|
Tông Môn Cảnh Huấn 1
31. Thiền viện Linh Chiếu
Ngày 11/7/ Quý Dậu - 28/8/1993 Hôm nay Thầy vào thăm các vị nhập thất, qua những điều trình bày của mỗi vị, Thầy đúc kết lại nhắc nhở chung cho tất cả được biết. Trong khi tu, nghiệp chướng báo chướng của từng người hiện ra khác nhau. Có đứa thì do báo chướng lâu đời nên trở ngại về thân. Có đứa ngồi thiền bị giật cái gân ở trong, điều này không phải chỉ riêng tụi con ở đây bị, mà hồi xưa ở Chơn Không, giờ chúng ngồi thiền Thầy đi tuần, thấy có vị đang ngồi cũng bị giật bắn người lên như vậy. Để trị được bệnh này cần phải khéo. Ngồi thiền bị giật có hai lý do. Lý do thứ nhất: Khi ngồi, gân tay chân mình không được thoải mái vì không đúng cách, hoặc có những cái tréo chân không hợp nên sanh ra như vậy. Lý do thứ hai: Do những chứng bệnh ở trong cơ thể của mình, nên khi ngồi lại bị giật hoặc bị bệnh phong v.v.. Bệnh phong thì thuộc về bệnh, phải uống thuốc, còn bệnh do ngồi không ngay thẳng, đúng chiều hướng của các sợi gân nên nó giật, khéo điều chỉnh một chút là hết. Có hai cách: Cách thứ nhất là sửa tư thế ngồi. Khi bắt đầu ngồi, thay vì kéo chân lên liền thì nên cử động chân nhiều lần cho gân được đàn hồi đều đặn, nghiêng qua nghiêng lại cho thẳng thớm, không có gì trở ngại mới kéo chân kiết già, để tay lên ngồi yên lặng. Nhiều khi vừa ngồi xuống là cứ kéo chân lên liền, nếu ngồi ra sao thì chịu vậy chứ không sửa, nên lâu ngày thành bệnh. Cách thứ hai là xoa bóp thật kỹ chỗ đau. Điểm nào bị giật hay hơi đau thì phải xoa bóp thật kỹ ngay chỗ đó, để cho gân cốt dãn ra. Xoa gấp năm hoặc mười lần bình thường, làm đáo để như vậy mà không hết thì biết đó là bệnh do thân, phải uống thuốc. Có đứa trong thời gian nhập thất nhịn đói, điều này không nên. Bởi vì nhịn đói nhiều ngày khiến cho cơ thể nóng chỗ này chỗ kia. Thầy không dạy tu nhịn đói. Ai áp dụng cách này để tu tức là ngoài hướng của Thầy sắp đặt, nếu có những triệu chứng lạ xảy ra thì Thầy không thể biết để hướng dẫn. Thế nên tụi con phải kiểm lại mình và tự điều chỉnh, Thầy không có kinh nghiệm về việc này, vì Thầy chưa từng nhịn đói. Người tu thường xảy ra những sự chướng, phần nhiều do chấp mà thành chướng. Như có đứa chấp ít uống nước, lâu thành chướng, thành bệnh... Hệ trọng nhất trong việc tu là tập cho mình sống điều hòa, điều hòa thì thân thể yên ổn không có gì trở ngại. Thí dụ, khi ở ngoài mỗi ngày ăn uống bao nhiêu thì trong khi nhập thất cũng y như vậy. Tuy nhiên, ở ngoài do lao tác nhiều nên ăn uống nhiều, còn vào thất ít làm thì nhu cầu ăn uống ít lại, đây cũng là việc bình thường. Tùy theo nhu cầu của bao tử mà điều độ cho vừa phải, đừng cố chấp nghĩ rằng phải giảm cái này, bớt cái kia. Từ giảm bớt sanh ra bất thường, bất thường thì dễ sanh bệnh. Điều này tụi con phải khéo ứng dụng tu, đừng để bị chướng. Thầy thường nói, người tu thiền