Thiền Tông Việt Nam
Chuyện Xưa Chuyện Nay - Chân Hiền Tâm
10. Bệnh

Kinh Niết Bàn ghi :

Ca Diếp bạch Phật rằng “Thế Tôn đã khỏi tất cả bệnh, không còn đau khổ, không còn sợ sệt. Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sanh có bốn mũi tên độc : Tham dục, sân khuể, ngu si và kiêu mạn. Bốn thứ độc này là nhân sanh ra bệnh. Nếu có nhân của bệnh thì có bệnh sanh ra, chính là những thứ như hàn, nhiệt, bệnh phổi, ói mửa v.v… Chư Phật thì không còn những thứ bệnh ấy, sao hôm nay Thế Tôn bảo Văn Thù Sư Lợi rằng Phật đau lưng, các ông nên vì đại chúng mà thuyết pháp. Bạch Thế Tôn! Có hai nhân duyên thời không bệnh khổ : Một là thương xót tất cả chúng sanh. Hai là cung cấp thuốc men cho người bệnh”.

Đoạn này được trích từ kinh Niết Bàn phẩm Hiện Bệnh. HIỆN BỆNH là chỉ cho cái tướng bệnh mình thấy ở mỗi người. Đây trích 2 đoạn. Đoạn đầu là nói về nhân duyên tạo ra bệnh. Đoạn sau là nói về cách trị bệnh. Đây là phần Nhân Quả thâm sâu mà chỉ có Phật và hàng thánh chúng của ngài mới chứng nghiệm được. Còn mình thì mình chỉ thấy được phần nhân quả nổi. Đau đầu thì tới bác sĩ soi tới soi lui coi thứ gì sinh ra chứng đau đầu. Do viêm soan mà đau đầu. Do trúng gió mà đau đầu. Do stress mà đau đầu v.v… Tùy cái nhân tìm được mà dùng thuốc trị cái quả cho lành.

Ngày nay y học tiến bộ rất nhiều nên việc tìm bệnh không mấy khó khăn. Bệnh nào rồi cũng trị được. Cũng là cái phước của nhân loại. Nhưng thật ra không phải ai cũng hưởng được cái phước ấy. Cũng vẫn xảy ra trường hợp đáng tiếc : Sai tuyến, sơ sót hoặc đoán nhầm bệnh.

Ông nội cậu bạn tôi hư chiếc răng cấm, tìm đến bà nha sĩ nổi tiếng. Bà không nhổ cái răng ấy, nhè cái răng bên cạnh mà nhổ. Ông chửi om xòm, nhưng chửi gì thì chửi, bà cũng không thể gắn cái răng ấy vô được, đành nhổ thêm cái thứ hai, miễn hết chi phí nhổ răng cộng một lời xin lỗi, rồi huề cả làng. Luôn có sự cố xảy ra khiến cho sự phát triển của y học trở thành méo mó như thế. Tắc trách của y bác sĩ, đưa đến bệnh viện không kịp, đi cấp cứu thì xe cứu thương bị đụng … Biết bao việc tréo cẳng ngỗng xảy ra. Đó là vì ngoài phần nhân quả nổi, vạn pháp ở thế gian vẫn còn bị phần nhân quả thâm sâu chi phối. Nhân tốt, mọi chuyện xảy ra đều tốt. Nhân xấu, mọi chuyện xảy ra đều xấu. Tất cả đều do phần nhân quả thâm sâu này chi phối. Ông bà mình thường nói “Phước chủ may thầy” là đó.

Cái bệnh của mình nó liên quan đến cái họa và cái phước của mình mà ông thầy đâm ra có phần trong đó, không phải chỉ nằm ở việc ông thầy giỏi hay không. Nói “không chỉ nằm” là muốn nói mọi việc không phải chỉ lệ thuộc vào ông thầy giỏi mà còn có thêm nhiều duyên khác phù trợ, không phải là đả phá ông thầy giỏi. Thầy giỏi là cần thiết, nhưng phải có thêm phần phước đức của thân chủ, cái giỏi kia mới thành hình. Vì sao? Vì pháp thế gian là pháp Nhân Duyên. Đủ nhân đủ duyên pháp mới hình thành. Không có cái phước của mình thì thầy giỏi bao nhiêu, cái giỏi ấy cũng đội nón ra đi.

