Thiền Tông Việt Nam
Tông Môn Cảnh Huấn 1
24. Trích kinh A Hàm

1. Trả lời trong im lặng

Vua Ba-tư-nặc đến hỏi đạo Tỳ-kheo-ni Khema. Vua hỏi:

- Sau khi Phật Niết-bàn có còn chăng?

Bà Khema đáp:

- Câu này Thế Tôn thường không trả lời.

Vua hỏi:

- Như vậy sau khi Phật Niết-bàn không còn chăng?

Bà đáp:

- Câu này Thế Tôn thường không trả lời.

Vua hỏi tiếp:

- Sau khi Phật Niết-bàn cũng còn, cũng không còn chăng? Chẳng phải còn, chẳng phải không còn chăng?

Bà Khema cũng đáp:

- Câu này Thế Tôn thường không trả lời.

Vua lại hỏi:

- Vì sao không trả lời?

Bà đáp:

- Ví như trong nước có nhà toán học giỏi, thử bảo toán xem cát sông Hằng là bao nhiêu, toán được không?

Vua đáp:

- Không thể toán được.

- Lại bảo toán xem nước biển đại dương là bao nhiêu đấu, toán được không?

Vua cũng đáp:

- Không thể toán được.

Bà nói:

- Cũng vậy, Thế Tôn đã dứt sạch sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không thấy có ta và của ta. Ngài đã vào chỗ thâm sâu không thể nghĩ lường nên Phật không trả lời.

Vua lại đến hỏi Phật, Phật cũng đáp như vậy. Vua khen:

- Hay thay! Hay thay! Phật và đệ tử Phật đều nói không khác.

Bình:

Sở dĩ hỏi Như Lai còn hay không còn là bởi trong lòng còn chứa niệm ta và của ta. Vì chấp năm uẩn là thật nên ta băn khoăn thắc mắc, sợ tu hành rốt sau rồi không còn gì để nương tựa nữa. Đó là còn nghĩ đến thân để thụ hưởng. Rõ ràng người đặt câu hỏi này hoàn toàn chưa thoát khỏi năm uẩn. Người đạt năm uẩn không thật, chẳng còn có niệm ta và của ta thì sự còn mất của nó đâu quan trọng nữa!

Ví dụ có người đứng trên bến tài nhìn người lên kẻ xuống tấp nập, nhưng không hề ngó ngàng gì đến ai cả. Bất chợt thấy người thân trong đó, người này liền chạy đến hỏi han: Đi đâu, bao giờ trở lại v.v… Vì sao thế? Vì có liên hệ đến ta; còn thấy có ta là còn vương vấn. Trái lại bao nhiêu người khác vì không dính dáng gì đến ta, nên mặc tình họ đi đâu thì đi không cần để ý.

Kết luận điểm này, hễ còn nghiệp là còn sanh, còn sanh là còn chỗ để nói. Như Lai đã hết nghiệp nên không chỗ sanh, không chỗ sanh nên không thể nói, do đó chỉ im lặng, dứt hết hý luận.

2. Kinh Rùa Mù Tìm Bộng Cây

Một hôm Phật ở giảng đường Trùng Các bên sông Di Hầu, tôi nghe như vầy:

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ví như quả đất sụp thành bể cả, có một con rùa mù sống vô lượng kiếp, 100 năm mới trồi đầu lên một lần. Trong biển có bộng cây nổi chỉ có một lỗ, trôi dạt trên mặt biển theo gió sang đông tây, con rùa mù 100 năm mới trồi đầu lên tìm bộng cây, sẽ gặp được bộng cây này chăng?

A-nan bạch:

- Không thể gặp, thưa Thế Tôn! Vì cớ sao? Vì con rùa này nếu đến bể đông, bộng cây đã theo gió đến bể tây, nam, bắc; bốn phía chung quanh cũng vậy, không thể gặp nhau.

Phật bảo A-nan:

- Con rùa mù tìm bộng cây tuy sai lạc, nhưng có lúc gặp nhau. Kẻ phàm phu ngu si trôi dạt trong ngũ thú tạm được thân người, còn khó hơn con rùa mù tìm bộng cây. Vì cớ sao? Vì chúng sanh kia không hành nghĩa, không hành pháp, không hành thiện, không hành chân thật, sát hại lẫn nhau, mạnh hiếp yếu, tạo vô lượng tội ác. Thế nên, Tỳ-kheo! Đối Tứ thánh đế nếu chưa được Vô gián đẳng, phải chuyên cần tìm phương tiện mong muốn tăng thượng, học Vô gián đẳng.

Phật nói kinh này rồi, chư Tỳ-kheo nghe Phật nói hoan hỷ phụng hành.

Bình:

Qua câu chuyện rùa mù Phật dẫn trên, chúng ta xét có trái với tinh thần vô ngã của Phật giáo không? Vì chủ trương của Phật giáo là phá ngã, thấy thân ngũ uẩn giả hợp như bèo bọt không nghĩa lý gì, tại sao ở đây lại quý thân?

Thật ra ở đây nói thân này khó gặp, không phải quý thân và quan trọng nó tợ hồ một bảo vật để tôn thờ như người ta lầm tưởng, mà ý nghĩa quý ở đây là muốn nói trong cuộc sống, thời gian sống, phải làm gì cho đúng ý nghĩa của nó.

Ở đời có hai hạng người lầm chấp:

- Hạng người thứ nhất quá bi quan đối với thân này, cho nó là bất tịnh, là xấu xa, đê tiện, tạm bợ v.v… rồi muốn phá hoại cho nó tiêu tan, như câu chuyện khi Phật còn tại thế. Một hôm giảng đạo, Ngài nói về pháp quán thân bất tịnh. Sau đó Ngài tuyên bố đối với chúng Tăng sẽ ở yên thời gian ba tháng, không ai được thăm viếng chỉ trừ vị thị giả thôi. Sau ba tháng trở ra thấy số Tỳ-kheo bỗng nhiên thưa thớt đi, Ngài hỏi lý do, thì A-nan thưa rằng sau khi nghe Thế Tôn giảng về pháp quán bất tịnh, các thầy Tỳ-kheo quán thấy thân này nhơ nhớp quá nên một số thầy mướn người giết, để khỏi còn thấy nó nữa! Phật liền hợp các thầy Tỳ-kheo lại, chế giới ngăn cấm: Không ai được mướn người giết, nếu mướn giết là phạm giới. Đó là hạng thứ nhất.

- Hạng người thứ hai thì trái lại, họ quá quan trọng thân này, quanh năm suốt tháng cứ một bề lo bồi bổ tưng tiu chiều chuộng cái thân, không dám dùng nó vào việc gì, mặc dù việc đáng làm và nên làm.

Hai hạng trên đều trái với tinh thần đạo lý của Phật dạy. Phật nói thân này là vô thường, bất tịnh v.v… là chỉ rõ lẽ thật cho chúng nhận thấy để khỏi đắm mê chạy theo dục lạc. Khi hiểu rõ rồi, chúng ta lại phải lợi dụng nó để tiến tu hoặc làm các việc lợi ích cho mọi người, chứ không phải hiểu rõ lý vô thường để bi quan chán đời rồi tự tử, thật là một điều lầm lẫn!

