Thiền Tông Việt Nam
Tông Môn Cảnh Huấn 1
29. Thiền viện Trúc Lâm

Huynh đệ được nhập thất thì ở trong thất kín tu, đi kinh hành ngoài hành lang thất thôi chứ không nên đi xa, như vậy sự tu mới miên mật. Tuy nhiên không thể nói chăn trâu thì lúc nào cũng phải cầm roi, dây dàm... làm dữ mới chăn được. Tùy theo chặng đường mà sử dụng cho hợp lý. 

Như trong mười mục chăn trâu, ở mục một, hai, ba thì chú mục đồng nhọc lắm, vận dụng hết sức mình để gìn giữ con trâu hoang. Nhưng từ mục năm, sáu về sau thì mục đồng ngồi trên lưng trâu thổi sáo thảnh thơi. Cũng là chăn trâu mà giai đoạn đầu rất nhọc nhằn, còn giai đoạn sau mục đồng không dùng sức nhiều nhưng cũng không rời trâu. Thế nên chư Tăng mới nhập thất tu, đừng so sánh với tôi. Tôi nhập thất rất thong thả, đi chơi ngoài vườn, nằm võng, ngồi ngó vườn thông...

Tất cả pháp tu của đạo Phật, trọng tâm đều nhắm thẳng vào niệm. Tu thiền theo Thiền tông như bứng cỏ tận gốc. Tại sao? Vì niệm dấy lên, hành giả không dùng câu gì để diệt niệm mà biết gốc niệm là hư dối, bản chất của niệm không thật, buông bỏ đi thì tâm được lặng lẽ. Hiểu cho thật kỹ mới thấy ý nghĩa đường lối tu của Thiền tông. 

Lục Tổ nói Vô niệm vi tông, tức vô niệm là nền tảng, lấy vô niệm làm tông; Vô tướng vi thể, tức là cái thể không tướng, vì còn niệm là còn tướng, hết niệm rồi thì còn tướng mạo gì; Vô trụ vi bổn, là không vướng mắc vào thứ nào, không vướng mắc hai bên thì còn trụ cái gì, đó là gốc. Gốc của tu thiền là dùng trí nhổ cho sạch niệm.

Khi Lục Tổ nói với thượng tọa Minh: Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của thượng tọa Minh? Huệ Minh ngộ ngay. Ngộ cái gì? Ngộ mặt mũi xưa nay lìa hai bên. Bản lai diện mục chính là tâm chân thật sẵn có, lìa hai bên của mình. Vừa dấy niệm hai bên thì đi trong sanh tử. Hiểu cho thật sâu, thấy cho thật rõ thì chuyện tu hành không còn gì nghi ngờ hết.

Sở dĩ ngồi thiền mình cố gắng dẹp vọng là để nó yếu đi, lúc vọng đã yếu thì công phu dẹp vọng cũng giảm dần. Khi đó mình thong thả đi đứng hoặc ngồi chơi thấy cảnh, thấy người đều không dấy niệm, giai đoạn này tu rất nhẹ nhàng. Tu càng cao phong thái càng thoải mái, người mới tu bắt buộc phải kềm chế điều phục. Trọng tâm đặt ở chỗ vô niệm, nếu còn những niệm lăng xăng sanh diệt thì phải kềm, đến khi vừa dấy niệm liền mất thì không cần kềm. 

Ngài Trần Nhân Tông nói: “Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền”. Đi, đứng, nằm, ngồi không khởi niệm chạy theo cảnh là thiền. Thiền trong bốn oai nghi chứ không chỉ trong giờ ngồi thiền. Lục Tổ đâu có ngồi thiền nhiều, chẳng lẽ như vậy là tu dở sao? Tới trình độ của ngài thì trong bốn thời hay bốn oai nghi đều là thiền, không cần dụng công hay kềm như người sơ cơ mới vào đạo.

Người mới tu điều phục cực khổ, nhất là ngồi thiền hai tiếng đồng hồ, người chưa quen thì coi như bị hành hình. Thật ra đó là sức mạnh của mình. Trước phải cố gắng thắng được cái đau của thân, rồi mới thắng được vọng niệm của tâm. Thân đau nhức thô dễ thấy, nếu thắng được nó thì từ từ sẽ thắng được tâm. Tâm tế nhị nên khó điều phục hơn, không thắng được thân thì khó thắng nổi tâm. Giai đoạn đầu thiền sinh đặt nặng thắng về thân, ngồi từ từ ráng thêm 10, 20 phút cũng đáng mừng. Thân yên rồi chừng đó mới đặt nặng về tâm. Hiểu sự tu thứ tự như vậy nên không có gì phải ngại hết.