Tôi bệnh, kiếm thầy uống thuốc. Thầy nổi tiếng và được hâm mộ rất nhiều. Nhìn thái độ của bệnh nhân, không khác gì lũ mình đối với Hòa thượng của mình. Rất tin tưởng và trân trọng. Vậy mà cố gắng đến mấy, tôi cũng đành từ biệt thầy không một lời từ giã.

Đó là do cái duyên của mình với thầy không thuận như với người khác. Cái “phước” mình thiếu thành cái “may” của thầy không thành. Pháp Nhân Duyên là như thế. Phật nói “Có cùng có, không cùng không”. Thân chủ không phước thì cái may của thầy cũng tiêu. Thầy giỏi bao nhiêu cũng trơ thây với người bệnh vô duyên. Duyên Khởi hiện diện khắp mọi nơi, không bỏ xót chỗ nào. Không lôi Duyên Khởi ra nói sao được.

Nói DUYÊN KHỞI là nói thứ gì trên đời này cũng do nhân duyên hợp thành. Không có thứ gì tự nó có ý nghĩa khi đứng một mình. Nói xấu là phải xấu với quan niệm của người này. Nói tốt là phải đi kèm với quan niệm của người kia. Nói dài thì phải dài so với cái gì. Nói đẹp thì phải có xấu để so sánh. Luôn phải có duyên đi kèm thì giá trị của pháp mới thành hình. Còn bản thân pháp thì không có ngắn, dài, xấu, tốt. Cái tốt hay xấu mà mình gắn cho pháp đó là nói trên mặt đa số khi pháp ở trong duyên. Như sầu riêng, nếu nhiều người thấy thơm thì mình nói sầu riêng thơm. Nhiều người thấy hôi thì mình nói sầu riêng hôi. Nếu không có cái duyên là con người, hoặc có con người mà lỗ mũi không làm việc được thì chẳng thể nói sầu riêng thơm hay hôi. Có thứ để duyên như thế pháp mới thành hình nên gọi là pháp Duyên Khởi. Duyên Khởi là do duyên mới khởi được. Đơn giản lắm, đừng nghe đến hai chữ DUYÊN KHỞI mà sợ. Duyên Khởi hay Nhân Duyên Nhân Quả là như nhau, chỉ tùy khía cạnh sử dụng mà có tên khác.

Như đi thi hoa hậu, là lấy cái quan niệm xấu đẹp của đa số người đời làm cái xấu đẹp của cô gái. Không có sự phán xét của người đời thì bản thân cô gái là xấu hay đẹp? Bản thân cô gái không xấu cũng không đẹp. Xấu hay đẹp là nương vào quan niệm của mỗi người mà cô gái thành xấu hay đẹp. Pháp hiển tướng nhờ vào duyên như vậy, gọi là pháp DUYÊN KHỞI.

Lệ thuộc vào duyên nên duyên thay đổi pháp cũng thay đổi. Nhưng mình thì thứ gì đã xấu thì tất cả đều xấu, thứ gì đã tốt thì trong mọi trường hợp đều tốt. Cái nhìn đó không đúng chút nào. Không đúng vì nó không phù hợp với qui luật Nhân Duyên của vạn pháp. Tốt hay xấu còn tùy trường hợp, tùy điều kiện. Hiểu được như thế thì đỡ sức tranh cãi, đỡ phiền não, đỡ rất nhiều thứ.              

