Thiền Tông Việt Nam
Chìa Khóa Học Phật - Phần Giảng Giải
Chương Hai: THẾ NÀO LÀ PHẬT PHÁP? (tt1)

2. DUYÊN SANH

Chánh Văn:

Nhìn về mặt không gian, vạn vật đều do các duyên chung hợp thành hình. Cho nên nói “các pháp từ duyên sanh”. Duyên là chỉ cho nhiều phần tử tổ hợp thành một vật thể. Vật thể không tự có, phải do nhiều nguyên tố hay nhiều phần tử chung hợp. Nói tới duyên sanh là không chấp nhận sự đơn thuần, mà khẳng định là hợp thể. Vạn vật có hình tướng trên quả địa cầu và kể luôn quả địa cầu đều do các duyên chung hợp thành hình. Cho đến những thứ không có hình tướng, chỉ có tác động, cũng thuộc duyên sanh.

Giảng:

Đó là mở đề phần duyên sanh. Trong này quý vị đọc thấy có hơi lạ một chút. Bởi sao? Ở trên nói về nhân quả thì tất cả sự vật có mặt ở trên thế gian này có hình có tướng đều do nhân quả mà thành. Đến đây nói về duyên sanh cũng vậy, tất cả sự vật có hình có tướng cho đến không hình, không tướng mà có tác động cũng đều là do duyên sanh. Tại sao? Phần khảo sát ở dưới tôi chỉ ra từng phần, nhưng đây nói tổng quát cho quý vị thấy, chủ trương nhà Phật là nhân duyên hay là duyên sanh, chứ không như những triết thuyết khác. Nhiều triết thuyết khác nói rằng thế gian này hay sự vật này do tạo hóa tạo ra, thuyết đó nhà Phật không chấp nhận. Thí dụ nếu có vị nào hỏi cái chùa này do ai tạo ra thì quý vị trả lời đơn thuần do Thầy viện chủ tạo ra. Nói như vậy quý vị thấy có đúng chân lý chưa? Viện chủ là tôi. Tôi là người tạo ra cái chùa này. Mới nghe dường như phải nhưng sự thật chưa phải chân lý. Tôi không đủ điều kiện để tạo cái chùa này. Tôi chỉ là chánh nhân thôi, ngoài ra phải có trợ duyên thợ nề, thợ mộc, công nhân, những vị thí chủ, những nguyên liệu gạch, cát, xi măng v.v... Tất cả những thứ đó hợp lại mới tạo thành cái chùa, chứ không thể nói một cá nhân tôi mà tạo thành cái chùa. Nói một cá nhân tôi là phiến diện, nói đơn thuần, nói không đúng chân lý.

Tất cả sự vật nào cũng vậy. Thí dụ nói đơn giản ai tạo ra cái bàn này? Chúng ta có thể nói ông thợ mộc tạo ra. Nhưng mà ông thợ mộc tự ông có tạo được không? Ông phải có búa, có đục, có bào, có những dụng cụ cộng lại như gỗ, đinh, ván... hợp lại thì ông mới ráp thành cái bàn. Ông chỉ là chánh nhân, cần có nhiều trợ duyên chứ không phải một người mà được. Nói một là nói đơn thuần không đúng sự thật.

Đó là chúng ta xét từ sự vật nhỏ rồi lần lên. Có nhiều người thắc mắc cứ nghĩ quả địa cầu này ai tạo? Có vị nói Tạo hóa tạo ra. Nói ông Tạo hóa thì nghe dễ hiểu quá. Ông làm ra quả địa cầu, không hỏi nữa. Đạo Phật có cho phép mình nói như vậy không? Nếu căn cứ trên thuyết duyên sanh thì không cho phép mình nói đơn thuần như vậy. Không có gì tự một vật mà tạo ra một vật, mà phải là do duyên hợp. Mà duyên hợp thì không thể nói Tạo hóa hay Thượng đế tạo ra được. Hỏi quả địa cầu này tại sao có? Đạo Phật chỉ nói do nhân duyên hợp mà thành. Cái nhân duyên nó phức tạp lắm, người ta sẽ thắc mắc nhân duyên là cái nào, cái gì để mà hợp lại? Tuy chúng ta không thể giảng hết được nhưng mà đầu óc khoa học nhân đó mà phát minh. Nói nhân duyên tức là có cái này có cái kia hợp nhau mà sanh ra.

Quý vị xét kỹ thế gian này xem có cái gì chỉ độc một nhân tạo thành một cái khác không? Thí dụ con người chỉ có nam có tạo thành đứa con không? Chỉ có người nữ có tạo được đứa con không? - Không! Phải do nhân duyên cha mẹ hợp lại mới thành được. Đó là nói con người. Tất cả cây cối sự vậy cũng vậy. Thí dụ chúng ta có một hạt cam hay một hạt bưởi, hạt cam hạt bưởi có thể thành cây cam cây bưởi được không? Chưa đủ. Nếu hạt cam hạt bưởi để trên cái bàn này mười năm thì nó vẫn là hạt cam hạt bưởi, không thành gì hết. Có hạt cam hạt bưởi rồi phải có đất, có nước, có phân, có người săn sóc v.v... mới thành được cây cam cây bưởi. Như vậy hạt cam hạt bưởi chỉ là cái chánh nhân, cần phải có nhiều trợ duyên nữa mới thành, chớ hạt không thì không thành.

Như vậy chúng ta mới thấy rõ chủ trương đạo Phật nói lý duyên sanh là để thấy rõ tất cả sự vật đều do nhiều yếu tố hợp lại chớ không có đơn thuần, mà chúng ta quen cái đơn thuần, nói cái gì cũng có một. Ai tạo ra chùa này? Thầy viện chủ tạo. Ai cất nhà đó? Ông chủ nhà cất. Sự thật ông chủ nhà đâu có đủ điều kiện cất. Ông còn cần phải có bao nhiêu điều kiện nữa hợp lại mới thành chớ không phải một mình ông mà thành.

Tôi nói tổng quát như vậy, phần chi tiết chúng ta sẽ phân tích chia chẻ nhiều hơn. Đạo Phật không có nói lý thuyết suông, mà nói để người ta tìm ra sự thật. Nói duyên sanh để phăng tìm ra lẽ thật từ cái gì, từ yếu tố nào hợp lại?