Với cặp mắt của người tu Phật, vẫn thấy thân này là giả tạm vô thường, không đáng kể, nhưng họ vẫn mượn thân này để làm phương tiện tiến tu. Như người muốn qua sông, vẫn biết khúc gỗ mục không đáng giá chút nào, nhưng lúc chới với giữa dòng vẫn phải dùng nó làm chiếc phao khi mình chưa đến bờ. Có ai dại dột gì khi còn lênh đênh ngoài biển mà vội bỏ bè không? Cũng thế, khi chưa đạt đạo thì phải mượn thân này làm thuyền bè để đến bờ giác ngộ. Khi qua đến bờ, lúc đó bỏ bè cũng không muộn gì. Nếu chưa đạt đạo mà vội hủy bỏ thân là một điều lầm lẫn đáng tiếc!

Trong kinh chép, một hôm Phật khơi một chút đất dính đầu móng tay đưa lên hỏi trong chúng hội: Đất đầu móng tay nhiều hay đất quả địa cầu nhiều? Trong chúng hội đều đáp: Bạch Thế Tôn, đất quả địa cầu rất nhiều, so với đất đầu móng tay có thấm vào đâu! Phật kết luận: Cũng thế, chúng sanh khi bỏ thân này rồi mà trở lại được thân người rất ít như đất đầu móng tay, còn đi vào các thú thì nhiều như đất quả địa cầu.

Cũng ý này, cổ đức có câu: Thiên niên thiết thọ khai hoa dị, nhất thất nhân thân vạn kiếp nan, nghĩa là trăm năm cây sắt trổ hoa còn dễ, một phen mất thân này muôn kiếp khó tìm. Vì thế, chúng ta là hành giả đang đi trên lộ trình xa vạn dặm, phải có quan niệm chín chắn đối với thân này để khỏi phải dở dang giữa đường mà chưa đạt đến bờ kia!

3. Giữ gìn gia bảo

Một hôm Phật bảo các thầy Tỳ-kheo rằng: Này các Tỳ-kheo! Trong hàng đệ tử của ta có chia làm bốn hạng người. Thế nào là bốn?

1. Hạng người ngoài chín trong sống.

2. Hạng người ngoài sống trong chín.

3. Hạng người ngoài sống trong sống.

4. Hạng người ngoài chín trong chín.

- Thế nào là hạng người ngoài chín trong sống?

Tức là những kẻ tu hành, bên ngoài thấy thanh tịnh nghiêm trang mà bên trong thì buông lung, tư tưởng không thể điều phục.

- Thế nào là hạng người ngoài sống trong chín?

Tức là những kẻ bên trong thanh tịnh nhưng ngoài thì hạnh thô tháo phóng túng.

- Thế nào là người ngoài sống trong sống?

Tức là những kẻ trong ngoài đều không thanh tịnh.

- Thế nào là người ngoài chín trong chín?

Tức là những kẻ trong ngoài đều thanh tịnh.

Này các Tỳ-kheo! Chính hạng người sau cùng này mới là hạng thanh tịnh chân thật, xứng đáng là người giữ gìn gia bảo của Như Lai.

Bình:

Đọc qua bốn hạng người trên, chúng ta mỗi người hãy tự kiểm điểm lại xem mình thuộc hạng người nào? 

Chúng ta có phải là kẻ chỉ lo trau dồi hình tướng bên ngoài cho trang nghiêm thanh tịnh, ra dáng tu hành tinh tiến lắm, nhưng trong lòng để rơm rác đầy dẫy, chất chứa bao nhiêu là tư tưởng xấu xa đen tối, không hề có phút giây chiếu soi trở lại điều phục lấy mình. Thật hổ thẹn xiết bao! Có biết đâu dối người thì đặng nhưng dối mình thì không thể được. Một khi nhân duyên chín muồi, chiếc áo đẹp bên ngoài rã nát thì những gì chứa ẩn bên trong lâu nay bày hiện ra cả, nhân nào quả nấy, chúng ta tự thọ khổ, che đậy được đâu? Ngoài chín mà trong sống không thể dùng được.

Hoặc kẻ bên ngoài thì buông lung phóng túng, hạnh lại thô tháo, có ai nhắc nhở cho thì bảo: “Tôi tự giữ bên trong”. Thật lầm to! Nếu bên trong đã thanh tịnh thì cớ gì lại hiện tướng thô tháo? Trừ một vài trường hợp Bồ-tát hiện thân đặc biệt, vì cảm hóa một số người nào đó, còn ngoài ra e rằng chúng ta bị ma mê hoặc mà không hay. Dù quả thật chúng ta có được trong lòng như thánh chăng nữa, song chung quanh ta bao nhiêu người họ còn đang sống với phàm tình, đâu hiểu thấu được bên trong chúng ta thế nào. Do vậy, thấy hành động chúng ta quá thô, họ đâm ra hủy báng chánh pháp, chê bai Tam Bảo; vô tình chúng ta đưa họ vào con đường tội lỗi càng sâu. Như vậy chúng ta cũng chưa tròn được bản nguyện tự lợi, lợi tha. Cho nên dù mình có được trong lòng vô sự chăng nữa, nhưng vì lợi tha cần phải cẩn thận oai nghi không thể thô xuất. Đừng để trong chín mà ngoài sống.

Còn kẻ cả trong lẫn ngoài đều chẳng thanh tịnh thì sao? Hy vọng chúng ta không thuộc hạng này!

Hạng sau cùng, trong tâm sáng ngời với trí tuệ. Ngoài thân giới hạnh tinh nghiêm không chỗ khiếm khuyết, gọi là như ngọc lưu ly ngậm ánh trăng suốt cả trong ngoài. Quả thật một bậc trí và hạnh tròn đầy, không để cho thế gian tìm thấy lỗi. Được như vậy thì khỏi phải cầu Như Lai thọ ký nhưng Thế Tôn đã tán thán lắm rồi! Vậy chúng ta có phải là hạng này chăng?

Xét kỹ lại, bốn hạng trên tuy nói riêng biệt, song nhìn lại trong mỗi chúng ta cũng tự có đủ cả, đâu lạ gì? Lúc ngoài thân thanh tịnh mà trong tâm thô động là hạng thứ nhất chứ gì? Lúc ngoài thân tuy thô động mà trong tâm giữ gìn được thanh tịnh là hạng thứ hai. Lúc cả trong ngoài đều thô động là hạng thứ ba. Lúc trong ngoài đều thanh tịnh là hạng thứ tư. Ba hạng trước, hai hạng thứ nhất và thứ ba thì thiếu thực tu, hạng hai có tu nhưng còn khuyết điểm, chỉ hạng thứ tư mới là chân thật tròn đầy. 

Tóm lại, nếu chúng ta chưa hẳn như hạn thứ tư thì phải cố gắng thêm lên cho được khế hợp, sau này sẽ là bậc lợi lạc khắp nhân thiên.

4. Động cơ gây ra khổ

Thôn trưởng Na-ca-dà hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn, nguyên nhân nào kích động các khổ?

Phật hỏi:

- Nếu trong thôn ông có người chết hoặc có người bị tai nạn, ông có buồn khổ không?

- Bạch Thế Tôn, có khi buồn khổ, có khi không.

- Tại sao?