là kỹ sư của chính mình. Trong khi tu, nếu thấy có những biểu hiện lạ thì phải khéo kiểm lại mình, tìm xét nguyên nhân xem tại sao có triệu chứng đó, rồi sửa đổi, tự mình điều chỉnh là hay nhất. Bởi vì người khác không biết được bệnh của mình, nếu đem hỏi mà người ta không có bệnh ấy thì làm sao chỉ dạy được. Vậy nên mình phải tự kiểm điểm cho thật kỹ, đừng để lầm lẫn thành bệnh rồi sanh cố chấp, phải linh động chứ cố chấp thì bệnh không giảm. Có đứa nghĩ mình nhập thất phải ráng ngồi thiền thêm giờ, điều này Thầy nói rõ cho tụi con biết. Cố gắng ngồi thêm giờ mà tâm vẫn an định là tốt, còn cố gắng mà kềm quá thì thành bệnh. Như người ngồi được định rồi thì có ngồi thêm mấy tiếng cũng không sao, vì không thấy khổ. Khi được định rồi, tự nhiên không muốn ngồi lâu cũng thành ngồi lâu. Nếu ráng ngồi để cho mình ngồi thiền được mấy tiếng thì không hay, bởi tâm chưa định mà cố kềm, ráng quá thành ra khổ. Các thiền sư ngày xưa không phải cố kềm mà thành định, chỉ là trong khi ngồi yên tự nhiên an định. Định thì cảm thọ nhẹ nhàng, không đau đớn. Khi biết ngồi thiền, Thầy mới cảm thông được các thiền sư hồi xưa, nhất là đức Phật. Trước khi Phật sắp tịch, Ngài phải xả mạng sống. Bởi vì lẽ ra còn sống nữa nhưng Ngài xả, nên 80 tuổi Phật nhập Niết-bàn. Các vị chứng A-la-hán, có vị ngồi nhập định hoài không tịch. Ngồi thiền ngay thẳng, đúng phương pháp thì lúc ngồi lâu có sức định phi thường, rất mạnh, có thể làm chủ cả người. Như trường hợp ngài Xá-lợi-phất, ngồi thiền bị con quỷ đánh trên đầu mà ngài không đau. Đây rõ ràng là do sức định mà không cảm thọ đau đớn, còn nghe đau chỗ này chỗ kia, tức là sức định còn yếu hoặc chưa có sức định. Nếu được định rồi thì những cái đau đớn cũng hết, dù cho cái gì ở ngoài xâm nhập mình cũng không được. Đánh còn không nghe đau, huống nữa là trúng gió bị cảm. Trong lúc tu, hiểu và thấy được đạo lý là điều rất tốt. Thầy hay nói với Tăng Ni, trong khi tu có những phút giây hé mở được con mắt trí tuệ, nhớ là chỉ hé mở thôi chứ chưa mở hoàn toàn, lúc ấy thấy cái gì cũng thánh thiện hết, nhưng khi ra thất thì bị nhắm lại, phàm tục như thường. Có nhiều người không hiểu, lúc tu thấy được đạo lý tưởng rằng ra ngoài cũng vậy, đến khi tiếp duyên xúc cảnh thì đạo lý không còn. Thế nên phải rất dè dặt. Tu thấy sáng tỏ đạo lý là duyên tốt để chứng nghiệm lời Phật tổ dạy không sai lệch. Từ duyên tốt đó ráng miên mật tu, trong khi ở trong thất hay lúc ra thất cũng vậy. Đừng thấy rằng việc tu như thế là đủ, mà còn phải trải qua thời gian dài để tiêu diệt những niệm vi tế, vô minh thăm thẳm. Có một thầy nhập thất nói một câu nghe rất lý thú: “Mở mắt thấy dường như trước mắt, mà chạy đi thì đi hoài không tới”. Mở mắt thấy như ở trước mắt rồi, nhưng đi hoài không tới, vì thói quen muôn đời của mình cứ chen vô hoài nên muốn tới cũng khó. Mỗi khi