Bây giờ quý vị thấy khoa học làm gì? Tìm những yếu tố, những nguyên nhân tổng hợp thành một sự vật, một hình thể. Một sự vật, một hình thể phân tích ra để tìm những yếu tố trong đó. Đó là việc làm của khoa học. Như vậy lý duyên sanh của đạo Phật đâu có ngược khoa học. Nhiều người không hiểu, nói đạo Phật nói cái gì cũng do duyên mà không nói rõ. Tinh thần khoa học nằm trong đạo Phật rõ ràng. Cho nên ai nói cái gì mà do một yếu tố tạo ra, đạo Phật không chấp nhận. Có nhiều người cứ thắc mắc cái đầu tiên tạo ra con người và vũ trụ là cái gì? Khi hỏi cái đầu tiên là đạo Phật không chấp nhận rồi. Tại sao vậy? Vì câu hỏi đó đặt sai. Khi đã có nghĩa hợp là do nhiều nguyên tố, mà hỏi có một cái, trả lời là sai. Bây giờ thử hỏi cái gì tạo ra cái ly này? Nếu chúng ta trả lời ông thợ gốm tạo ra cái ly có đúng không? - Không. Ông thợ gốm không thể tạo thành cái ly được, còn phải có bao nhiêu thứ nữa. Cho nên chúng ta trả lời câu hỏi sai đó là chúng ta đã sai. Vì vậy hỏi đầu tiên cái gì tạo thành con người và vũ trụ thì đạo Phật không trả lời vì câu đó sai.

Chủ trương đạo Phật là nhiều duyên hợp lại. Thí dụ quả địa cầu của chúng ta, quả địa cầu to như vậy nhưng cũng do nhiều yếu tố như đất, nước, gió, lửa... hợp lại, chứ đâu phải bỗng dưng có quả địa cầu được.

Do đó thuyết duyên sanh của đạo Phật là một thực tế chớ không phải mơ màng như người ta tưởng lầm. Rất thiết thực, nếu chúng ta có phương tiện khảo cứu thì sẽ thấy lý đó hết sức rõ ràng.     

Chánh Văn:

Trước khảo sát những vật có hình tướng gần chúng ta nhất. Như cái bàn viết hiện đây của ta, trước nó không tự có, phải có gỗ, có đinh, có bào, có đục, có cưa... và có ông thợ mộc, do sự cưa xẻ bào đục kết ráp của ông, sau mới thành cái bàn. Những nguyên liệu dụng cụ và ông thợ mộc, đều là duyên chung hợp thành cái bàn. Nếu có người hỏi: cái bàn này do vật gì làm ra, chúng ta đáp: do ông thợ mộc, hoặc do gỗ... Đó là lối đáp đơn thuần, không đúng toàn thể của cái bàn. Nếu chấp lối đáp ấy đúng, thì mắc phải bệnh thiên kiến.

Giảng:

Bệnh thiên kiến là bệnh nhìn một khía cạnh mà cho là chân lý. Chân lý không ở một khía cạnh mà nó trùm hết. Thành ra nói tới một cái gì đúng toàn thể thì câu nói đó là chân lý, còn nói đúng có một góc một cạnh thì chưa phải là chân lý mà thuộc về thiên kiến. Đa số chúng ta chấp theo cái thấy một góc, một khía cạnh chớ không chịu thấy tổng quát trùm khắp. Vì vậy mà đạo Phật bắt buộc chúng ta phải nhìn sự vật bằng cái trùm khắp, chớ không cho nhìn riêng rẽ hay là một góc, một cạnh.

Quý vị thử xét kỹ và khảo cứu tất cả những cái hiện có ở thế gian này, thử xem có một cái làm thành một cái được không? Nếu có là đạo Phật nói sai, còn tất cả cái nào cũng do nhiều vật hợp lại thì đạo Phật nói đúng. Như vậy đạo Phật nói trước và hiện nay cũng như sau này đều là đúng như vậy hết, đều là chân lý. Chứ không phải nói như người ta suy tư tưởng tượng là do cái này, hoặc do cái kia là sai. Thí dụ cái bàn này do thợ mộc làm. Nếu không có gỗ, đinh... thì ông thợ mộc làm sao làm được cái bàn? Người khác nói do gỗ đinh làm cũng sai. Nói một cái là sai. Mà do các duyên hoặc nhiều hoặc ít hợp lại thì nó trùm hết. Nói nhân duyên chúng ta suy rộng ra thì thấy có một cái liên hệ giữa mọi người với mọi người. Thí dụ hỏi tại sao tôi có ở đây thì chắc chắn nhiều người nói do cha mẹ sinh ra nên tôi ở đây. Nhưng nói vậy chưa đủ. Ngoài cha mẹ tôi còn có thầy thuốc, còn có những người dệt vải, còn có những người nông phu, còn bao nhiêu người nữa, rồi thầy dạy học v.v... tất cả mọi người trên thế gian này đều có liên hệ với tôi hết. Nếu nói người dệt vải thì người dệt vải liên hệ với tôi đành rồi, người dệt vải còn có khung cửi, tất cả những gì liên hệ tới người dệt vải cũng liên hệ tới tôi nữa, liên hệ gần hoặc liên hệ xa, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Như vậy chúng ta xét nhân duyên thì nó liên hệ trùng trùng từ lớp này tới lớp kia.

Hồi nãy tôi nói cái bàn do ông thợ mộc và gỗ, đinh, bào, đục v.v... làm ra, đó là nói trực tiếp. Còn nói gián tiếp, hỏi làm sao có cái bàn, làm sao có cái đục, làm sao có cây đinh?... thì liên hệ tới ông thợ rèn, tới hãng làm đinh, liên hệ tới bao nhiêu cái khác nữa. Tất cả sự vật này có mặt điều liên hệ khắp tất cả, chớ không phải chỉ liên hệ một hai người làm ra nó. Sự có mặt của vạn vật là sự liên hệ thì ở giữa mình và mọi người có sự tương quan trùng trùng trong đó.

Khi xét về lý nhân duyên rồi thì vị tu hành cao siêu thấy mọi người tốt là mình tốt, mọi người xấu là mình xấu; mọi người khổ là mình khổ, mọi người vui là mình vui. Thế nên nói Bồ tát thấy chúng sanh khổ là thấy mình khổ, bởi vì có sự liên hệ như vậy. Còn một người đau khổ, còn một người xấu là trách nhiệm giáo hóa mình chưa xong, vì mình với người liên hệ. Nếu mình thấy riêng cá nhân độc thân không dính dáng tới ai hết, đó là người tiêu cực yếm thế. Còn người hiểu rõ thì thấy mình và mọi người đều có liên hệ với nhau. Ai cũng là người ơn của mình. Ai cũng là người giúp cho mình mới có sự sống này. Thí dụ chúng ta đang đi đường khát nước, ghé vào nhà một người lạ xin một tách nước. Người ta chẳng lẽ không cho. Tách nước đó trong lúc mình khát, uống vào mình khỏe, thì tách nước đó giúp cho sự sống của mình rồi. Và bao nhiêu cái khác nữa cũng như vậy. Chúng ta lên xe, có người đưa chúng ta tới nơi cũng là người ơn chúng ta, cũng là liên hệ với sự sống của chúng ta rồi. Thì giữa xã hội này liên hệ với nhau chằng chịt, chứ không tách rời từng cá nhân được.

