dưới núi". Nghe vậy, nói ông già tu lâu đời quá, sao mà chết luân hồi làm con trâu? Kỳ vậy! Nhưng mà không ngờ đó là lối nói để đánh bạt cái lầm lẫn của người ta. Có người hỏi Phật: "Các vị chứng A-la-hán rồi chết đi về đâu?". Phật đáp: "Củi hết lửa tắt". Chỉ biết rằng còn duyên, còn củi còn lửa thì còn cháy, củi hết thành tro rồi thì lửa tắt chứ không nói đi đâu hết. Do đó người ta cứ nghĩ tu chứng A-la-hán rồi thành không ngơ. Nên một số người nghe nói diệt tận tưởng là hết rồi, tức là trống không. Như vậy tu mà trống không thì tôi không thèm tu. Dại gì tu rồi chết không ngơ, vậy tu làm chi cho cực thân khổ xác. Không ngờ chữ không đó nghĩa là không còn tướng mạo để dẫn đi sanh tử, chớ không phải không cái thể giác chân thật. Cái thể giác chân thật không tướng mạo, ngay bây giờ nhận ra được thì mới biết, chớ không nhận ra được thể giác này thì cứ nghi không biết chết đi về đâu. Cứ nghĩ chết đi đến chỗ sung sướng, chớ còn nói rằng chết đi rồi như củi hết lửa tắt, nghe nó buồn làm sao! Cho nên trong nhà Phật nói rằng, khi nhận được Pháp thân, sống bằng Pháp thân rồi thì báo thân, hóa thân tùy loại. Nghĩa là muốn hóa độ thiên hạ thì hiện ở cõi nào đó để giáo hóa chúng sanh. Còn muốn đi dạo chơi chỗ nào đó, thấy ai đang hoạn nạn thì hóa thân tới đó mà độ họ. Đó là báo thân hoặc hóa thân ở một cõi nào đó để giáo hóa. Vì vậy nói rằng: khi thành Phật thì Pháp thân trùm khắp không nơi chốn, trùm cả mười phương. Nói vậy làm sao tin được. Bây giờ thấy mình cao có một thước mấy, nặng mấy chục ký mà nói mình có cái tâm trùm hết mười phương, ai tin cho được. Nhưng mà sự thật có một cái to như vậy. Vì vậy mà trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật diễn tả rằng, có một quyển Kinh bằng tam thiên đại thiên thế giới vo tròn nhỏ xíu nhét vào một hạt bụi. Có người trí tuệ thấy trong hạt bụi nhỏ xíu có quyển Kinh to tướng, mới chỉ người ta đập hạt bụi này ra quyển Kinh đó, giở ra to trùm cả tam thiên đại thiên thế giới. Đó là ví dụ, danh từ chuyên môn trong kinh Hoa Nghiệm gọi là "phá vi trần xuất kinh quyển". Nghĩa là đập hạt bụi ra quyển kinh. Quyển kinh là tượng trưng cho Pháp thân hay là chân lý tuyệt đối. Cũng vậy, thân này dụ cho hạt bụi, quyển kinh dụ cho cái tâm thể này. Ai biết trong hạt bụi này có quyển Kinh đó? Chỉ có người trí tuệ là đức Phật, Ngài thấy được nên Ngài mới chỉ ngay trong hạt bụi này đập nó ra là có quyển Kinh. Đập nó ra không có nghĩa là đập đầu tự tử. Không phải vậy. Đập nó ra nghĩa là ngay trong thân này nhận ra tánh chân thật thì đầy đủ tất cả sự thật trong tam thiên đại thiên thế giới, không thiếu cái gì hết. Có nhiều người tu hành sợ mình ngu nên nói mình phải học cho nhiều, mình tu có một pháp môn, hoặc là mình cứ cắm đầu tu, nữa đâu biết gì! Sự thật không phải vậy. Nếu thật tình mình sống được với thể giác chân thật thì tất cả đều biết hết. Cho nên trong nhà thiền có một câu nói: đừng sợ Phật không biết nói pháp, mà chỉ sợ mình không được thành Phật. Có ông Phật nào không biết nói pháp không? - Không. Thành Phật rồi thì pháp nào cũng biết, chừng đó đừng sợ dốt nói pháp không được. Chỉ vì mình là chúng sanh chưa sống được với Pháp thân cho nên mình mới dốt, chớ nếu mình sống được với Pháp thân rồi thì pháp nào mình cũng nói được hết. Vì vậy trong Kinh nói: Tâm thể trùm khắp hay là Pháp thân đầy khắp mười phương không phải là chuyện nói rỗng, mà đó là một lẽ thật. Chính vì chúng ta mê muội quá, nhận cái thân giả là mình, nhận cái vọng tưởng giả là tâm mình, nên quên cái thể chân thật thênh thang rộng lớn đó. Cái thể chân thật đó không có tướng mạo, chúng ta ai cũng có, cũng đều trùm khắp cả mười phương, vậy mà không chướng ngại nhau. Bởi vì nó đâu có tướng mạo mà chướng ngại. Như vậy câu dạy của Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện với câu dạy của Lục Tổ không khác. Người xưa khi đạt Đạo rồi thì nói không khác nhau.
Mục Lục
|
Chìa Khóa Học Phật - Phần Giảng Giải
|
Chương Hai: THẾ NÀO LÀ PHẬT PHÁP? (tt7)