có đứa nào tu mà lóe sáng được một chút, Thầy rất hoan hỷ vì thấy tụi con được tăng trưởng lòng tin. Từ đó mà ráng tu lâu dài để khi đối duyên xúc cảnh, tâm mình vẫn an nhiên tự tại, như lời của chư Tổ dạy: Tám gió thổi không động. Nếu ở trong thất yên nhưng ra ngoài ai chọc thì nổi giận, tức là đã bị gió động rồi. Vậy nên Thầy nói, việc tu thấy như dễ mà xét lại thì rất khó. Khó là vì thói quen muôn đời của mình, lý trí thì biết lời nói là giả, qua rồi mất, mà tát tai một cái là nổi sân liền. Qua đó mới thấy tập khí của mình nhiều đời lắm, những phản ứng của thói quen mình không lường trước kịp, vì chưa làm chủ được. Tu tới chừng nào việc gì xảy ra tụi con vẫn làm chủ được, đó mới là sáng đạo thật. Người nào trên đường tu thấy được đạo lý rõ ràng, đó là nhờ phước lành nhiều đời, nên bây giờ ngồi tu có duyên rất tốt. Hiểu đạo làm cho mình tăng trưởng lòng tin, sự tu hành có thể thay đổi khác hơn trước. Tuy nhiên cần phải dè dặt thói quen của mình. Muốn tiêu diệt những tập khí muôn đời thì cần có thời gian, nên việc tu phải bền lâu chứ không thể chỉ nỗ lực trong một khoảng ngắn mà xong. Thầy đã 70 tuổi mà còn chưa diệt hết huống là mấy đứa con, không biết tới chừng nào mới sạch tập khí. Lý thuyết thì mình nói rành mà sân là tội lỗi, là ba thứ độc thì mình lại bỏ không được. Tu là trừ bỏ được tập khí, việc này cao siêu khó làm vô cùng. Phật tử thấy mình hay hơn họ, vì họ làm không được mà người tu làm được nên Phật tử mới lạy mình. Vậy nên tụi con phải ráng tu, phải sáng đạo hơn người thế gian. Có tu thì đức hạnh mới cao, mới xứng đáng làm thầy hướng dẫn Phật tử. Nhập thất là thời gian tự mình chấp nhận ở một chỗ. Thầy thường tuyên bố rằng, người quyết tâm tu hành là người rất can đảm, không ngại bất cứ khó khăn nào. Ở thế gian nếu bị bắt ở yên một chỗ không được đi đâu thì thấy như ở tù, còn người tu được vào nhập thất đó là hạnh phúc. Cho nên được nhập thất tu, tụi con phải tận dụng thời gian này, nỗ lực tu hành cho sáng đạo, đừng lãng phí một phút giây nào. Đó là Thầy nhắc nhở chung cho tất cả. *** Tháng 02/ Canh Thìn - 2000 Hôm nay có các vị phát tâm nhập thất chuyên tu, Thầy có vài điều nhắc nhở để tụi con nắm vững khi tu. Điều thứ nhất: Thời gian nhập thất là thời gian quý báu vì lâu lắm mới được nhập thất một lần. Ở ngoài công tác đa đoan nên khó thúc liễm thân tâm, vô thất là lúc buông hết những việc bên ngoài, chỉ chuyên làm một việc là thúc liễm thân tâm của mình. Phải tiết kiệm từng giờ từng phút, đừng xao lãng. Trừ những lúc ngủ, còn lại thì đi, đứng, nằm, ngồi đều phải luôn làm chủ. Trong các thời khóa tụng kinh, tọa thiền... đều không để vọng tưởng dẫn. Điều thứ hai: Nên nhớ việc tu phải rất nhẹ nhàng đừng quá kềm chế, khéo buông xả không nên đè nén không cho niệm dấy. Đừng chăm bẵm đè, không tốt. Vì đè sẽ bị ran ngực, hơi thở không thông. Tất