Hiểu lý nhân duyên rồi thì thấy giữa mình và tất cả là một sự liên hệ vô cùng. Mình không có quyền ích kỷ lo riêng cho mình mà phải nghĩ tới tất cả mọi người, làm sao cho mọi người sống vui thì mình mới thật vui, làm sao cho ai nấy hết khổ thì mình mới thật hết khổ. Đó là lẽ thật. Thí dụ một gia đình mười người, mà có một mình mình vui, còn tám, chín người khổ thì mình có vui trọn vẹn không? Chắc chắn không trọn vẹn rồi. Thấy người kia sầu não, người nọ quạu quọ tự nhiên lòng mình cũng bất an. Giả sử trong mười người đó, chín người vui mà chỉ có một người buồn thì chín người có vui trọn vẹn không? Tuy là vui mà thấy người kia đang sầu não cũng buồn lây. Cho nên muốn được vui trọn vẹn thì cả gia đình đều vui. Còn một người khổ thì trong gia đình dầu có vui đi nữa cũng vui không trọn vẹn.

Người hiểu được lý nhân duyên thì thấy giữa mình và người có mối liên hệ. Có liên hệ nên mới thương yêu đùm bọc với nhau, không nỡ để cho người khổ mà mình vui. Đó là tinh thần đạo đức từ lý nhân duyên xét rộng ra. Hiểu được lý nhân duyên là chúng ta hiểu được sự ràng buộc giữa mọi người với mọi người. Hiểu được sự ràng buộc đó thì lòng thương chúng ta mới trùm hết. Nó không cho phép chúng ta lo nghĩ riêng mình, bởi vì làm sao mình tự sống một mình cho được. Mình còn phải ăn, mình còn phải mặc, mà những nhu cầu đó đâu phải tự tay mình làm ra được hết. Mình phải nương người này, phải nương người kia và có sự nương nhờ mới sống được. Như vậy tất cả mọi người là người ơn của mình, là kẻ giúp cho sự sống của mình. 

Chánh Văn:

Đến như cái nhà chúng ta hiện ở hoặc nhà lá hay nhà gạch, trước nó cũng không tự có. Nếu là nhà lá, phải có cột kèo đòn tay cây lá rồi, sau chúng ta mới ráp lại thành cái nhà. Nếu là nhà gạch, phải có gạch xi măng cát vôi ngói gỗ và thợ hồ, mới xây thành cái nhà. Khi thành hình cái nhà, gọi là duyên hợp; khi cái nhà hư hoại đi, gọi là duyên tan. Chỉ do duyên hợp duyên tan, thật thể cái nhà vốn không thật có.

Giảng:

Hiểu được lý nhân duyên chúng ta tiến thêm một tầng nữa. Cái nhà do duyên hợp ráp lại, đủ điều kiện mới thành cái nhà. Trong các duyên đó giả sử năm, ba duyên hư thì cái nhà bị sập đổ. Như vậy thành hình được một sự vật là phải đủ duyên hợp lại. Sự vật hư hoại là do thiếu duyên hay một vài duyên bị hư hoại nên sự thể đó nó hoại theo. Như vậy thành hoại chỉ là tướng duyên hợp và duyên tan, chứ còn thể của cái nhà trước sau đều không thật. Mình thì cứ thấy cái nhà là thật, sự thật cái nhà đâu có thật. Nếu thật có thì khỏi cần duyên hợp, mà đã duyên hợp thì thể nó không có. Do duyên hợp mới có, duyên rã thì tan.

Như thân chúng ta hiện giờ ai cũng nói là thật có, nhưng với nhà Phật thì cho thân này là do duyên hợp. Đủ duyên thì nó khỏe mạnh, thiếu duyên thì nó đau yếu, nếu thiếu nữa thì nó rã rời. Như vậy đủ duyên thì gọi là sanh, thiếu duyên thì gọi là tử. Sự tử sanh là do duyên đủ hay thiếu thôi. Chính những ông thầy thuốc là người bổ túc những cái duyên thiếu đó để mình sống còn. Nếu không hiểu lý duyên sanh thì chúng ta tưởng như mình có thật, mà có thật thì cần gì phải đủ duyên. Đủ duyên mới còn, thiếu duyên thì không còn. Có hợp thì phải có tan, hoặc sớm hoặc muộn không quyết định là năm năm, mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm hoặc một trăm năm. Hễ đủ duyên thì còn, hết duyên thì tan chớ không có cố định.

Nhiều người hay coi tướng số nói ông này tướng sống tới tám mươi tuổi, ông kia sống tới một trăm tuổi. Nhưng tướng số có bảo đảm không? Nếu như số ông sống tới tám mươi tuổi, mà giả sử ông đang đi đường bị xe đụng thì ông còn sống tới tám mươi tuổi được không? - Không! Như vậy cái số không có bảo đảm gì hết. Chẳng qua là duyên còn đủ thì ông còn, các duyên hoại đi thì ông mất. Đó là một lẽ thật. Nói sống bao nhiêu tuổi thì không bảo đảm. Đạo Phật chủ trương tất cả duyên hợp thì thành, duyên tan thì hoại. Từ con người cho đến sự vật đều như vậy.    

Chánh Văn:

Khảo sát như thế qua mọi sự vật, chúng ta không thấy có một sự vật nào không phải duyên hợp mà thành. Dù vật nhỏ bé như cây kim ngọn cỏ, vật to lớn như núi biển quả địa cầu, đều nằm chung trong một thông lệ ấy.

Giảng:

Tất cả sự vật nhỏ lớn đều nằm trong thông lệ duyên hợp mà có, chớ không phải ngẫu nhiên hay là một cái này làm ra cái kia.

Có câu chuyện một đứa bé đi với người cha, thấy con sông dài mênh mông, đứa bé hỏi: 

- Thưa cha, con sông này tại sao mà có?

Ông cha nói:

- Sông này trời sanh đó con.

Tới cái núi đồ sộ, nó hỏi:

- Thưa cha, tại sao có cái núi?

- Trời sanh đó con.

Cứ đổ thừa trời sanh cho rồi, hết trách nhiệm. Đạo Phật không cho phép nói như vậy.

Con sông là do nhân duyên mà có. Cái núi cũng do nhân duyên mà có. Nói vậy thì con nít nó không chấp nhận. Nó hỏi nhân duyên là gì? Người lớn thấy rối không trả lời được rồi đổ thừa trời sanh cho êm. Nói vậy là yên tâm, là hết chuyện. Vì vậy có nhiều người không biết cứ đổ thừa cho ông trời cho rồi. Không biết ông trời ra sao, nhưng nói phức cho rồi, hết hỏi. Còn nếu nói do duyên thì nó thắc mắc hỏi nữa.

Chánh Văn:

Cho đến những thứ không có hình tướng, chỉ thấy tác động, cũng do duyên hợp mà có. Như điện, gió, chúng ta không thấy hình tướng nó, chỉ biết khi tác động dấy khởi. Về điện thì có điện âm điện dương, phối hợp mới phát khởi hiện tượng. Về gió phải có khí nặng khí nhẹ... mới có hoạt động.