Đức Thế Tôn sau khi thuyết giảng về DUYÊN KHỞI cho đại chúng nghe ở phẩm trước – Phẩm Đại Chúng Sở Vấn – thì không chịu thuyết giảng nữa, mà nói với đại chúng rằng “Này thiện nam tử, phải tự tu tập tâm mình, chớ nên phóng dật. Nay lưng ta có bệnh, cả mình đều đau nhức, ta muốn nằm như trẻ nít và người thường có bệnh. Các ông Văn Thù Sư Lợi … nên vì bốn bộ chúng mà giảng nói đại pháp”. Phật viện cớ như thế rồi nằm dài ra, nhưng là nằm theo thế nghiêng bên phải, không phải nằm theo kiểu thẳng cẳng như mình. Vậy mà ngài Ca Diếp không chịu. Không chịu vì 2 lý do. Một, Như Lai là bậc có trí tuệ và oai đức lớn, không phải như trẻ nít ngu si không biết nói năng mà nằm ngửa nằm nghiêng không ai quở trách, khiến cho hàng trời người phải lo rầu khốn khổ. Hai, làm cho 96 phái ngoại đạo khinh mạn, cho Như Lai là vô thường. Vì 2 lý do đó mà tôn giả Ca Diếp yêu cầu Như Lai ngồi dậy, không được nói đau lưng rồi làm biếng. Nghe đệ tử nói thế, đức Như Lai mĩm cười ngồi dậy, hiện thân tướng kiết già thanh tịnh, dung nhan vuô(vẻ sáng rỡ, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp hư không.

Tướng hiện bệnh của Như Lai là như thế, tương tự như tướng hiện bệnh của ngài Duy Ma Cật “Vì chúng sanh bệnh nên ta bệnh”. Chư Phật và chư vị Đại Bồ tát có bệnh là vì chúng sanh mà hiện thân bệnh làm lợi ích cho chúng sanh, không phải là loại bệnh như của phàm phu mình đây. Loại bệnh đó là bệnh gì, đây mình không bàn, vì mình không phải là hàng Đại Bồ tát. Có bàn thì nó cũng không mang lại lợi ích cho mình, vì bệnh của mình là bệnh phàm phu. Vì thế đây mình chỉ bàn đến loại bệnh mà hàng phàm phu hay mắc phải để biết cái nhân mà tránh cái quả.

Tôn giả Ca Diếp nói bệnh sinh ra là do 4 thứ tham, sân, si và kiêu mạn. Nghĩa là, 4 thứ đó là nhân sinh ra bệnh cho chúng sanh. Mình có bệnh là vì mình còn bị 4 thứ đó chi phối. Muốn hết bệnh thì phải bỏ đi 4 thứ đó.

THAM là chỉ cho những đòi hỏi của thân và tâm. Chữ THAM này là anh em họ hàng với chữ MUỐN. Những gì đi quá đà, vượt hạn mức cho phép đều thuộc về tham. Tham ăn, tham uống, tham ngủ, tham dục, tham danh, tham vị, tham quyền, tham nhũng v.v… Tu mà vượt hạn mức cho phép cũng gọi là tham mà là tham tu. Thứ gì thuộc THAM, thứ đó sẽ dẫn mình đến bệnh và khổ. Thân cũng có bệnh khổ mà tâm cũng có bệnh khổ. Tham ăn, tham uống thì trúng thực, tiểu đường. Tham dục thì sida, suy thận. Tham nhũng thì ở tù. Tham tu thì sinh bệnh, vượt hạn mức cho phép nữa thì … khùng!

SÂN là sân giận. Thứ gì thấy phùng mang trợn mắt, la hét om sòm, vun tay múa chân, giận dữ, lăn đùng ra đất ... là tướng của sân. Đó là tướng sân thô. Sân tế thì không có các tướng kinh khủng đó mà là im lặng nhưng cái mặt sa sầm, không chút vừa lòng.

Biến dạng một chút nữa là HỜN. Nói gì mà nàng cứ lầm lầm lì lì, không thì mím môi quay mặt, hoặc con mắt liếc ngang có đuôi là biết đã hờn. Hờn là một biến dạng của sân, là cái nhân của bệnh và khổ.

SI thì không có hình tướng rõ ràng như tham và sân, nhưng nó là nền tảng của 2 thứ đó. SI là tên khác của vô minh. Không nhìn đúng thực chất của cuộc đời gọi là si. Do si mà có tham và sân.

KIÊU MẠN là thấy mình hơn người mà lại đi khuyếch trương cái hơn đó lên. Kiêu mạn thường hình thành trong môi trường nào nó thành công. Người thành công trong tiền bạc thì hay kiêu mạn trong lãnh vực tiền bạc. Người thành công trong việc tu hành thì hay kiêu mạn trong vấn đề tu hành. Người cúng dường nhiều thì dễ sinh tâm kiêu mạn trong việc cúng dường. Người giảng pháp hay thì dễ sinh tâm kiên mạn trong lãnh vực giảng pháp v.v... Có kiêu mạn sẽ có cái quả của kiêu mạn.