cả phiền não tập khí khởi lên thì liền buông bỏ không theo, nếu niệm nào mạnh quá buông không nổi thì phải quán là huyễn, là giả. Lúc ngồi thiền hơi thở phải đều đều, nếu chú ý hít sâu thở ra dài mà mệt quá, thì thả lông nhẹ nhàng, đừng chú ý nữa. Điều thứ ba: Nếu trong thời gian nhập thất, tuy thấy an ổn mà có những hiện tượng lạ, khi ẩn khi hiện thì cũng đừng sợ. Cứ giữ tâm bình tĩnh, ngồi nghiêm chỉnh, mở mắt thật lớn. Phải biết những hiện tượng như cảm giác lạnh, nóng... đó là do khi tu kềm chế tâm nên nó hiện ra như thế, chứ không có gì lạ. Nếu mở mắt ra vẫn thấy chập chờn, thấy thân mình nhẹ hẫng hoặc nặng nề, lúc ấy phải chấn chỉnh nhìn cho thật tường tận những việc trước mắt, đừng để chập chờn, vì đó là việc không tốt. Dù có ma quỷ hay Phật, Bồ-tát hiện ra, cũng là hiện tượng ở tâm mình. Nếu không mừng không sợ là tu có tiến, còn có niệm sợ là sự tu bị thối lui. Vì niệm sợ sẽ làm tâm không an. Hoặc lúc ngồi thiền nghe hơi thở nhẹ nhàng, tưởng như sắp bay lên khỏi bồ đoàn, nhưng thật sự chỉ là ảo giác, hoàn toàn không thật. Nói theo Nguyên thủy thì trạng thái đó gần với trạng thái khinh an. Đây là những hiện trạng do công phu tu hiện ra, cứ tỉnh táo thấy bình thường thôi thì tự nhiên nó qua, đừng sợ cũng đừng mừng. Ở ngoài do công tác lăng xăng mình chỉ chuyên tâm được phần nhỏ, nên khi vào thất chuyên tu tất nhiên sẽ có phản ứng ngược, cũng như chiếc xe chạy nhanh sẽ bị sức gió cản lại. Phản ứng đó là do dụng công nhiều, có khi thuận có khi nghịch. Lúc tu tâm yên ổn thấy cảnh tốt đẹp, nếu quá vui mừng rồi tự hào mình tu hay, sanh ra ngã mạn thì cảnh đó sẽ mất liền. Thế nên có vui thì vui nhè nhẹ rồi buông xả cho qua, chứ đừng chấp giữ mà thành bệnh. Nếu có những phản ứng nghịch như thấy người giật gối, hay nghe tiếng cọt kẹt... đó là do ảo giác của mình. Thí dụ đang ngồi thiền, nghe tiếng trái đào rớt trên nóc nhà cái bộp, hoảng hồn tưởng ai dỡ nóc nhà chui vô. Tiếng bộp là trái đào rụng, tiếng cọt kẹt là gió thổi cửa động... mà sanh hoảng hốt, đó là do mình tưởng quá chứ không có thật. Vậy nên trong lúc tu, nếu có xảy ra điều gì bất thường thì phải bình tĩnh, đừng suy đoán vội vã, cũng đừng cho đó là điều gì kỳ lạ. Điều thứ tư: Nếu trong khi tu, bất chợt nhận ra được mình có cái chân thật, mà bấy lâu nay chỉ biết qua đọc kinh sách hoặc nghe Thầy giảng. Bây giờ tuy rõ ra nhưng vẫn chưa sống được, cũng đừng phàn nàn tại sao thấy biết mà không sống được. Bởi vì khi tu có lóe sáng, nhưng vì tập khí còn nặng nề, sâu dày lắm nên tuy thấy mà vẫn còn nhiều điên đảo. Điều quý là biết mình có kho báu, tức sẽ không còn nghèo khổ khốn cùng nữa. Tin tưởng như vậy và cố gắng tu. Việc tu hành không phải một lần thấy, một lần hiểu là xong. Như ngài Trần Tôn Túc nói: “Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ, việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ”. Thế