Giảng:

Điện là cái quá tầm mắt chúng ta khi nó chưa phát khởi hình tướng, nhưng mà nó cũng là tướng duyên hợp. Nó phát sáng cũng phải do điện âm điện dương hợp lại với nhau. Tất cả những cái khác cũng đều như vậy hết, không có gì đơn thuần do một cái mà thành. Thí dụ như đất thì cũng rất nhiều hạt bụi thành hòn đất. Nước cũng do khinh khí dưỡng khí hợp lại mà thành. Không có cái nào tự nó thành, mà do sự hòa hợp.

Khoa học về môn lý hóa hiện giờ lý nhân duyên đầy đủ trong đó. Chúng ta thấy rõ tinh thần đạo Phật là tinh thần khoa học thực tế, chứ không phải như người ta tưởng tượng nói rằng đạo Phật là mê tín, là ru ngủ. Nhưng vì người học Phật không chịu tìm hiểu cho tới nơi rồi cứ đi chùa lạy Phật, cúng rồi về. Hỏi cô hay bà có phải là Phật tử hay không thì đáp là phải. Hỏi tu làm sao thì đáp mỗi tháng đi chùa hai lần, cúng rồi về. Như vậy là Phật tử rồi. Không hiểu gì về đạo Phật hết, chỉ làm mang tiếng Phật tử, cho nên người ta nói đạo Phật mê tín, vì chỉ biết tới chùa cúng lạy thôi.

Học Phật chúng ta phải hiểu cho tới nơi tới chốn, thấy rõ đạo Phật rất khoa học thực tế, như vậy chúng ta mới là Phật tử chân chánh.

Đó là tôi khảo sát qua những hiện tượng trong nhân gian để quý vị thấy từ cái này đến cái kia đều là tướng nhân duyên hòa hợp mà có.

Chánh Văn:

Nơi con người, tư tưởng dấy khởi cũng phải có sáu cơ quan làm chỗ tựa và đối diện với trần cảnh bên ngoài. Nếu ba phần - tư tưởng, cơ quan, trần cảnh mà thiếu một thì, không sao dấy khởi được. Thế nên mọi tác động có ra, đều do duyên hợp mà có.

Giảng:

Thí dụ con người chúng ta khởi nóng giận hoặc là chúng ta khởi vui mừng thì cái nóng giận và cái vui mừng là tác động tâm lý. Nhưng cái đó bỗng dưng có hay sao? Trước khi nóng giận chúng ta nghe người chửi, có tiếng chửi, có lỗ tai nghe; do tiếng chửi tác động vào lỗ tai, rồi do tư tưởng suy nghĩ đó là chửi mình, mình mới nổi giận lên thì cái nổi giận cũng là nhân duyên. Buồn thương cũng vậy, thí dụ người ta làm một điều gì hay, mình thấy mình thích. Việc làm của họ là cảnh bên ngoài, con mắt mình thấy, do lòng thích của mình nên mình thấy vui lên. Thành ra cái vui phát ra cũng từ có cảnh bên ngoài và có tâm lý của chính mình; ba cái hợp lại thành tác dụng. Như vậy, cơ thể chúng ta có đây là do nhân duyên, cái tâm lý tác động nơi chúng ta cũng là do nhân duyên hợp.

Cơ thể chúng ta đạo Phật chia ra tổng quát làm bốn thứ đất, nước, gió, lửa. Những thứ như là tóc, lông, răng, móng, da, thịt, gân, xương là chất cứng thuộc về đất; mồ hôi, máu, mủ, nước tiểu, đàm, dãi v.v... thuộc về nước; hơi thở vào ra thuộc về gió; nhiệt độ trong người thuộc về lửa. Bốn thứ đó là bốn thứ tổng quát trong người chúng ta. Trong người này bốn đại đó mà thiếu một thì chúng ta có tồn tại được không? - Không! Nếu thân người lạnh hết không có sức nóng có sống được không? - Không! Hoặc khi nào đó thở khì ra mà không hít vào nữa thì sống được không? - Không. Hoặc khi nào đó nước trong này cạn hết sống được không? - Không! Như vậy bốn chất đó hòa hợp mới thành thân này, hòa hợp lại rồi chúng ta cũng phải khéo điều hòa chúng nữa. Trong đất, nước, gió, lửa, chúng ta phải điều hòa thường nhất là lửa, nước và gió. Lửa mà dư thì trong mình thấy nóng, nhức đầu phải kiếm đồ mát uống vào cho nó dịu xuống, đó là điều hòa lửa và nước. Còn khi nào gió thổi vào mình nhiều thì đất rung rinh cho nên nhức mình, lúc đó phải đánh gió cho nó tan ra thì hết nhức. Như vậy rõ ràng bốn thứ mà hễ cái nào dư hoặc thiếu một chút là sanh ra bệnh.

Điều hòa đất, nước, gió, lửa cái nào thặng dư hoặc thiếu cũng bệnh hết. Nước dư thì lạnh cũng bệnh, lửa dư cũng bệnh, gió dư cũng bệnh, đất dư cũng bệnh. Cho nên người hiện sống ở đây chỉ một điều là khéo điều hòa bốn thứ đất, nước, gió, lửa. Ai điều hòa khéo thì người đó ít bệnh, ai điều hòa vụng thì người đó bệnh hoài.

Hiểu như vậy thì chúng ta thấy các ông thầy thuốc cũng vậy thôi. Hễ ai tới khám bệnh thì ông đo nhiệt độ xem nóng hay lạnh. Nóng thì cho uống thuốc hạ nhiệt, lạnh thì cho uống thuốc nóng. Bốn thứ hòa hợp đó không được thiếu, phải quân bình mới khỏe. Nếu dư thiếu một thứ là bệnh, còn nếu hoàn toàn thiếu thì chết, rõ ràng như vậy. Trong khi đang hòa hợp cũng phải bồi bổ, một lát thấy thiếu nước khô cổ phải cho vào chén nước. Nghe bụng đói phải đem vào chén cơm, thiếu không được.

Tóm lại chúng ta sống theo duyên hợp. Xưa nó đã hợp, hiện nay nó cũng đang hợp, tức là mỗi ngày chúng ta đều theo duyên để bồi bổ đầy đủ không cho thiếu, thiếu một cái là bệnh ngay. Chúng ta hiểu rõ thân này chỉ là giả có, do duyên hợp. Mà đã là duyên hợp chúng ta phải làm sao cho những duyên đó tạm đủ thì cuộc sống tương đối an ổn chớ đừng đòi hỏi hơn nữa.