Kinh Niết Bàn tuy chỉ đưa ra 4 thứ khiến chúng sanh có bệnh nhưng không nói rõ nhân THAM gây ra bệnh gì, nhân SÂN gây ra bệnh gì, nhân KIÊU MẠN gây ra bệnh gì. Chỉ biết một khi mình có bệnh hay tật là vì mình còn tham, sân, si, kiêu mạn. Hết những thứ đó thì hết bệnh tật.

Kinh Trung Bộ tập III và luận Đại Trí Độ có nói đến mối liên hệ giữa nhân và quả của bệnh tật. Người thời nay hay đau ốm bệnh tật, NHÂN DUYÊN THỨ NHẤT là do đời trước hay dùng roi gậy đánh khảo, giam trói, làm các thứ não hại đối với loài hữu tình. Tùy mức độ gây nghiệp và tâm trạng lúc sắp chết mà có cái quả ở địa ngục, súc sanh hay ngạ quỉ. Nếu sinh ra trong loài người thì hay bị bệnh. NHÂN DUYÊN THỨ HAI là đời nay không biết nuôi thân, ăn uống không tiết độ, nằm, ngồi, đi, đứng không chừng mực v.v... mà sinh bệnh, không phải do nghiệp của kiếp trước mà sinh bệnh. Đó là 2 NHÂN chính, ngoài ra còn một số nguyên nhân tạo bệnh khác, song đều không ra ngoài 4 thứ tham sân si kiêu mạn.

Câu Già Ly là đệ tử của Đề Bà Đạt Đa. Thầy chuyên môn xúc xiểm Phật. Trò thì hay để ý đến đệ tử Phật. Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, một lần bị mưa phải trú tạm trong nhà một người thợ gốm. Trong nhà lúc ấy có một người nữ. Ông xem tướng thấy người nữ vừa xuất bất tịnh nên quả quyết với mọi người rằng “Đệ tử của Phật gian díu bất tịnh với người nữ” và đem chuyện này tâu với đức Phật.

Phật nói với Ca Già Ly ba lần như vầy “Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, tâm thanh tịnh nhu nhuyến, ngươi chớ hủy báng mà phải chịu khổ suốt đời”. Nhưng ông không nghe, một mực cho cái thấy của mình là đúng. Sau đó toàn thân ông sanh mụt nhọt, mới đầu như hạt cãi, rồi lớn dần như hạt đậu, quả táo v.v... đau đớn như lửa đốt, kêu la rên xiết, chết ngay trong đêm ấy.

Khổ nạn đó là do khẩu nghiệp mà ra. Dù không cố ý nhưng do cái trí của mình không xuyên thủng được sự thật của vạn sự vạn vật đây mà thành nói oan cho người khác. Cái quả mới ra như vậy. Song phỉ báng người bình thường chắc không đến nỗi phải mang tật bệnh đau đớn như thế, nhưng vì là hàng thánh chúng của Phật nên mới chịu cái quả nặng nề.

Người xưa nói “Bệnh từ khẩu nhập, họa từ khẩu xuất” là vậy. Ăn quá nhiều. Ăn những thứ thân không cho phép mà cứ ăn nên bệnh. Miệng hay nói, nói những thứ không nên nói nên sinh họa.

Nói sơ về những cái NHÂN trực tiếp sinh ra QUẢ bệnh tật như thế là để mình soi rọi lại chính mình, xem mình có bệnh có tật đó không. Nếu có thì trừ đi cái nhân ấy để khỏi gặt cái quả. Không phải là thứ mình dùng để soi chiếu ra ngoài. Bởi pháp thế gian là pháp Nhân Duyên. Có khi cùng nhân mà quả lại có nhiều sai khác. Có khi quả thì như nhau nhưng lại bắt nguồn từ nhiều nhân khác nhau. Đó là vì trong quá trình đi từ nhân đến quả, còn phải chịu sự chi phối của duyên.