Nếu những người chết hoặc bị nạn ấy là bà con thân quyến của con thì con buồn khổ. Trái lại con không buồn khổ.

Phật kết luận:

- Gốc của sự buồn khổ là do lòng tham ái vậy.

Bình:

Động cơ chính của khổ đau là lòng tham ái. Mà cội gốc của tham ái là do chấp ngã mà ra. Từ chấp ngã nên có ngã sở, tức những liên hệ đến bản ngã như tài sản, vợ con, quyến thuộc v.v… Nếu được thì vui, cố tình giữ gìn không khi nào dám lơi lỏng, lỡ bị mất mát thì buồn bã, khổ đau v.v… Vì thế trong kinh Pháp Cú, Phật dạy:

Do ái sanh ưu,

Do ái sanh bố.

Nhược ly ân ái,

Hà ưu hà bố.

Dịch:

Do ái sanh lo,

Do ái sanh sợ.

Nếu lìa ân ái,

Đâu lo đâu sợ.

5. Pháp vẫn còn đó

Ngài Xá-lợi-phất tịch, ông Cunda sau khi thiêu xong gom lấy xá-lợi cùng y bát của ngài đem đến trình Phật. Ngài A-nan trông thấy buồn bã thưa với Phật:

- Ngài Xá-lợi-phất là thầy giáo giới cho con, con thường tin tưởng nơi ngài, mà nay đã tịch rồi! Ôi chán ngán quá! Con không còn đủ tinh thần để tu nữa!

Phật hỏi A-nan:

- Xá-lợi-phất tịch, nhưng giới uẩn có đem theo chăng?

- Thưa Thế Tôn, không đem theo.

- Định uẩn có đem theo chăng?

- Thưa Thế Tôn, không đem theo.

- Tuệ uẩn… cho đến giải thoát tri kiến uẩn có đem theo chăng?

- Thưa Thế Tôn, không có đem theo.

Phật bảo:

- Như vậy, Xá-lợi-phất tuy đã tịch nhưng pháp vẫn còn, ông cứ y đó mà tu hành, cớ gì phải buồn chán?

Bình:

Chúng ta có thói quen trông cậy bên ngoài mà ít khi tin tưởng nơi mình. Trên đường tu hành còn xa, nếu không sáng suốt nhận ra chánh pháp để thực hành đem lại niềm tin vững chắc cho chính mình, cứ phải trông cậy nơi thầy bên ngoài mãi, e có lúc ta phải chới với giữa đường, không chỗ nương tựa. Thầy dù có thương xót giúp đỡ chúng ta, nhưng cũng giới hạn. Tự nhận ra “Pháp” mới chính là ông thầy chân thật giúp ta trên trọn quãng đường đạo. “Pháp” ở đây Phật gọi là Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến, chỗ khác gọi là trí tuệ Bát-nhã, Pháp thân hay Bản lai diện mục. Chúng ta khéo sống với cái ấy mới là chỗ nương tựa lâu dài, khỏi phải buồn lo mất mát xa lìa.

6. Cái già sẵn trong trẻ 

Một hôm Phật đi khất thực trong thành Xá-vệ trở về. Chiều hôm đó nghe trong người hơi lạnh, Ngài ra ngồi phơi nắng, vén y để lộ làn da lưng nhăn nheo. Thấy vậy ngài A-nan xoa lưng Phật than rằng:

- Ôi! Da dẻ Thế Tôn không còn láng mịn như thuở xưa nữa! Lưng Ngài đã hơi khòm tới trước, còn đâu những gì của thời trai tráng!

Phật bảo:

- Đúng thế, A-nan! Già nó ở sẵn trong trẻ, cái chết nằm trong cái sống. Thân ta rồi đây cũng hư hoại, không tránh khỏi.

Bình:

Có sanh ắt có tử, có thành thì có hoại, vô thường hằng chi phối cả thế gian không chừa một ai. Dù Phật đi nữa nhưng nếu còn mang cái thân giả hợp này thì cũng đồng chịu sự sanh, già, bệnh, chết, vô thường, biến hoại. Vì sao? Vì nó là cái từ duyên mà được. 

Có một số người thắc mắc: Đã là Phật sao còn già, còn chết? Quả thật chúng ta lầm lẫn quá lớn! Thành Phật đâu phải thành cái đãy da hôi thối này. Thành Phật là thành cái tâm trí tuệ thấy đúng lẽ thật. Nếu nhận cái thân bảy, tám mươi năm này là Phật, tức là hủy báng Phật vậy. Rõ ràng người này chưa thấy được chân Phật.

Thân vàng trượng sáu, 32 tướng tốt nay thời còn đâu? Thế mà có kẻ còn muốn luyện phép này phép nọ, hy vọng ôm giữ cái thân bèo bọt này cho đến ngàn năm muôn thuở, há có phải mê muội lắm chăng?

Hiểu được lẽ này chúng ta cần phải nỗ lực tiến tu. Vì cơn vô thường hằng theo đuổi chúng ta không rời giây phút nào, cái chết chực sẵn bên ta không hẹn ngày giờ, nếu cứ dể duôi thong thả qua ngày e có lúc phải hối hận!

Chúng ta còn có thì giờ để hẹn nay hẹn mai nữa sao?

7. Có pháp môn nào

Tôi đọc trong Tương Ưng Bộ Kinh thấy một bài kinh chưa từng nghe. Bài kinh tựa là Có Pháp Môn Nào. Phật nói rằng:

- Này các Tỳ-kheo! Chẳng phải do niềm tin, chẳng phải do người truyền, chẳng phải do học vấn mà khi mắt đối với sắc, tai đối với thanh, mũi đối với hương v.v… biết có tham sân si, không tham sân si, thì cái biết ấy (biết có tham sân si, không tham sân si) là có pháp môn nào?

Bình:

Nói có pháp môn là như pháp quán Tứ Niệm Xứ, câu niệm Phật hay câu thoại đầu chẳng hạn, còn khi sáu căn đối với sáu trần biết có tham sân si hay không tham sân si thì cái “biết” đó là pháp môn gì? Ai truyền? Do học mà được chăng? Cái “biết” như thế cùng với thiền có khác nhau gì?

Ngài Tuyết Phong sau khi ở Đức Sơn về, có vị Tăng hỏi:

- Hòa thượng đến Đức Sơn được cái gì?

Tuyết Phong đáp: 

- Ta đi tay không về tay không. 

Thử hỏi ngài được cái gì? Cùng với trên có gì khác nhau? Cho nên Đức Sơn cũng nói:

- Tông ta không ngữ cú, không một pháp cho người.

Xưa nay chúng ta chỉ nghe Tổ nói, bây giờ mới nghe Phật nói, mà đây là bài kinh của Phật giáo Nguyên thủy. Chúng ta thấy rõ từ trước Phật đã nói như thế rồi, chứ đâu phải chư Tổ tự bày đặt ra.

Giờ đây, qua pháp tu Biết vọng của chúng ta hằng ngày. Có vọng biết có vọng, không vọng biết không vọng, thì cái “biết” có vọng, không vọng đó là pháp môn gì? Ai truyền cho? Cùng với cái “biết” có tham sân si, không tham sân si trong kinh đâu có khác. Kia nói tham sân si, đây nói là vọng tưởng hay vọng niệm.