Thí dụ một bữa ăn chỉ cần ba chén cơm, dĩa rau luộc với chén nước tương thì bữa ăn đó cũng đủ để sống rồi. Nhưng người ta không chịu đâu, phải có cái gì ngon hơn nữa. Như bữa nay có cá thì đòi thịt, có thịt lại muốn có thịt quay, rồi muốn có gì thêm hoài. Bởi muốn nhiều cứ đòi hỏi mãi nên cực thân, đòi không được thì buồn. Khả năng mình làm chỉ đủ bữa cơm rau luộc nước tương mà mình đòi hỏi những thứ kia nữa thì sao? Tức nhiên mình phải nghĩ mưu này kế kia, rồi tự tạo thành tội lỗi. Chớ nếu mình biết đã là duyên hợp thì có một cuộc sống quân bình là được rồi, không đòi hỏi quá! Thí dụ mấy vị nam mà lỡ ghiền thuốc thì thuốc gì hút đỡ ghiền là được rồi, có thuốc này đòi thuốc kia, đòi thuốc thơm thì tốn nhiều tiền. Do có những nhu cầu quá đáng nên thành bệnh, đó là những tật của con người. Tham lam là tại đó. Không biết thân này là duyên hợp, sống tạm vừa đủ. Rồi tới những chuyện tham lam tầm bậy nữa. Người có gia đình, có vợ chồng thì cuộc sống quân bình là được rồi, lâu lâu lại muốn thêm chuyện này chuyện kia lộn xộn nữa. Đó có phải là bậy không? Nó có vui gì, có lợi gì cho cuộc sống mà làm cho cuộc sống nguy hiểm thêm, vậy mà cứ bày chuyện.

Người ta do cái mê lầm này tạo thêm cái mê lầm khác, rồi khổ, rồi than thở. Chớ nếu ai cũng biết vừa chừng, quân bình cuộc sống vừa phải thì cuộc đời an ổn biết bao nhiêu. Nâng đỡ nhau thì có một cuộc sống quân bình. Đằng này dư thì bỏ túi để xài những cái vô ích, còn người thiếu thì để mặc họ chịu. Mình dư, người ta thiếu thì người ta phải tìm cách moi túi mình, rồi giành giật nhau, trộm cướp đủ thứ hết. Chớ nếu biết quân bình thì cuộc sống hết sức an lành, an lành từ người này tới người kia. Cuộc đời có thể tạm gọi là hạnh phúc. Không biết quân bình mà cứ đòi hỏi hoài thì người đó dù chạy tới phương trời nào họ cũng đau khổ. Lên tới thiên đường hay về Cực lạc họ cũng đau khổ như thường. Có nhiều người nói với tôi, tôi không muốn về Cực lạc vì ở đó không có rượu. Đó là những kẻ say sưa với dục lạc thế gian quá nặng. Họ cứ sống trong cái thỏa thích, mà cái thỏa thích bệnh hoạn chứ không phải cái thỏa thích an lành. Cơ thể chúng ta là duyên hợp, duyên hợp quân bình thì khỏe mạnh, quá cái quân bình thì sanh ra bệnh. Thí dụ chúng ta ăn uống, ngủ nghỉ vừa chừng thì chúng ta khỏe mạnh, còn quá cái nào cũng bệnh hết, mà thiên hạ thích cái quá chớ không thích cái quân bình.

Ăn muốn cho thật nhiều, ăn cho thật ngon. Ngủ cũng vậy, ngủ vừa chừng rồi mà kêu không muốn dậy, muốn kéo dài thêm. Tất cả những nhu cầu nào cũng muốn thêm hết. Do đó mà thành bệnh hoạn vì không quân bình cuộc sống. Sở dĩ không biết quân bình cuộc sống là tại tưởng thân mình là thật, cho nên phải thụ hưởng cho thỏa mãn. Còn nếu biết thân mình là tứ đại duyên hợp. Khát nước là do thiếu nước, có một ly nước lạnh uống vào cũng đã khát rồi. Nhưng mà khát nước không chịu uống nước lạnh, mà muốn uống nước gì cầu kỳ để thỏa mãn cái lưỡi cái cổ họng rồi tốn hao tiền. Một ly nước lạnh cũng đủ đã khát, cũng sống được vậy. Một ly nước khác cũng đủ sống nhưng giá trị đồng tiền gấp hai gấp ba ly nước lạnh. Nước lạnh đâu có tốn tiền, vậy mà cứ đòi hỏi thêm nên phải khổ. Chứ nếu biết quân bình cuộc sống đều đặn như vậy thì ở thế gian này ai cũng là người an vui hết.

Cái ăn cũng vậy, sáng bao tử lép xẹp chỉ cần ăn hai củ khoai lang kha khá là no là khỏe, hoạt động bình thường. Nhưng mà hai củ khoai lang người ta không chịu, đòi phải có ly cà phê, phải có bánh gì đó. Ly cà phê, một ít bánh thì bao nhiêu tiền? Hai củ khoai lang bao nhiêu tiền? Khi không có được những nhu cầu đó thì cảm thấy buồn rồi than thở, rồi sầu não. Nếu nghĩ tại cái bao tử nó lép, nó không hoạt động nổi, bây giờ có gì để vào cho đủ chất nuôi dưỡng thì nó hoạt động được. Cái gì có thể đủ nuôi nó là vui là được rồi, đâu có cần cao lương mỹ vị nữa. Nhưng mà người ta không chịu vậy đâu, người ta đòi hỏi quá. Chính cái đòi hỏi làm cho con người đau khổ. Nếu không đòi hỏi thì sống dễ dàng chớ không khó khăn gì hết. Chính cái dễ dàng đó mới thấy giá trị cuộc sống thật. Chính vì không hiểu, đòi hỏi quá nhiều nên thấy giá trị cuộc sống nó rỗng. Biết sự thật để sống đúng với sự thật, đó là tinh thần của đạo Phật. Chớ không phải nói đạo Phật dạy mình tu để chờ ngày chết rồi mới được gì gì đó, chuyện đó hơi xa xôi, không đúng.

Đạo Phật dạy cho con người một nếp sống đúng là hữu ích cho thân và tâm. Làm sao chính bản thân mình sống một cách đàng hoàng hợp lý, tức là đúng với dinh dưỡng của con người. Về tinh thần mình sống một cách thoải mái nhẹ nhàng không buồn, không khổ. Đó là đạo Phật chỉ cho con người cách sống. Nhiều người học Phật cứ chờ chết Phật độ về Tây phương hay đâu đó, cứ nghĩ như vậy nên biến đạo Phật thành mê tín. Thực tế đạo Phật dạy cho mình cuộc sống hiện tại rất bình an, rất thanh thản. Chính cái bình an thanh thản này là cái đẹp đẽ của tương lai. Còn sống hiện tại sầu não khổ đau mà nói tương lai đẹp đẽ thì chuyện đó khó tin. Cũng như ngày nay không tiền, thiếu nợ, nói ngày mai tôi sung sướng, sung sướng được không? Ngày nay không có tiền, thiếu nợ thì ngày mai cũng không tiền, thiếu nợ. Chớ không thể nào ngày nay không tiền, thiếu nợ mà ngày mai liền được sung sướng. Vô lý! Ngày mai sung sướng là ngày nay mình có tiền. Mình hết nợ thì ngày mai mình khỏe. Xét ngày nay là biết ngày mai, chớ còn hy vọng ở ngày mai mà không chịu nhìn thực tế ở ngày nay, đó là cái viển vông không thực tế.