Như nghiệp sát sanh, cái quả của nó thường là chết yểu. Song vẫn có thể nhờ cái duyên là tích tập công đức tu hành mà chuyển hóa cái quả chết yểu thành bệnh tật. Cho nên, nhiều khi mình thấy sao người hiếu hạnh phúc đức lại nhiều tật bệnh, thực ra chính nhờ cái hiếu hạnh phúc đức đó mà chỉ bị tật bệnh, không thì chết ngủm lâu rồi.

Kinh Kim Cang nói, thấy người trong đời nay hành trì kinh Kim Cang mà vẫn bị người đời khinh chê thì biết người đó đáng nhẽ bị cái quả địa ngục nhưng do hành trì kinh Kim Cang mà thoát kiếp địa ngục, chỉ bị người phỉ báng khinh chê. Trong mọi lãnh vực đều như vậy, nhưng phải là loại nghiệp bất định và sự chuyển hóa không chỉ nằm trên việc làm phước mà phải chuyển cho được tâm chúng sanh thành tâm thanh tịnh. Vì thế nói “Hành kinh Kim Cang”.

Biết nhân sinh ra bệnh, muốn dứt quả bệnh thì phải trừ nhân. Nhân là tham - sân - si và kiêu mạn. Phải trừ đi những thứ nhân đó thì mình mới hết bịnh. Đây ngài Ca Diếp nói “Phải thương xót tất cả chúng sanh và cung cấp thuốc men cho người bệnh”. Vậy sự thương xót và cấp thuốc men cho người bệnh đó liên quan thế nào với cái nhân tham - sân - si, mà đây không dạy trừ bỏ tham sân si lại chỉ dạy thương xót chúng hữu tình?  

THƯƠNG XÓT CHÚNG SANH là không ghét bỏ ai, không thấy mặt ai đáng ghét, không thấy bực mình đau khổ khi phải đối diện với họ. Đó gọi là thương xót. Chúng sanh là chỉ cho tất cả mọi loài từ con người đến con vật. Không phải chó lông xù thì thương mà chuột cống thì gớm. Người thương mình thì mình thương mà người ghét mình thì mình ghét. Gớm thì một ngày mát trời nào đó, mình sẽ đổ nước sôi luộc chín nó. Không ưa thì cái gì nó làm, mình cũng thấy không vừa lòng, hở cái là than phiền, nên mắc khẩu nghiệp. Rất dễ sinh nhiều tội lỗi khi vướng vào thương và ghét. Có khi giết người cũng nên. Quả báo không phải nhỏ. Nên Phật dạy phải thương xót tất cả chúng hữu tình.

Song muốn thương xót được chúng sanh bên ngoài, thì đầu tiên là phải thương xót chúng sanh trong tâm. CHÚNG có nghĩa là họp lại, tụ lại. SANH nghĩa là khởi lên. CHÚNG SANH, nghĩa chính của nó là tụ lại mà sanh. Cái gì tụ lại? Tâm, ý và ý thức tụ lại mà phát khởi đủ thứ quan niệm, suy nghĩ, vui, buồn v.v... là chỉ cho những gì khởi lên trong tâm mình. Chính là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Mình phải thương xót những em này trước. Những em này được bảo bọc kỹ càng rồi thì tâm Phật của mình mới hiển lộ. Một khi Phật tâm hiển lộ thì trí tuệ và từ bi xuất hiện. TỪ BI có rồi thì thấy ai cũng thương. Thương này là thương mà không dính mắc. Không phải thương theo kiểu mấy ông mấy bà thương nhau rồi dẫn đến chuyện động trời động đất. Cái nớ không phải là từ bi mà là ái dục.

DÍNH MẮC là thứ để ta có thể phân biệt được từ bi với ái dục. Nếu thương mà có dính mắc là ái dục, không dính mắc là từ bi. Loại tình thương nào khiến mình bận tâm với nó nhiều quá, là mình đã dính mắc với nó dù là tình thương đối với một đứa trẻ hay một người nghèo khổ. Dính mắc theo kiểu này, kinh không gọi nó là ái dục mà gọi là ái kiến đại bi. Tốt đó nhưng bị chi phối bởi tình cảm thường tình nhiều quá, thiếu trí tuệ và định lực, nên gọi là ái kiến đại bi. Nếu đúng là đại bi, nó phải là dụng của Phật tâm, không phải là loại tình thương bắt nguồn từ những quan niệm định kiến của mình. Cái thương ấy không làm mình dính mắc với vạn pháp, không khiến mình làm chuyện hại người hại vật, cũng không bị hạn cuộc dưới bất cứ một hình thức nào.