nên trong nhà thiền thường nói đốn ngộ tiệm tu. Tu là phải trải qua nhiều giai đoạn, lâu dài mới hết nghiệp chướng. Khi tu thấy nhẹ nhàng mà lúc trước ở ngoài không thấy, điều này giúp chúng ta có được niềm tin vững chắc rằng hễ có dụng công tu thì có tiến. Nhưng luôn nhớ là khi có những sự việc gì xảy đến, cũng luôn giữ vững lập trường của mình. Vì tu là một điều cụ thể thực tế, nên không quá mừng cũng đừng tự hào. Vừa khởi niệm ta tu ngon lắm rồi, thì ngã mạn liền khởi lên, không tiến được nữa. Đó là bốn điều căn bản, những điều khác thì tùy duyên mà linh động tu, theo như lời Thầy từng nhắc nhở chỉ dạy. Khi phát tâm vào thất tu phải phát đại nguyện, trong suốt thời gian nhập thất dù bị bệnh hay gặp bất cứ chướng duyên gì, cũng nhất định sống chết không lùi. Phát nguyện mạnh như vậy thì lúc gặp chướng mới không thua. Nếu nhập thất mà thảnh thơi qua ngày, thuận duyên thì tiến, nghịch duyên thì thối, như vậy thời gian tu sẽ không được trọn vẹn. Những năm trước, trong Viên Chiếu có Minh Ánh nhập thất thuật lại. Một hôm đang ngồi thiền có con rắn bò ngang chân, rồi nằm khoanh trong lòng hai bàn tay đang để ngửa. Nó cứ để yên như vậy, lát sau con rắn bò đi hồi nào không hay. Người ta nhập thất thấy rắn bò lên tay vẫn không sợ, còn mấy đứa con mới thấy rắn bò trên nóc nhà đã la hoảng hốt lên rồi, thậm chí tới con mối cũng sợ. Rắn rít nguy hiểm sợ đã đành, còn con mối có nguy hiểm gì mà sợ! Rắn ở xứ mình đâu phải rắn độc, nó chỉ bò trên nóc nhà chứ có làm gì mình đâu. Tu như vậy là quá yếu, quá dở, vì cái ngã còn quá to! Chừng nào nó cắn thì hãy la, còn không cắn thì thôi kệ nó. Thời Phật, chư Ni vào rừng ngồi thiền một mình còn không sợ, bây giờ nhập thất trong chỗ kín đáo, rất an toàn, không nguy hiểm gì hết mà còn sợ là quá yếu đuối. Nhớ gương người xưa mà phát nguyện cho mạnh, dù gặp chướng ngại gì cũng phải chiến thắng, để được tròn thời gian nhập thất của mình. Thầy thường nói “khi tu là chấp nhận chết trên bồ đoàn”. Có gan dạ thì tu mới tiến, người tu là người liều chết để đạt đạo. Vào thất là cơ hội cho mình hạ quyết tâm tiến tu chứ không phải thời gian tầm thường, vì vậy phải cố gắng, buông hết mọi việc, dù chết cũng không sợ sệt. Rắn ở ngoài thì sợ, còn rắn bên trong sao không sợ? Phật dạy tham, sân, si là ba con rắn độc. Ba con rắn này độc hơn rắn ở bên ngoài, vì rắn ở ngoài cắn chỉ chết một thân này, còn tham sân si thúc đẩy mình tạo nghiệp đi trong luân hồi vô số kiếp. Vậy mà ôm tham sân si ngủ, còn thấy rắn ở bên ngoài thì sợ không ngủ được. Vậy là không sáng suốt rồi! Khi phát nguyện nhập thất từ một đến ba tháng... thì phải can đảm, đừng để bại trận. Xem những tháng ngày đó là những tháng ngày quyết tử, không tu lôi thôi. Chấp nhận ngồi thiền mà rắn có cắn chết tại chỗ cũng vui, còn thấy rắn rồi đòi xin xả thất