Nhờ đọc kinh chúng ta mới có thêm niềm tin sâu xa vững chắc nơi đường lối tu của mình, không thì cứ chạy đông chạy tây rốt cuộc không đi đến đâu hết. Vậy thì, có vọng biết có vọng, không vọng biết không vọng. Cái biết này là pháp môn gì? 

8. Chân nhân

Trong Tương Ưng Bộ Kinh, Phật nói có bốn hạng người:

1. Hạng người thứ nhất: Không ai hỏi về cái tốt của mình mà cứ nói, huống là có hỏi.

2. Hạng người thứ hai: Có ai hỏi đến cái tốt của người, cũng chỉ nói bập bẹ, nói ngập ngừng, huống là không hỏi.

3. Hạng người thứ ba: Không ai hỏi đến cái xấu của người mà cứ nói, huống là có hỏi.

4. Hạng người thứ tư: Có ai hỏi đến cái xấu của mình thì che giấu, huống là không hỏi.

Bình:

Thấy lỗi người, che giấu lỗi mình, khoe khoang cái hay của mình và che giấu cái hay của người là căn bệnh trầm kha của con người. Nó là bức tường kiên cố ngăn cách đạo giải thoát. Vì nòng cốt của đạo Phật là vô ngã. Người muốn giải thoát sanh tử phải phá tan ngã chấp. Nếu tâm chấp ngã còn nặng trĩu thì không mong gì giải thoát được.

Sở dĩ chúng ta che giấu lỗi mình, vạch bày lỗi người v.v... là vì gốc si mê chấp ngã. Muốn dứt trừ bệnh si mê chấp ngã, điều kiện trước tiên phải dẹp trừ tâm lỗi lầm là thấy lỗi người, che dấu lỗi mình... Lục Tổ dạy: Người đời nếu thật tu hành, đừng thấy lỗi thế gian. Các việc muốn không ngại, thường phải thấy lỗi mình, như thế mới hợp với đạo. 

Trên bước đường tu tập, muốn khỏi bị chướng ngại thì phải xoay lại chính mình, tự kiểm điểm từng tâm niệm, xét nét những lỗi lầm khi tâm vừa dấy khởi. Nếu tu hành như vậy, chúng ta đâu có thì giờ rảnh rỗi để nghĩ đến lỗi lầm của kẻ khác. Người dụng tâm như vậy tiến đạo không khó. Phật gọi người này là người chân thật tức chân nhân. Trái lại, người ôm lòng chấp ngã, bươi móc lỗi người, che dấu cái hay cái tốt của kẻ khác, chính là kẻ tà vạy, không phải người chân chánh hay còn gọi là giả đạo nhân.

Vậy chúng ta nên đem những điều Phật dạy trên để làm cây thước đo lại lòng mình thuộc “chân” hay “giả”.

9. Ba thứ trí tuệ

Trong Tương Ưng Bộ Kinh, Phật nói có ba thứ trí tuệ: 

1. Trí tuệ lộn ngược.

2. Trí tuệ bắp vế.

3. Trí tuệ rộng lớn.

Thế nào là trí tuệ lộn ngược?

- Có người đến chùa hay tinh xá nghe pháp, trong khi nghe không rõ biết, không phân biệt được đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối. Ví như cái bình để dựng ngược lên, dù đổ bao nhiêu nước cũng chảy ra ngoài không chứa đựng được chút gì. Phật nói người như thế gọi là trí tuệ lộn ngược.

Thế nào là trí tuệ bắp vế?

- Có người đến chùa hay tinh xá nghe pháp, cũng phân biệt biết rõ đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối; nhưng khi đứng dậy liền quên hết. Ví như có người ngồi để bánh, kẹo v.v... trên bắp vế, khi đứng dậy liền đổ hết. Ấy gọi là trí tuệ bắp vế.

Thế nào là trí tuệ rộng lớn?

- Những người đến chùa hay tinh xá, nghe pháp hiểu biết, phân biệt rõ ràng đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối. Khi đi cũng nhớ biết và phân biệt rõ đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối. Phật nói ví như cái bình để dựng đứng, khi đổ nước vào liền chứa đựng lại, ấy gọi là trí tuệ rộng lớn.

Bình:

Chúng ta thử kiểm điểm lại mình xem thuộc loại trí tuệ nào. Là Phật tử đi chùa nghe pháp, chúng ta phải cố gắng nhận hiểu rõ ràng những nghĩa lý Phật dạy, hoặc chư Tổ nói mà chư Tăng đã thuyết giảng, để rồi sau khi ra về nhớ đó mà thực hành theo. Như vậy chúng ta mới có lợi ích, xứng đáng là người Phật tử biết đi chùa nghe pháp. Nếu đã đến chùa lại về không thì thiếu sót biết mấy, phí bao nhiêu thời giờ quý báu. Cho nên chúng ta phải học trí tuệ rộng lớn, không để trở thành trí tuệ lộn ngược hay trí tuệ bắp vế là điều đáng hổ thẹn!

Tiến lên một tầng, chúng ta có thể dùng cả ba loại trí tuệ trên. Nhưng dùng như thế nào? 

1. Chúng ta đến chùa nghe pháp mỗi lời, mỗi câu đều xoay trở về bản tâm của mình, chứ không ghi câu ghi lời, hay lấy cái hiểu của thầy làm cái hiểu của mình. Khi đã nhận rõ sự thật nơi chính mình thì những điều thấy nghe từ trước đều rỗng suốt. Cũng như cái bình lủng đáy để dựng ngược, khi đổ nước ở đáy bình thì chảy suốt qua miệng bình rồi ra ngoài, không giữ lại cái gì trong ấy, tuy nhiên bụi bặm trong đó đã bị tẩy rửa. Đó gọi là trí tuệ lộn ngược.

2. Chúng ta khi cần phương tiện nghe pháp cũng phân biệt rành rẽ đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối, hiểu rõ từng câu văn, song khi không cần liền buông hết chẳng luyến tiếc. Như khi ngồi ăn thì tạm để đồ ăn trên bắp vế đến khi đứng dậy liền bỏ rơi hết. Đó gọi là trí tuệ bắp vế.

3. Chúng ta đến chùa nghe pháp, mỗi mỗi phân biệt hiểu biết rành rẽ, nhưng không chấp lấy một điểm sở đắc, khi đi cũng phân biệt nhớ biết rõ ràng mà chính mình cũng không một điểm. Ví như cái bình lủng đáy để dựng đứng. Khi đổ nước vào miệng bình thì chảy suốt tận đáy rồi ra ngoài, tẩy sạch bao nhiêu bụi bặm mà không giữ lại cái gì trong ấy. Đấy là trí tuệ rộng lớn không bờ mé, chúng ta không thể quên.

Như vậy, ba thứ trí tuệ Phật đã nói, chúng ta có thể nói xuôi mà cũng có thể dùng ngược. Nói xuôi thì trí tuệ rộng lớn nên học, trí tuệ lộn ngược và trí tuệ bắp vế chớ theo. Dùng ngược thì cả ba đều thông, đồng một thể giác. Mỗi người hãy tự xét lấy mà dùng cho xứng đáng là người con Phật.