Cho nên, tu không có nghĩa là trở thành cây khô cỏ đá, mà chỉ là chuyển tình thương nhỏ hẹp của mình thành tình thương rộng lớn. Đây là lý do vì sao bà cụ đốt am đuổi mất thầy tăng. Bởi bà nắm vững tinh thần mà một người tu chân chính cần đạt đến.

Chuyện bà cụ đốt am đuổi tăng là vầy. Một lão bà phát tâm dựng một chiếc am cho tăng nhân khi biết ông muốn nhập thất tu hành. Sau mấy năm hầu hạ cơm nước đầy đủ, bà cụ bảo đứa cháu gái “Con mang cơm vào cho thầy, sau đó ôm ngang lưng thầy và hỏi ‘Ngay bây giờ thì thế nào?’. Coi thầy trả lời sao rồi về thuật lại cho ta”. Đứa cháu gái y theo lời mà làm, rồi hỏi “Ngay bây giờ thì thế nào?”. Tăng trả lời “Khô mộc ỷ hàn nham, tam xuân vô noãn khí”. Cây khô trên núi lạnh, ba xuân không chút hơi ấm. Đại khái là tôi bây giờ như cây khô không còn tình cảm gì đâu mà thử. Lão bà nghe cháu gái thuật lại như thế điên tiết nói “Lão tu thế nào ta không cần biết, nhưng ít nhất phải còn chút tình cảm chứ! Thật uổng công ta nuôi ăn mấy năm”. Nói rồi đốt am, đuổi quách thầy tăng.

Thầy biết không xong, vào năn nỉ bà lão cất am cho nhập thất lần nữa. Thời gian sau bà lão cũng bổn cũ soạn lại. Lần này, tăng thoải mái trả lời “Tôi biết, cô biết, đừng cho bà lão biết”. Đứa cháu về thuật lại cho bà cụ những gì thầy tăng nói. Lần này bà cười khoái chí “Vậy mới đúng là thánh tăng”.              

Tu là để trở lại tâm Phật của chính mình. Phật tâm thì đầy đủ trí tuệ và tình thương nhưng không dính mắc, không phải tu rồi thì trở thành cây khô cỏ đá. Vì thế chỉ có “Cô biết, tôi biết, đừng cho bà lão biết” mà không còn là “Cây khô trên núi lạnh, ba xuân không chút hơi ấm” nữa.

BIẾT rồi thôi, không sanh thêm gì nữa thì đó chính là Phật tâm. Phật tâm thì bình đẳng không có phân biệt. Nói chính xác là “Phân biệt cũng không phải ý”. Nam không khác nữ nhưng nam không phải là nữ. Vì thế mọi thứ thành hồn nhiên mà không lẫn lộn. Cô thấy tôi thì chỉ thấy tôi rồi thôi, đừng khởi lên tăng này đẹp quá, tăng này tu hành gì mà kỳ, hoặc kèm thêm bao nhiêu cảm giác tâm tư khác nữa. Mấy thứ khởi lên đó là mở đầu cho một cuộc hành trình vất vả của tâm. Bởi thường đã thấy đẹp thì muốn nhìn. Thấy thương thì muốn giữ. Từ cái giữ đó mà sinh chuyện.

Nói “thường” tức không phải khi nào cũng vậy. Vẫn có người chiêm nghiệm những thành quả của thiên nhiên mà không hề bận tâm theo những thành quả đó. Một chút nên thơ trong mộng của những người đã tỉnh mộng. “Nhạn quá trường không, ảnh trầm hàn thủy, nhạn vô di tung chi ý, thủy vô lưu ảnh chi tâm”. Chim nhạn bay ngang trên không, bóng in xuống hồ lạnh. Nhạn không có ý để bóng. Nước không có tâm giữ bóng. Đủ duyên thì hiện. Hết duyên liền không. Không như tâm chúng sanh, đụng đâu cũng vướng như kẹo chewgum, qua rồi rẩy mấy cũng không đi. Đều do phần ý thức phân biệt mà ra.