thì quá tệ! Có người khi nhập thất chuyên tu, ngồi thiền biết vọng không theo thì vọng lặng, nhưng một hồi nó lại dấy lên, rồi sanh lo sợ không biết làm cách nào cho nó lặng luôn? Chỗ này phải hiểu, vì vọng đã huân chứa trong tàng thức lâu quá rồi, bây giờ biểu lặng liền một lúc thì làm sao được? Thí dụ từ thuở bé học một bài thuộc lòng, đọc thuộc nhừ tử đến giờ câu chữ còn in đậm trong tàng thức, lâu lâu nhớ lại. Muốn không nhớ nữa thì mỗi khi nó khởi lên đừng đọc theo, cứ thế nhiều năm nhiều tháng mới có thể quên luôn. Nếu bảo nhất thời quên hết thì không thể, vì làm sao một lúc xóa hết được. Lục Tổ nói “niệm khởi tức giác”. Khi niệm khởi mà mê là chúng sanh, còn giác là ngộ, tức Phật. Niệm dấy lên liền biết có niệm, không theo nó đó là giác. Có một chúng sanh trong tâm hiện ra mình lập tức biết, tức là Phật hiện tiền. Dù vọng hiện mấy trăm ngàn lần cũng không sao, chỉ cần vọng dấy lên liền giác, giác mãi lâu ngày tập khí bên trong mòn thì tự nó hết. Như vậy có thiệt thòi gì đâu mà sợ, sợ nhất là khi niệm khởi không biết, chúng sanh hiện ra không hay, để nó dẫn mình đi khắp nơi, đó mới là thiệt thòi. Nếu niệm thô đã lặng mà các niệm tế vẫn còn thì phải luôn luôn tỉnh sáng. Như nước trong biển cả, khi gió mạnh thổi thì sóng to nổi ầm ầm, đến lúc gió ngưng tuy các lượn sóng to dừng nhưng mặt biển vẫn còn gợn lăn tăn, chứ không phẳng lặng hoàn toàn. Cũng vậy khi tu, niệm thô dừng song niệm tế vẫn hiện ra, muốn niệm tế hết thì phải dần dần, lâu ngày tự nó lặng chứ không sao dẹp được. Vì khởi niệm đẹp tức là động, chỉ cần tỉnh sáng biết và để cho qua. Hoặc có trường hợp do cố gắng nỗ lực tu nên thấy dường như thắng trận, nhưng tới một lúc nào đó giặc phản công thì thua. Đây là thắng trong sự say mê đuổi giặc chứ không phải thắng thật sự. Thắng trận thật sự là phải thấy được cái quý, cái đẹp nơi mình. Lúc tọa thiền trong thất thấy được, đến khi ra thất cũng phải sống được, thì cái thấy đó mới là thật. Nếu ở trong thất thấy, còn ra thất thì không thấy, tức chưa phải là cái thấy đến nơi đến chốn. Làm sao khi nhập thất thì nhập, hết hạn thì xả, cứ hoạt động bình thường, trong tâm lúc nào cũng tỉnh sáng, sống được với cái chân thật của mình, còn bất thường thì chưa phải là thứ thiệt. Như vậy trong khi tu, có khi thua có khi thắng. Thua rồi đầu hàng luôn là không được, thua keo này bày keo khác, nhất định nỗ lực hơn, phải mạnh mẽ lên thì sẽ chiến thắng. Thua rồi thối tâm không muốn nhập thất nữa, như vậy là chưa biết tu. Khi tu có lúc tiến lúc lùi, điều đó không có gì lạ. Bởi vì tâm mình có lúc an ổn nhẹ nhàng, nhưng cũng có khi trở ngại nặng nề khó chịu. Trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A-Nan nói đó là bệnh rét cách ngày. Lẽ ra mạnh thì mạnh luôn, sao lại có ngày nay bệnh ngày mai đau? Đó là bệnh của người mới bắt đầu vào đạo, dụng công