10. Chọn bạn

Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Phật dạy:

Người muốn chọn bạn lành, phải chọn những người có đủ ba điều khó có thể làm. Tức là: 

- Dám cho những cái khó cho.

- Dám làm những việc khó làm.

- Kham nhẫn những việc khó nhẫn.

Bình:

Đây là Phật nêu ra ba nguyên tắc để chúng ta chọn bạn. Thông thường ở thế gian kết bạn, hay theo tình cảm cá nhân hoặc đoàn thể. Người làm thợ thích chọn bạn làm thợ, kẻ công chức thích kết bạn với công chức, người thích văn nghệ ưa chơi với người văn nghệ, kẻ rượu chè thường kết bạn rượu chè... Con người thường lựa bạn cùng một đoàn thể, cùng một tổ chức v.v... mà kết duyên với nhau.

Ở đây Phật dạy kỹ hơn, Ngài bảo: Người muốn kết nghĩa bạn thân phải chọn người có những đức tánh như sau: 

1. Dám cho những cái khó cho, tức là người rộng rãi, bao dung không keo kiệt, sẵn sàng hy sinh cho bạn chẳng tiếc của cải khi thấy bạn cần.

2. Dám làm những việc khó làm, tức là người có ý chí, có lập trường vững chắc, khi ra làm một việc gì quyết làm cho kỳ được, dù gặp khó khăn thế mấy cũng không nản lòng, chùn bước.

3. Kham nhẫn những điều khó kham nhẫn, tức người có nghị lực mạnh, dù gặp những câu nói trái tai, những lời vô lý nhưng vẫn an nhiên bình tĩnh giữ thái độ hòa dịu trước mọi người, không tranh hơn thua.

Người có đủ ba đức tánh trên, ta nên gần gũi nhất định sẽ được lợi ích lớn trong hiện tại và mai sau. Tổ Quy Sơn bảo: Người gần gũi bạn lành như đi trong sương mù, tuy không thấy ướt áo, nhưng nó sẽ thấm dần (Thân cận thiện hữu như vụ lộ trung hành. Tuy bất thấp y thời thời hữu nhuận).

11. Biết xả

Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Phật dạy có ba hạng người:

- Hạng người như chữ khắc trên đá.

- Hạng người như chữ viết trên đất.

- Hạng người như chữ viết trên nước. 

Bình:

Đây là nói về người biết xả hay không biết xả.

Xả là buông bỏ. Người biết buông bỏ thì đối trước một việc gì thấy có tổn hại thân tâm liền buông bỏ không chấp giữ. Chẳng hạn khi gặp người nói trái tai, biết rõ lời nói không thật liền thông qua, không cố chấp, thì tâm tự nhiên mát mẻ. Nếu cứ khắc khoải trong lòng tất không khỏi phiền hận, từ đó có đấu tranh và đau khổ! Như chữ viết trên nước đâu thành chữ?

Trái lại viết trên đất, chữ ắt thành, còn khắc vào đá thì nguy hại to. Cũng vậy, buông xả thì phiền não không thành. Người chấp thủ nhẹ thì gặp việc bất như ý chỉ ray rứt trong lòng, nặng thì phát ra hành động; hoặc nhẹ thì khổ trong đời này, nặng thì khổ nhiều đời sau nữa.

Vậy chúng ta phải tập giống như chữ viết trên nước, dù viết bao nhiêu cũng không thành, đó là biết sống an vui đời này và đời sau.

12. Biết pháp

Trong Tương Ưng Bộ Kinh, Phật dạy có ba hạng người biết pháp:

1. Biết vị ngọt.

2. Biết nguy hại.

3. Biết xuất ly.

Thế nào là biết vị ngọt? Tức ám chỉ người si mê chạy theo sáu trần sanh tâm tham ái nhiễm trước, đắm chìm trong ngũ dục.

Thế nào là biết nguy hại? Tức là biết rõ sự vật vô thường biến diệt, là pháp đưa đến khổ đau và bất hạnh.

Thế nào là biết xuất ly? Tức là biết rõ các pháp vô thường biến hoại đưa đến khổ đau, không phải pháp chân thật an lạc, nên cầu xuất ly ra khỏi sanh tử luân hồi.

Ở đây Phật nêu ra cho chúng ta thấy hạng người khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, bị triền phược hay giải thoát.

Người không biết vị ngọt, không biết nguy hại, không biết xuất ly sẽ bị triền phược, không thể giải thoát. Ví như khi ăn thức ăn ngon, chỉ một bề chạy theo mùi vị, tham cầu không thỏa mãn, đó là người không biết vị ngọt, không biết nguy hại, không biết xuất ly.

Trái lại khi ăn thức ăn ngon, biết đây là pháp đắm nhiễm là biết vị ngọt, biết đây là pháp đưa đến khổ đau là biết nguy hại, biết đây là pháp không chân thật an lạc phải nên xa lìa, là biết xuất ly. Người biết đủ ba điều như thế tức sáu trần không thể nhiễm. Ngay đó giải thoát khổ đau.

13. Bốn thứ ánh sáng

Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Phật nói có bốn thứ ánh sáng. Thế nào là bốn?

1. Ánh sáng mặt trời.

2. Ánh sáng mặt trăng.

3. Ánh sáng của lửa.

4. Ánh sáng trí tuệ.

Phật kết luận: Trong bốn thứ ánh sáng, chỉ có ánh sáng trí tuệ là tối thượng.

Bình:

Đọc qua bốn thứ ánh sáng Phật nói trên, chúng ta hồi tưởng lại truyền sử. Sơ tổ Bồ-đề-đạt-ma khi còn làm thái tử con thứ ba của vua Hương Chí, qua cuộc thí nghiệm bảo châu của tổ Bát-nhã-đa-la có điểm tương đồng. 

Tổ Bát-nhã-đa-la đưa viên minh châu hỏi ba vị vương tử: Hạt châu này tròn sáng, có hạt châu nào sánh kịp không? Vị vương tử thứ nhất và thứ hai đều đáp: Hạt châu này bằng bảy báu quý nhất trong đời, không có vật báu nào sánh kịp. 

Vị vương tử thứ ba, tức tổ Bồ-đề-đạt-ma thưa: Đây là của báu thế gian, chưa đủ làm trên. Đối trong các thứ báu chỉ có Pháp bảo là trên hết. Ánh sáng của hạt châu này là ánh sáng thuộc thế gian, chưa đủ làm trên. Trong các ánh sáng chỉ có trí sáng là trên hết. Lại nữa, tác dụng chiếu soi của hạt châu này là chiếu soi trong thế gian, chưa đủ làm trên. Trong các sự chiếu soi chỉ có tâm chiếu soi là trên hết. Hạt châu này mặc dù có thể chiếu sáng, nhưng nó không thể tự chiếu mà phải nhờ trí sáng mới biết hạt châu này là báu.

Qua hai lối nhìn trên, chúng ta thấy ý Phật và ý Tổ đều không khác, chỉ lấy trí tuệ làm trên.

14. Biết Phật pháp có khác

Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Phật nói: Người tu tập cũng cùng một quả vị, nhưng nếu biết Phật pháp thì kết quả có khác. 

- Người tu tập sau khi chứng Sơ thiền, lúc tịch sanh lên cõi Phạm thiên. Trường hợp tu theo ngoại đạo hưởng hết phước, người ấy sẽ đọa xuống làm người. Nếu thông hiểu Phật pháp họ tu thêm sẽ chứng Niết-bàn.