Nói như vậy để quý vị thấy cái lẽ thật của con người mà chúng ta học ở đạo Phật. Hiểu lý duyên sanh thì chúng ta thấy thân này là giả tạm có một thời gian rồi sẽ mất.

Thí dụ tôi đưa nắm tay cho quý vị xem. Cái nắm tay này quý vị thấy thật có hay không? Nếu không thật có thì cái gì đây? Còn nếu quý vị nói thật có thì khi tay tôi xòe ra, quý vị thấy cái gì? Quý vị sẽ trả lời với tôi làm sao? Nói nắm tay này thật có cũng không được, mà nói không cũng không được. Nếu nói thật có thì buông tay ra đâu còn, còn nói không thật có thì cái gì đây? Quý vị trả lời sao cho hợp lý câu hỏi này?

Nếu trả lời hợp lý thì phải nói nắm tay không thật có mà do duyên hợp nên tạm có, một lát nữa buông ra thì mất. Do duyên hợp cho nên giả có. Nói thật cũng không được, mà nói không cũng không được. Ở thế gian người ta hay nói, hoặc là có thật hoặc là không ngơ. Sự thật ở giữa đời này không thật có mà cũng không phải không ngơ. Có là do duyên hợp giả có. Giả có là có tạm một thời gian thì mất. Như vậy câu nói đó, tinh yếu nằm ở chỗ nào? Biết lý duyên sanh thì nắm tay là giả có. Nó không thật, nhưng mà không phải là không. Ai nói không là lạc qua một bên. Ai nói có cũng lạc qua một bên.

Câu trả lời đó là chỉ một lẽ thật, đó là chân lý, mà thế gian không ai chịu trả lời theo chân lý hết. Hỏi cái này có không? Trả lời có hoặc không. Có là thật có hoặc không là không ngơ. Cứ nói như vậy cho nên bị cái lỗi là thiên kiến không đúng sự thật. Còn đạo Phật nói tất cả sự kiện có này là giả có, do duyên hợp nên giả có, duyên tan ra thì nó không. Đó là đúng sự thật.

Nói như vậy đâu phải là bi quan mà nói đúng sự thật, để quý vị hiểu, chớ không thì nghe đạo Phật nói cái gì cũng giả, rồi bảo đạo Phật chán đời quá, nói giả không. Đó là nói đúng sự thật chớ đâu phải là chán đời, vậy mà người ta chưa chịu nhìn, chưa chịu thấy, lại nói chán đời!

Biết nó giả có cho nên khi nó có mình không chấp là thật, không tham lam, không có những cái xấu xa. Và biết nó giả có thì khi nó tan ra mình không sợ. Còn những người cho nó là thật, khi sắp tan thì sợ. Thí dụ như nói cái nhà thật cho nên khi cái nhà gần ngã thì buồn rầu. Nói thân này là thật, khi thân này gần chết thì lo sợ hoảng lên. Còn biết cái nhà này duyên hợp là giả có, khi duyên tan nó phải hoại. Khi nó hoại tôi biết tại duyên tan nên nó hoại, có gì lạ đâu? Thân này cũng là duyên hợp cho nên giả có, duyên tan thì nó hoại, đó là chuyện bình thường. Người hiểu đạo rồi, khi gần chết vẫn bình tĩnh vui vẻ không có gì buồn sợ hết. Như vậy chúng ta đã vượt lên hơn người thế gian rồi. Người thế gian gần chết sợ thôi là sợ, không biết thân phận mình ra sao? Chúng ta biết rõ lẽ thật của thân này có là duyên hợp giả có, nó mất đi vì duyên tan chớ có gì lạ. Hợp tan đó là duyên chớ không có gì quan trọng hết. Không quan trọng thì có gì sợ sệt. Không quan trọng nên hiện tại không tham lam không giành giật. Đó là cái an nhiên của tâm hồn người biết đạo.   

Chánh Văn:

Nói duyên sanh là nhằm vào hợp thể, choán một khoảng không gian. Đã là hợp thể thì không có tự thể và thật thể. Tự thể đã không thì tên đặt cho sự vật cũng rỗng. Ví như tên “cái nhà”, chúng ta phân tích từng viên gạch, từng miếng ngói v.v... ra, tìm xem cái gì là “cái nhà”? Chỉ khi hợp thể thành hình, tạm đặt cho nó một cái tên. Cái tên ấy chỉ có giá trị tạm thời, từ khi hợp thể thành hình, bởi trước và sau nó vốn không có. Chính ngay khi thành hình, chúng ta phân tích từng đơn vị một, tìm tự thể cái tên chung ấy, vẫn không có. Nên nói: “các pháp duyên sanh tự thể là không”. Trước không, sau không, giữa cũng chẳng thật, nên sự có mặt của các hợp thể là hư giả huyễn hoá. Do đó, nói đến lý duyên sanh thì xem vạn vật đều như huyễn như hoá.

Thông suốt lý duyên sanh, chúng ta thoát khỏi hai chứng bệnh: thiên kiến và mê lầm.

Giảng:

Bệnh thiên kiến như hồi nãy tôi nói. Hỏi cái bàn này ai làm ra thì có người nói ông thợ mộc làm ra, có người nói cây ván làm ra, như vậy hai người đó người nào đúng? Hai người trả lời đều chân lý hết, nhưng mà chân lý một khía cạnh. Thiên kiến tức là phiến diện, nhìn một khía cạnh chớ không phải trùm hết. Nếu biết rõ cái bàn này là duyên sanh, tức đủ nhân duyên thì nó hợp thành, chớ không phải riêng ông thợ mộc, cũng không phải riêng cây ván. Có cây ván mà không có đinh, không có ông thợ mộc làm sao mà thành? Thế gian này phần nhiều nhìn sự vật một cách thiên kiến, lầm lẫn. Bởi thiên kiến rồi sanh bao nhiêu thứ bệnh. Người nói ông thợ mộc làm, người nói cây ván, tức là nói không hợp nên cãi nhau. Ban đầu cãi lý, một hồi nổi nóng lên thì cãi bằng đánh bằng đá. Rốt cuộc rồi không tới đâu hết, chỉ trong vòng lẩn quẩn. Không có ai đúng sự thật hết, nhưng người nào cũng chấp cái nhìn của mình là chân lý thành ra cãi nhau. Đạo Phật không cho mình nhìn thiên kiến như vậy mà phải nhìn tổng quát hay nhìn đầy đủ là duyên hợp. Mà đã là duyên hợp thì người nói ông thợ mộc thì cũng là một phần của duyên. Hai người đều đúng mà đúng có một phần.