Nếu cô gái chỉ BIẾT như thế thì cô cũng là một thánh tăng. Lúc đó cô có thể biết tất cả pháp mà không vướng tất cả pháp. Phật tuệ hiện tiền thì tình thương dung dị đầy đủ nhưng không hề dính mắc. Nếu tâm đã không mà giữ chặt cái không ấy, thì không làm sao tiếp độ được chúng hữu tình. Không làm sao thấy được tâm người mà tiếp độ.

Bao nhiêu người đến với Hòa thượng vì Hòa thượng lạnh lùng, ánh mắt không một chút tình thương? Sẽ chẳng còn ai. Người ta đến với đạo vì người ta tìm thấy nơi đức Phật sự thương yêu che chở, bao dung và tha thứ. Là nơi có thể tha thứ mọi tội lỗi trái khuấy của người đời. Chính nhờ thứ tình thương vô trụ ấy mà chúng sanh tìm đến với đạo. Muốn vậy thì tâm phải KHÔNG mà không được thủ lấy cái không ấy. Nhuần nhuyễn lưu chảy và không để lại dấu vết.

Thương theo kiểu ái kiến thường tình của người đời không được đã đành mà trơ trơ như cây đá cũng không xong. Đó là hai thái cực mà người tu cần phải tránh. Cái cực khô ngắt kia có thể là một chặn đường mà người tu phải đi qua, nhưng đó không phải là chỗ rốt ráo. Khó lắm không phải dễ. Có tình thương mà không được dính mắc. Ác là ở chỗ đó.

CUNG CẤP THUỐC MEN cho người bệnh thì dễ hiểu rồi. Nhưng chỗ này cũng phải khéo. Thuốc không phải là thứ mà người này uống hay thì người khác uống cũng vậy, rồi đụng đâu cũng cung cấp. Không phải. Phải tùy duyên. Cái duyên này rất quan trọng. Không cẩn thận không được. Cho nên, tuy nói cung cấp thuốc men nhưng ý là làm sao giúp phương tiện để người bệnh được lành. Cung cấp mà phải có lòng thương xót tất cả thì việc cung cấp thuốc men của mình mới không bị hạn chế.

Thiền sư Phật Quang đối với đồ chúng rất từ mẫn. Dù là kẻ du phương tham học hay lưu học sinh đều được Sư ra lệnh cung cấp đầy đủ các thứ cần dùng, nhất là với người có bệnh. Thuốc men khi nào cũng chu toàn.

Một lần, chưởng quản Khế Hội cầm một xấp biên nhận lên than với Sư về việc chửa răng của đồ chúng, thuốc men quá tốn kém, không thể lo nổi. Sư trả lời “Không lo nổi cũng phải tìm cách lo cho nổi”. Khế Hội thấy Sư dứt khoát như thế mới nói “Tuy thọ của thường trụ nhưng họ lại không biết ơn, còn bất mãn. Con thấy không nên xuất tiền lo cho uổng”. Thiền sư Phật Quang trả lời “Hạng ấy tuy thốt ra toàn lời không tốt, nhưng không vì thế mà không trang điểm được cho họ một cái răng tốt”.

Cách xử sự của chư lão thiền sư là như thế. Tâm lão bà, khi cung cấp thuốc men cho ai, không quan tâm đến việc người ấy tốt hay không. Chỉ biết người đang cần thì cung cấp, bất kể là thân hay sơ, giàu hay nghèo, tốt hay không tốt. Thương xót hết thảy chúng sanh thì phải vậy.

Sử dụng được hai nhân duyên đó thì mình sẽ tránh được bệnh tật trong tương lai. Nếu có bệnh trong hiện tại, mình cũng gặp được thầy được thuốc chữa trị đúng đắn, không đến nổi tiền mất tật mang, tổn hại đến bản thân. Song bệnh thân không bằng bệnh tâm. Bệnh tâm hết, cuộc sống của mình mới thật là hết bệnh.

Mục Lục