- Người tu tập sau khi chứng Nhị thiền, lúc tịch sanh lên cõi Thiểu Quang thiên. Trường hợp tu theo ngoại đạo, hưởng hết phước, người ấy sẽ đọa xuống làm người. Nếu thông hiểu Phật pháp họ tu thêm sẽ chứng Niết-bàn.

- Người tu tập sau khi chứng Tam thiền, lúc tịch sanh lên cõi Biến Tịnh thiên. Trường hợp tu theo ngoại đạo, khi hưởng hết phước, sẽ đọa xuống làm người. Nếu thông hiểu Phật pháp họ tu thêm sẽ chứng Niết-bàn.

- Người tu tập sau khi chứng Tứ thiền, lúc tịch sanh lên cõi Quảng Quả thiên, cũng gọi là Sắc Cứu Cánh thiên. Trường hợp tu theo ngoại đạo hưởng hết phước, sẽ đọa xuống làm người. Nếu thông hiểu Phật pháp họ tu thêm sẽ chứng Niết-bàn.

Bình:

Bài kinh trên cho chúng ta thấy tuy tu đồng một nhân mà kết quả có khác. Bởi vì ngoại đạo không hiểu chân thật, chấp nhận tự ngã là tu tập, mong cầu có chỗ thọ sanh. Trái lại người tu Phật quán lý tứ đế thấy rõ ba cõi chưa thoát luân hồi, nhưng công phu nửa chừng, thọ mạng đã hết nên sanh cõi trời. Tuy nhiên gặp duyên nhắc lại liền nhớ tu thêm và chứng Niết-bàn, chẳng hạn nghe vị thiên tử nói pháp hoặc Bồ-tát hoặc người đồng tu khi trước hóa sanh lên nhắc nhở.

Phật ví dụ như người biết đánh trống, đi đâu nghe tiếng trống liền hiểu rõ từng nhịp điệu và thuộc loại gì. Lại như có hai đứa bé cùng chơi giỡn với nhau thuở nhỏ. Thời gian lớn lên mỗi đứa mỗi nơi, khi gặp nhau liền nhắc lúc trước đã từng chơi giỡn như vậy như vậy, liền nhớ biết ngày xưa đã tùng chơi giỡn những trò chơi như thế với nhau.

Cũng vậy, chúng ta đã có tu tập nhân Phật pháp mà chưa viên mãn, thì khi khác nếu gặp duyên nhắc lại liền nhớ không mất. Vì thế chúng ta chớ băn khoăn lỡ tu tập giữa chừng rồi bỏ thân mạng thì không biết sẽ ra sao, có còn nhớ để tu tiếp hay không. Điều cần yếu là chúng ta có công phu thiết thực và thẳng tiến, thì kiếp này chưa xong kiếp sau tu tiếp cũng chẳng mất. Chỉ trừ kẻ buông lung ngồi không chờ đợi thì không bảo đảm.

15. Một chiến sĩ giỏi

Trong Tăng Bộ Kinh, Phật nói ví như một chiến sĩ giỏi phải đủ bốn điều kiện sau đây:

1. Bắn giỏi.

2. Nhắm xa.

3. Chớp nhoáng.

4. Có sức mạnh đâm thủng khối lớn. 

Cũng thế thầy Tỳ-kheo phải đủ bốn điều kiện như sau:

1. Bắn giỏi: Nghĩa là giữ gìn giới cấm, đối với giới bổn thông thuộc gìn giữ nghiêm chỉnh.

2. Nhắm xa: Nghĩa là đối với sắc uẩn biết rõ không phải là ta, của ta và tự ngã của ta. Thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy.

3. Chớp nhoáng: Nghĩa là thấy rõ pháp Tứ đế, thông suốt pháp Tứ đế, và chứng nhập pháp Tứ đế.

4. Có sức mạnh đâm thủng khối lớn: Nghĩa là đâm thủng khối vô minh.

Được vậy mới đáng được tôn trọng cung kính cúng dường, là phước điền của tất cả chúng sanh.

Bình:

Bài kinh này Phật nêu ra bốn điều kiện của một chiến sĩ giỏi để so sánh với bốn điều kiện của một vị Tỳ-kheo chân chánh. Phàm là một chiến sĩ giỏi phải có tài thiện xạ, nghĩa là bắn giỏi, bắn xa, lanh lẹ và có đủ sức mạnh vững chắc. Cũng thế, là một Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, phải có thiện xảo đối với Phật pháp. Thiện xảo ở đây Phật dạy:

Trước tiên phải thông hiểu giới luật và giữ gìn giới cấm nghiêm chỉnh. Bởi giới luật là hàng rào để ngăn giặc phiền não không cho phát sinh, nhờ đó các hạnh lành được tăng trưởng.

Thứ hai là phải thấy rõ ngũ uẩn không thật thể, không phải là ta, của ta và tự ngã của ta, mà do nhiều nhân duyên hòa hợp tạm có. Do đó mà ta không còn chấp thân và ái trước vật sở hữu của thân. Nhờ không còn luyến ái và chấp trước nên phiền não lần lần nhẹ mỏng.

Thứ ba là đối với pháp Tứ đế phải thấy rõ, biết rõ và chứng được rốt ráo. Nghĩa là đối với Phật pháp (chân đế) và thế gian pháp (tục đế) chúng ta chứng ngộ một cách cùng tột viên mãn.

Cuối cùng là phải dứt sạch vô minh, phá tan màn si mê đen tối che phủ trí tuệ của chúng ta trong nhiều kiếp, như người tráng sĩ dùng sức mạnh phá vỡ bức thành kiên cố. Bấy giờ trí tuệ chúng ta được tròn đầy chiếu khắp cả mười phương.

Như vậy hai điểm trước là dứt phiền não, hai điểm sau là thành tựu trí tuệ. Được như thế mới đáng là bậc thầy của trời người và đáng cho mọi người tôn trọng cung kính cúng dường, để làm ruộng phước cho chúng sanh. 

16. Dòng suối

Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Phật dạy: Người tu thiền bị năm triền cái làm lu mờ trí tuệ. Ví như sườn núi có một dòng suối chảy xuống biển, nếu để nó chảy một dòng thẳng ra biển thì sức chảy rất mạnh. Trái lại, nếu chia ra nhiều nhánh thì sức chảy yếu đi. Khi ấy, nếu có ai dùng cây hoặc đá ngăn các ngã tẽ kỹ càng thì nó sẽ chảy bon bon ra biển.

Cũng vậy, người tu thiền định, nếu không bị ngũ cái che đậy thì sức định vững chắc và trí tuệ sáng ngời.

Tâm chúng ta tròn sáng như hạt minh châu không tỳ vết nhiễm nhơ, nhưng vì không khéo giữ gìn để bụi trần phiền não vô minh che phủ làm mất đi tánh tròn sáng của nó. Phiền não vô minh Phật nói ở đây chính là ngũ cái vậy. Ngũ cái là gì? Là năm thứ phiền não che đậy chân tánh chúng ta.