Câu chuyện người mù rờ voi từ kinh Phật như sau:

Vua hỏi người nắm cái đuôi voi có phải con voi không? 

- Phải!

- Con voi ra sao?

- Giống như chổi chà.

Vua hỏi người nắm cái chân voi hỏi phải con voi không?

- Phải!

- Con voi ra sao?

- Con voi giống cây cột v.v...

Ai cũng đúng hết mà đúng có một góc một cạnh. Thế gian là như vậy, nghĩa là khi nắm một bộ phận nào đó của con voi cho đó là con voi rồi thì cãi nhau. Mình nói cái này, người ta nói cái khác là mình cãi. Đó là tại sao? Vì mù thì nắm được một góc cạnh. Còn người sáng thấy toàn thể thì không có chấp như vậy. Cái đuôi con voi giống chổi chà là một bộ phận của con voi. Cái chân giống cây cột cũng là một bộ phận của con voi, cãi nhau làm gì.

Vì mù cho nên chỉ biết có một phạm vi mình mới cãi. Người hiểu đạo rồi ít có cãi lẽ với thiên hạ lắm. Bởi vì thiên hạ nhìn một khía cạnh, mình biết họ chấp vào khía cạnh đó hơi đâu mà cãi. Nhưng mà người đời hăng lắm, thấy khía cạnh này rồi mà ai nói khác thì cãi cho ra lẽ, nhiều khi ẩu đả nhau cũng vì cãi lẽ. Rốt cuộc có ngã ngũ về đâu! Hiểu như vậy rồi mới thấy chúng ta mê lầm, vì chúng ta không thấy được toàn diện; còn người thấy được toàn diện thì người đó đã hết mù rồi. Vì vậy hiểu được lý nhân duyên là biết trùm tất cả, chứ không còn một góc một cạnh nữa. Mà đã trùm tất cả thì làm gì có chuyện cãi nhau. 

Nói hơi xa trong Thiền tông một chút, quý vị nhớ câu chuyện lý thú khi Lục tổ còn là một ông cư sĩ bàn đạo lý với hai ông Sa di không?

Nhân ngày thầy trụ trì giảng kinh Niết bàn, treo phướn lên trước chùa. Hai ông Sa di ra ngồi trước cửa, gió thổi lá phướn phất qua phất lại. Ông này hỏi ông kia:

- Anh nói cái gì động?

- Cây phướn động!

Người kia hỏi lại:

- Anh nói cái gì động?

- Gió động!

Không có gió làm sao phướn động. Ông nói gió động cũng có lý, ông nói phướn động cũng có lý, ông nào cũng có lý. Hai ông cãi nhau hoài không ngã ngũ ra sao?

Lục tổ mới lại nói:

- Hai vị cho kẻ cư sĩ này lạm bàn được không?

- Được!

Lục Tổ nói:

- Không phải gió động, không phải phướn động mà tâm nhân giả động.

Hai ông Sa di thấy một góc, một cạnh mà không thấy được trùm hết rồi cãi nhau. Cãi nhau là do tâm động chứ gì? Phướn mặc phướn, gió mặc gió, chính vì không hiểu rõ nên cãi nhau là do tâm động. Thế gian hầu hết đều như vậy, chỉ thấy một phía cho là đúng liền tranh cãi om sòm lên. Người hiểu đạo lý thì thấy rõ chính các sự kiện hợp lại mà thành, nó không đơn thuần, nó không phải một góc, nó không phải một phía nên không cãi. Cứ chấp một bên đó là thiên kiến nên cãi hoài không ra, không ngã ngũ được. Nếu chúng ta hiểu được lý nhân duyên thì cái bệnh thiên kiến không còn nữa.

Khi chúng ta hết bệnh mê lầm điên đảo cho cái gì cũng thật thì tạm có, duyên tan thì nó mất. Biết rõ như vậy thì không chấp cái gì là thật thì hết khổ. Thí dụ tôi chấp cái bàn này là thật nên cái bàn hư thì tôi buồn, chấp cái thân này thật nên cái thân này sắp hoại thì tôi khổ. Tất cả cái mình chấp thật mà nó sắp hư thì đau khổ. Bây giờ biết các pháp duyên hợp, không có cái gì thật thì nó còn nó mất lòng mình vẫn an không khổ đau, hết mê lầm. Sở dĩ con người mê lầm là vì bệnh chấp ngã nó cao. Cái ngã sai lầm nó to lắm, cho nên cái lầm chấp về con người, giả mà tưởng là thật rồi cứ gây ra bao nhiêu thứ khổ đau. Vì cái gì chung quanh đều quy tụ về cái ngã này hết.

Một buổi sáng mùa hạ tôi nhìn ra ngoài biển thấy trời mưa. Tôi hỏi chú thị giả: Đố chú trời mưa để làm gì? Chú thị giả liền trả lời: Thưa thầy, mưa để người ta làm ruộng. Nói như vậy quý vị thấy có lý không? Tôi chỉ ngoài biển hỏi ai làm ruộng ngoài đó mà mưa? Chú bí không trả lời được.

Chỉ câu chuyện nhỏ đó quý vị thấy người ta vì chấp ngã cho nên thấy tất cả vũ trụ đều vì mình hết. Như bông hoa nở để mình xem, trời mưa để mình làm ruộng, nắng để mình phơi lúa, cá sanh ra để mình ăn, cái gì cũng để cho mình hết. Sự thật nào phải như vậy, nắng là nắng, mưa là mưa. Nhân duyên hội đủ thì nắng, nhân duyên hội đủ thì có sông v.v... nó không vì ai hết. Nhưng người ta vì chấp ngã nên cái gì cũng quy về mình hết. Mà đã quy về mình, cho nên mình muốn nắng để phơi lúa mà bữa nay mưa thì sân lên, tại mưa nên người ra không mướn mình phơi lúa. Đó là tại sao? Tại mình si mê.

Bởi si mê chấp như vậy rồi lầm lẫn. Nói mưa để làm ruộng, bây giờ tới mùa sửa soạn cấy trời không mưa mình nổi giận lên, như vậy có phải mình ngu si hay không? Thế gian này quý vị thấy ngu si nhiều hay ít? Xét rộng ra chúng ta mới thấy, như mình nuôi con chó để làm gì thì nói nuôi chó để giữ ăn trộm. Nhưng mà con chó nó đâu có biết giữ ăn trộm, tại cái tật nó thấy ai lạ lạ là nó sủa thôi. Nếu lúc nào nó ngủ quên thì không sủa. Vì nói nó giữ ăn trộm nên bữa nào nó ngủ quên, ăn trộm lấy đồ mà nó không sủa thì đập nó. Sự thật nó nào biết nó có trách nhiệm như vậy, tại vì mình gán cho nó thôi.