có khi an có khi không an, là do tu chưa thuần. Phải cố gắng tu cho đến khi bệnh rét cách nhật hết mới được. Có những vị nhập thất tu tiến, đó là điều đáng mừng. Nhưng phải nhớ, khi tu thấy biết điều gì hay lạ, chỉ nên trình với người hướng dẫn mình thôi, chứ không nên nói ra bên ngoài, vì nói nhiều là có ý khoe khoang, như vậy phạm lỗi lớn. Trong quyển Pháp Yếu Tu Tập Tọa Thiền Chỉ Quán kể, có vị Tăng tên Pháp Tế tự khoe mình được thiền định. Một hôm tình cờ gặp Đại sư Trí Khải, Tăng Pháp Tế nằm dựa ghế hỏi: - Một người ở trong định nghe đất núi rúng động, biết có vị Tăng đang quán lý vô thường. Đây là định gì? Đại sư đáp: - Là biên định chưa sâu, là tà chứng ám nhập, nếu chấp hoặc nói thì định mất, không nghi. Pháp Tế kinh hãi đứng dậy thưa: - Tôi thường được định mà vì nói cho người khác nghe, nên định này liền mất. Vị Tăng tu quán vô thường, nhập định thấy cả quả địa cầu đều rung rinh, nghĩ rằng quán vô thường của mình đã thành công, liền đem việc ấy khoe với người này người kia. Từ đó về sau, quán không còn hiệu quả như lúc trước nữa. Vị Tăng này ngạc nhiên, không hiểu lý do. Sau gặp Đại sư Trí Khải chỉ cho biết, do lỗi khoe với người nên mất công phu. Vì vậy, Thầy nhắc các vị nhập thất tu, nếu có thấy điều gì hay hoặc dở, chỉ nên trình với người có trách nhiệm hướng dẫn mình tu, nhờ quyết nghi chỗ đúng sai để biết mình tu tiến hay lùi. Không nên nói với người này người kia, khiến cho công phu mất đi. Đây là điều cần phải dè dặt. Thầy không chấp nhận việc mở khiếu huyệt, vì đó là pháp tu của ngoại đạo. Chúng ta tu hành chân chánh, đúng theo đường hướng của Phật tổ chỉ dạy, không nên học lóm của ai rồi tu sai lệch. Nên khéo suy nghĩ kỹ, sự tu hành cần phải chín chắn, nghiêm túc. Những điều học từ lời Phật dạy, được quý Thầy hướng dẫn ứng dụng tu. Nếu hiện tại tu có kết quả tốt tức là phù hợp đạo lý, còn chưa có kết quả thì cũng không có lỗi gì. Tu sai lầm có thể bị điên cuồng, không nắm vững giáo lý mà chỉ bắt chước hoặc lượm lặt của người này kẻ nọ để tu, dù tu được kết quả thì cũng là ngoại đạo. Đó là tai họa lớn. Thế nên các vị nhập thất phải cẩn thận. Tu thì phải đi đúng đường, phù hợp với chánh pháp của Phật dạy, để sau này lợi mình và lợi người. Đó là điều thiết yếu. Thầy nhắc nhở toàn chúng ghi nhớ, đừng làm sai, về sau hối hận không kịp. Mục Lục
|
Tông Môn Cảnh Huấn 1
PHÁP NGỮ DẠY CHÚNG THIỀN VIỆN CHƠN KHÔNG
Phần I - Những bài giảng phổ thông
Phần II - Những Bài Pháp Ngắn
HÒA THƯỢNG DẠY HÀNH GIẢ NHẬP THẤT TẠI CÁC THIỀN VIỆN
|
PHÁP NGỮ DẠY CHÚNG THIỀN VIỆN CHƠN KHÔNG
4. Diễn văn khai giảng khóa I tu viện Chơn Không (1971 - 1974)
5. Diễn văn khai giảng khóa II - 1974 thiền viện Chơn Không - Bát Nhã
Phần I - Những bài giảng phổ thông
Phần II - Những Bài Pháp Ngắn
HÒA THƯỢNG DẠY HÀNH GIẢ NHẬP THẤT TẠI CÁC THIỀN VIỆN
31. Thiền viện Linh Chiếu