1. Tham dục cái, là tham đắm ngũ dục.

2. Sân nhuế cái, là giận tức, buồn phiền.

3. Thùy miên cái, là ngủ nghỉ lười biếng.

4. Trạo hối cái, là ăn năn và dao động.

5. Nghi cái là nghi ngờ do dự.

Trong năm món che đậy này, mỗi khi một món nào khởi lên đều làm cho tâm ta bàng hoàng xao xuyến, mất đi tánh bình thường, do đó trí tuệ không phát sinh được. Như trên Phật dùng dòng suối để thí dụ. Nếu để dòng suối chảy thẳng ra biển thì sức chảy rất mạnh, trái lại nếu chia ra nhiều ngõ ngách thì dòng suối phải yếu kém.

Người tu thiền muốn đạt được kết quả viên mãn phải đoạn trừ ngũ cái. Một khi đám mây ngũ cái tiêu tan thì mặt trời trí tuệ xuất hiện sáng ngời.

17. Hãy tin những gì

Một vị Bà-la-môn đến hỏi Phật:

- Nghe nói Gotama biết huyễn thuật và dùng huyền thuật ấy để lôi cuốn những người ngoại đạo, phải vậy chăng?

Phật liền nói với vị Bà-la-môn:

- Này Bà-la-môn! Ngươi chớ có tin điều gì do báo cáo đem lại, chớ có tin điều gì do tin đồn đem lại, chớ có tin điều gì do truyền thống để lại, chớ có tin điều gì do kinh điển để lại, chớ có tin điều gì do phù hợp với định kiến của mình, chớ có tin điều gì do người có uy quyền nói ra, chớ có tin điều gì do bậc Đạo sư chỉ dạy. Này Bà-la-môn! Người chỉ nên tin những gì do chính ngươi thực sự chứng nghiệm, cái đó có đưa đến an lạc hạnh phúc hay không. Ví như có người từ lòng tham sai khiến thì sẽ đưa đến an lạc hạnh phúc hay đau khổ bất hạnh?

- Bạch Cù-đàm! Đưa tới đau khổ bất hạnh. 

- Ví như người từ lòng nóng giận sai khiến thì đưa đến hạnh phúc an lạc hay đau khổ bất hạnh?

- Bạch Cù-đàm! Đưa tới đau khổ bất hạnh.

- Ví như người từ lòng si mê sai khiến thì đưa đến an lạc hạnh phúc hay đau khổ bất hạnh?

- Bạch Cù-đàm! Đưa tới đau khổ bất hạnh.

- Vậy người tham, sân, si có ai khen không?

- Bạch Cù-đàm! Không ai khen người ấy.

Phật lại hỏi:

- Này Bà-la-môn! Nếu người dứt lòng tham có làm ai đau khổ chăng?

- Bạch Cù-đàm, không.

- Này Bà-la-môn! Nếu người dứt lòng sân có làm ai đau khổ không?

- Bạch Cù-đàm, không.

- Này Bà-la-môn! Nếu người dứt lòng si có làm ai đau khổ không?

- Bạch Cù-đàm, không. 

- Vậy ngươi hãy nghe theo người ấy.

Ông Bà-la-môn nghe đến đây liền vui mừng thưa rằng: 

- Lành thay! Tôn giả Gotama khéo dùng huyễn nói huyễn, nếu có ai nghe lời giải thích của Ngài, thì đều an vui hạnh phúc. Cho đến cây sa-la kia nghe lời giải thích của Ngài cũng an vui hạnh phúc, Xin Ngài nhận con làm đệ tử tại gia, từ đây đến suốt đời con nguyện quy y Thế Tôn, quy y chánh pháp, quy y chúng Tăng.

Phật nói:

- Đúng vậy! Cho đến cây sa-la mà nghe lời giải thích của ta đây cũng an lạc hạnh phúc.

Phật chấp nhận cho ông Bà-la-môn làm người cư sĩ tại gia.

Bình:

Thế Tôn hay khéo vô cùng! Nghe người bảo mình dùng huyễn thuật để lôi cuốn kẻ khác, Ngài không tức giận mà bình tĩnh bảo: Ông chớ nghe, chớ tin... những gì do người khác truyền lại, chỉ nên tin những gì do chính mình thực sự chứng nghiệm lấy, điều đó có đưa đến an vui hạnh phúc hay không. Nếu điều đó đưa đến đau khổ bất hạnh thì dù là lời nói của bậc Đạo sư cũng chớ vội tin.

Điều này chẳng những đối với ngoại đạo mà chính trong hàng đệ tử, Ngài cũng thường nhắc: Các ông chớ vội tin theo ta khi các ông chưa hiểu ta. Chưa hiểu mà tin là kẻ si. Cho nên giáo lý của Ngài rất thực tế và rộng rãi không bắt buộc một ai.

Như ba môn học: văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ. Đầu tiên chúng ta phải nghe và học với sự sáng suốt của chính mình. Kế đó dùng trí sáng suốt suy nghiệm phán đoán xem điều ấy đúng hay sai. Sau cùng thực hành trong sự sáng suốt. Chúng ta thấy trong cả ba môn đều kèm theo chữ tuệ, nghĩa là nếu thiếu trí tuệ thì sự học không thành. Nên nói đạo Phật là đạo của trí tuệ.

Điều gì mà chúng ta chỉ nghe nói rồi tin theo là kẻ mê muội và thường rất dễ bị lừa gạt. Thế nên đức Phật gạn hỏi lại ông Bà-la-môn, người mà từ lòng tham, sân, si thúc đẩy thì đem đến an vui hạnh phúc hay đau khổ bất hạnh. Và người dứt tham, sân, si có làm ai đau khổ bất hạnh hay đem lại an vui hạnh phúc. Điều này chúng ta thấy quá rõ ràng. Những gì bắt nguồn từ lòng tham, sân, si tất nhiên là mầm mống đưa đến đau khổ bất hạnh không thể chối cãi. Trái lại, người đã dứt lòng tham, sân, si thì mầm mống đau khổ từ đâu sanh, do đó không đem lại an vui hạnh phúc cho người là gì? Vì vậy, sau khi để chính ông ấy xác định, Phật liền bảo “hãy nghe theo người ấy”.

Chúng ta ngày nay sống trong thời khoa học cũng phải thực tế như vậy, không thể mù mờ nhắm mắt tin theo một cái gì chưa sáng tỏ. Chúng ta hãy nhớ lời Phật dạy: Chớ tin theo điều gì do báo cáo, chớ tin theo điều gì do tin đồn, chớ tin theo điều gì do truyền thống để lại, chớ tin điều gì do kinh điển lưu truyền, chớ tin điều gì phù hợp với định kiến của mình, chớ tin điều gì do người có uy quyền nói ra, chớ tin điều gì do bậc Đạo sư truyền dạy. Chỉ tin điều gì do chính mình thực sự chứng nghiệm, cái đó chân thật đưa đến an vui hạnh phúc! Được vậy là chúng ta thật sống đúng với tinh thần giác ngộ của đạo Phật.

18. Sáu pháp vô thượng

Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Phật dạy thầy Tỳ-kheo chân chánh phải tu sáu pháp vô thượng. Những gì là sáu?