Còn con gà, hỏi nuôi gà để làm gì? Đáp rằng nuôi gà để nó gáy cho mình thức. Nhưng sự thật khuya giờ đó nó lạnh, ngứa cổ nó gáy chớ đâu có nghĩ gáy cho ông chủ nhà thức. Rồi bữa nào nó không gáy mình ngủ dậy trễ thì mình đập nó, chửi nó tại sao đêm nay không gáy cho người ta thức. Cái đó là tại mình chấp ngã rồi mình cứ cho mọi vật vì mình hết.

Hỏi tại sao có gà, vịt? Nói gà, vịt sanh ra để mình ăn. Tại sao có cá? Cá sanh ra để mình ăn. Chữ để mình hiểu lầm. Có người hỏi lại: Mình sanh ra để làm gì? Có phải để cọp ăn không? Có phải để cá sấu ăn không? Nếu vậy thì cọp, cá sấu nó cũng có thể nghĩ người ta sanh ra để nó ăn, được không? Đó là những cái sai lầm mà cả thế gian hầu như đều chấp như vậy. Quý vị nghĩ kỹ rồi mới thấy cái lầm lẫn của con người. Khi lầm lẫn rồi tự nhiên mình giết hại chúng sanh không có chút lòng thương. Nói cá sanh ra cho mình ăn, mình cứ đập đầu nó mà ăn, có thương tiếc gì đâu! Gà sanh ra để mình ăn, mình cứ cắt cổ nó có thương hại gì đâu! Vì nó yếu hơn mình cho nên mình đè cắt cổ nó, nó giãy la thoát không được, đành phải chịu chết. Con cá cũng vậy, nó dại hơn mình, mình giăng lưới kéo nó lên, nó giãy giụa nó chạy không được nên phải chịu chết.

Tóm lại ai cũng cố giữ, cố bảo vệ bản ngã mình mà tại người khác mạnh hơn hoặc khôn hơn nên đành chịu thua. Cũng thế, mình tự bảo vệ mà gặp con cọp mạnh hơn nó chụp, mình giãy giụa thoát không được thì nó ăn. Như vậy giữa trời đất, vũ trụ này các pháp đều do duyên sanh, không có gì để cho cái gì. Nếu hoa nở để cho người xem thì trên núi trên rừng có ai xem đâu nó cũng cứ nở. Đâu phải vì người mà nở, nhưng người ta cứ nghĩ vì mình. Cái gì cũng vì mình. Con muỗi nó nói người ta sanh ra để cho nó hút máu được không? Nếu nói cá sanh ra để mình ăn, thì con muỗi hút máu mình chắc nó cũng nghĩ rằng người ta sanh ra để cho nó hút máu thì mình đừng đập nó chứ. Nhưng tại sao cái gì vì mình thì mình bảo vệ, con muỗi thì mình đập, con cọp thì mình bắn, con cá thì mình bắt để ăn. Như vậy có phải là cái lý của kẻ mạnh không? Mạnh thì cứ đặt lý lẽ để bảo vệ cho mình là hợp lý chứ không có lẽ thật.

Pháp Phật dạy tất cả đều là nhân duyên. Hội đủ nhân duyên thì sự kiện nó hiện thành chớ không vì cái gì hết, không để cho ai hết. Hiểu vậy là người khôn ngoan. Biết duyên tụ hợp có nhiều mưa thì lựa đúng lúc đó để gieo trồng. Người khôn ngoan ứng dụng đúng lúc, đúng nhân duyên thì nó tốt, không khôn ngoan thì nó sai, không có cái gì vì mình hết. Nghĩ vì mình mà không được như ý thì người ta sân hận đau khổ. Các pháp nó tự như vậy chứ không vì ai hết.

Hiểu được lý duyên sanh thì trí tuệ được mở mang. Cho nên hiểu thuyết duyên sanh gọi là thuyết Bát nhã, tức là trí tuệ. Còn nếu người nào không hiểu lý duyên sanh thì còn vô minh còn si mê. Bởi si mê nên chấp ngã thế này thế kia dẫn đến bao nhiêu thứ cuồng loạn sai lầm. Nếu hiểu được lý duyên sanh thì có trí tuệ thấy đúng như thật. Mà thấy đúng như thật thì những cái sai lầm không còn nữa. Chúng ta học đạo giác ngộ để mở mang trí tuệ không còn lầm lẫn nữa, không còn rơi vào bệnh thiên kiến và bệnh mê lầm nữa. 

Chánh Văn:

Nhất là bệnh mê lầm, quả là bệnh trầm kha khó chữa trị. Vạn vật do hợp thể mà có, hư giả không thật, lại mê lầm chấp là thật. Vì chấp thật nên theo đó có yêu ghét và sanh tham sân. Đó là nguyên nhân mãi lăn trong vòng luân hồi sanh diệt. Biết rõ duyên sanh hợp thể hư giả là dứt mê lầm chuyển thành trí tuệ. Đây là cửa ngõ của lâu đài giác ngộ.

Giảng:

Nếu chúng ta hiểu được lý nhân duyên đúng đắn là chúng ta đã có trí tuệ, là người sáng suốt chớ không còn tối tăm mê lầm như trước nữa.

Chánh Văn:

Trong phần “Chân lý phổ biến”, lý nhân quả và duyên sanh là hai sự thật, tràn đầy trên vạn vật và mọi tác động của chúng sanh. Sự thật ấy, quá khứ hiện tại vị lai đều không thay đổi. Song nó tinh vi khó hiểu, người chịu khó nghiền ngẫm phân tích kỹ càng mới nhận ra được. Hai sự thật này nhằm vào hai chiều của vũ trụ, nhân quả chạy suốt chiều dọc thời gian, nhân duyên xuyên tột chiều ngang không gian. Do đó, gọi là “Chân lý phổ biến”.

Giảng:

Chân lý phổ biến là chân lý trùm khắp. Lý nhân quả thì đứng về thời gian, lý nhân duyên thì đứng về không gian. Lý nhân quả đứng về thời gian, vì từ nhân đến quả trải qua quá khứ, hiện tại, vị lai. Thí dụ chúng ta gieo một hạt cam, lần lần lên cây cam, cây cam lớn cho đến khi có quả qua một thời gian một năm, hai năm, ba năm, như vậy chớ không phải gieo hạt là có quả liền. Còn lý nhân duyên thì đứng về không gian. Không gian tức là hợp thể. Hợp thể thì choán một khoảng không gian. Cái nhà này là do nhiều sự kiện hợp lại choán một khoảng không gian. Vũ trụ là thời gian và không gian. Mà nhân quả và nhân duyên là cái lý trùm cả vũ trụ. Như vậy gọi là chân lý phổ biến trùm khắp hết không có sót một cái.

Chúng ta học Phật là học chân lý không phải học thứ huyễn hoặc mơ hồ. 

Mục Lục