1. Mắt thấy sắc không ưa thích, ghét bỏ; trụ tâm ở xả, hằng tỉnh sáng.

2. Tai nghe tiếng không ưa thích, ghét, bỏ; trụ tâm ở xả, hằng tỉnh sáng.

3. Mũi ngửi mùi không ưa thích, ghét bỏ; trụ tâm ở xả, hằng tỉnh sáng.

4. Lưỡi nếm vị không ưa thích, ghét bỏ; trụ tâm ở xả, hằng tỉnh sáng.

5. Thân xúc chạm không ưa thích, ghét bỏ; trụ tâm ở xả, hằng tỉnh sáng.

6. Ý đối với pháp không ưa thích, ghét bỏ; trụ tâm ở xả, hằng tỉnh sáng.

Ai được sáu pháp như vậy là bậc Vô thượng, là phước điền của chúng sanh, xứng đáng cho trời người tôn trọng cung kính cúng dường.

Bình:

Bài kinh trên Phật dạy chúng ta tu sáu căn khi duyên sáu trần. Nghĩa là, khi mắt thấy sắc không ưa thích đắm nhiễm sắc, mà phải trụ tâm ở xả, hằng tỉnh sáng; tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều cũng tu như vậy. Tại sao? Vì sáu căn là đầu mối của luân hồi và giải thoát. Nếu sáu căn chạy theo sáu trần sanh tâm ưa thích, tức khởi niệm tham ái đắm nhiễm, liền bị sáu trần lôi cuốn trong luân hồi. Trái lại, nếu sanh tâm ghét bỏ, tức khởi niệm sân, cũng là gốc của luân hồi. Thế nên chẳng sanh yêu ghét, trụ tâm ở xả, hằng tỉnh sáng, ngay đó giải thoát, cũng gọi là Quán Tự Tại!

Ví như trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy ngài A-nan: Khiến ông lưu chuyển sanh tử bởi do sáu căn, và làm cho ông an lạc giải thoát cũng từ sáu căn mà được. Sáu căn có tầm quan trọng như vậy, cho nên người tu tập muốn được giác ngộ giải thoát, phải chế ngự sáu căn không cho chạy theo sáu trần. Như người chăn trâu luôn luôn cầm roi và sợi dây mũi chăn giữ con trâu, không cho buông lung xâm phạm vào lúa mạ của người. Mỗi khi trâu vừa liếc ngó hai bên thì phải kéo mũi nó lại. Cũng vậy khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, chúng ta phải thấy rõ sáu trần không thật, tạm bợ giả dối, như mộng ảo, như huyễn hóa, như bọt nước, như sương mai... tâm trụ ở xả, hằng tỉnh sáng, đó là thiền vậy.

Trong kinh Kim Cang, ngài Tu-bồ-đề hỏi Phật: Làm sao an trụ tâm và làm sao hàng phục tâm? Phật trả lời: Muốn trụ tâm phải không nên trụ sắc sanh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên sanh tâm không chỗ trụ, nếu còn chỗ trụ tức chẳng phải tâm an trụ. (Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, nhược vi hữu trụ tức vi phi trụ).

Như vậy chúng ta thấy Phật dạy muốn trụ tâm (tâm an định) phải không kẹt sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Nếu còn kẹt sáu trần thì tâm không thể an trụ. Không đắm trước sáu trần thì tâm an trụ tự tại. Khi tâm tự tại thì con đường giải thoát khỏi tìm đâu xa.

Đây là con đường tu thiết yếu để thoát ly sanh tử, không có con đường thứ hai nào khác. Vì thế mà Phật tổ đắng miệng, cạn lời khuyên nhắc chúng ta phải cố gắng tu tập nhiếp phục sáu căn, gìn giữ tâm ý cho thanh tịnh, hằng sống với trí tuệ sáng ngời. Được như thế mới đủ làm ruộng phước cho chúng sanh và xứng đáng để trời người tôn trọng cung kính cúng dường.

19. Trị bệnh ngủ gật

Trong Tăng Chi Bộ Kinh chép, một hôm Phật dùng thiên nhãn quan sát nơi khu rừng chư Tăng ẩn tu, thấy ngài Mục-kiền-liên đang tọa thiền bị ngủ gật, Phật liền đến dạy:

- Nếu ông ngồi bị ngủ gật nên khởi tưởng để đánh tan ma ngủ gật. Trường hợp khởi tưởng không hết thì quán pháp. Quán pháp không hết thì tụng đọc kệ chú. Tụng đọc kệ chú không hết, thì dùng hai tay nắm hai trái tai kéo xuống, xoa tay, xoa chân. Nếu còn ngủ nữa thì đi rửa mặt. Nếu rửa mặt không hết thì ra ngoài xem trăng, xem sao hoặc quán ánh sáng. Quán ánh sáng không hết thì đi kinh hành trụ tâm ở trước. Cuối cùng nếu không hết thì nằm như sư tử (nghiêng về phía tay mặt hai chân chồng lên).

Bình:

Thùy miên là một trong năm món phiền não (ngũ cái) che đậy chân tánh chúng sanh. Nó là nhân làm cho chân tánh bị lu mờ, trí tuệ không phát sinh được. Người tu thiền định muốn được tam-muội phải xua đuổi con ma thùy miên, không cho đến gần. Những phương tiện Phật dạy trên là cây roi sắt đập mạnh vào con ma buồn ngủ. Đuổi mạnh và đuổi nó đi xa thật xa, không cho bén mảng đến chỗ chúng ta ngồi tu.

20. Lựa chỗ y chỉ

Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Phật dạy người xuất gia phải lựa chỗ y chỉ và chỗ không nên y chỉ.

1. Chỗ ở nào những điều ác tăng trưởng, điều thiện tổn giảm, lại không đủ tứ sự cúng dường (cơm ăn, áo mặc, giường chõng, thuốc thang). Phật nói nên đi, khỏi thưa thầy Trụ trì.

2. Chỗ ở nào những điều ác tăng trưởng, điều thiện tổn giảm, dù đầy đủ tứ sự cúng dường cũng nên đi, khỏi thưa thầy Trụ trì.

3. Chỗ ở nào những điều ác tổn giảm, điều thiện tăng trưởng, dù thiếu bốn việc cúng dường vẫn kiên nhẫn ở để tu học.

4. Chỗ ở nào những điều ác tổn giảm, điều thiện tăng trưởng và được bốn việc cúng dường đầy đủ, dù có bị đuổi cũng cố gắng xin ở lại tiếp tục tu học.

Bình:

Bốn trường hợp trên Phật đặt ra cho người xuất gia lựa chọn để tu tiến. Bởi vì mục đích người xuất gia là giải thoát sanh tử, mà muốn giải thoát sanh tử phải thâm hiểu Phật pháp. Có thâm hiểu Phật pháp mới thực hành đúng lời Phật dạy để phá dẹp phiền não, dứt hết mê lầm.

Do đó khi vào chùa hay tinh xá, chúng ta phải đặt điều kiện tu học lên trên. Nếu chỗ nào có điều kiện tu học, giúp chúng ta tăng trưởng pháp lành, tổn giảm pháp ác thì nên ở. Trái lại, nên tìm nơi khác, dù cho chùa đó có đầy đủ bốn việc cúng dường, chúng ta cũng không nên ở. Còn như bốn việc cúng dường dù thiếu thốn, mà có tu tiến ta phải cố gắng nương ở tu học.

Mục Lục