Tu Phật là tu tâm. Chúng ta gạn lọc nội tâm, đẹp bỏ những thứ thô thiển để làm chủ nó. Làm chủ được rồi thì tâm càng sáng hơn, việc tu kết quả tốt hơn. Cuối cùng bỏ hết hai bên tiến lên bậc thánh. Vì khi bỏ hai bên thì Vô sư trí xuất hiện, như đức Phật thấy biết tất cả, không gì không biết. Cái thấy biết đó trước sau như thật, không giống cái thấy biết phàm tình. Như vậy tu thiền là phương pháp hướng dẫn làm chủ nội tâm.

* Những chướng ngại khi hành thiền 

Tôi tu thiền cay đắng hơn ai hết, không có đến một người bạn, chứ đừng nói là thầy. Một mình phải mò tìm trong kinh sách, đang tu cách này gặp trở ngại phải đổi cách khác. Cứ như vậy đổi thay nhiều lần. Cho nên, thời gian của tôi uổng phí rất nhiều. Hôm nay, tôi sẽ nói về những chướng ngại của người tu thiền cho huynh đệ rõ, nhất là quý vị nhập thất, để khi gặp thì biết mà tránh. 

Trước hết là thiền ngoại đạo, tức là ngoài tâm cầu đạo. Như thiền xuất hồn là ngồi thiền để mở khiếu huyệt trên đầu, cho thần hồn phóng ra ngoài đi cầu đạo nơi này nơi kia. Ngồi thiền đắp mền, nhét tay vô lỗ tai cho cứng, để nghe chư thiên nói chuyện, cũng không có trong đạo Phật. Ngồi tu để cầu bề trên về dựa, đi cứu nhân độ thế, hay ngồi thiền cầu được thần thông. Tất cả các lối thiền ấy đều không phải thiền của đạo Phật. 

Pháp thiền mà chúng ta đang tu, nếu không khéo ứng dụng cũng có thể thành bệnh. Thí như người ngồi thiền sợ vọng tưởng, trụ tâm trên đầu cho yên, lâu ngày sẽ bị nhức đầu. Hoặc sợ vọng tưởng mà cố gắng đè cho vọng tưởng đừng lên, đè lâu dần bị tức ngực. Hoặc có người nhập thất, cố gắng quá mức nên mất ngủ. Mất ngủ chừng năm bảy đêm là muốn điên. Cho nên, tu pháp thiền của Phật mà dụng công sai thì cũng thành bệnh, thành điên. Rất nguy hiểm.

Muốn tu thiền miên mật thì cách hay nhất là vọng dấy lên liền buông. Buông xuống thì không trụ ở trên đầu, không trụ ở ngực, chỉ nhớ buông thôi. Buông được thì không bệnh, không mất ngủ. Cho nên khi tu, thấy có những triệu chứng hơi nguy hiểm thì chúng ta phải bỏ cách đó, đổi sang cách khác, chứ giữ hoài sẽ sanh bệnh. Nếu nhập thất mất ngủ chừng hai ba đêm, thưa trình cho tôi biết, tôi dạy sửa lối tu thì hết mất ngủ, đâu có gì khó. 

Có hai cách sửa: Một là niệm dấy lên liền buông; hai là nếu trụ tâm ở đầu, nghe nhức đầu quá thì trụ tâm dưới rốn, hoặc đơn điền. Khi hít thở, chú ý dưới rốn và đơn điền, không chú ý trên đầu nữa. Chú ý một thời gian thì nguội lại thôi. Thành ra việc điều chỉnh không khó, nhưng không biết thì rất lúng túng. 

Tu thiền không điên, điên tại vì mình tu sai. Đó là điều tôi muốn nhắc cho tất cả quý vị biết. Nhất là những huynh đệ lớn, có trách nhiệm thì phải biết rành rẽ những điều này, để khi gặp trường hợp như vậy, chỉ cho người khác sửa lại.

Con đường tu đơn giản nhưng cũng rất phiền toái. Người đi từ đầu tới cuối phải trải qua nhiều giai đoạn. Trên bước đường đó, chúng ta phải biết, phải hiểu để ứng dụng tu cho đến nơi đến chốn. Tu không sai lầm thì chắc chắn có kết quả, không nghi ngờ. Nếu cố chấp giữ thái độ sai lầm thì không bao giờ tu tới nơi được.

Việc tu không phải một sớm một chiều, mà trải qua cả đời. Nếu cả đời đi sai thì uổng phí một đời, đáng tiếc lắm. Cho nên, chúng ta phải khéo tu. Đó là kinh nghiệm mà tôi đã trải qua, nay nhắc cho toàn chúng biết. Những điều Phật tổ dạy phải thực hành cho đúng. Được vậy thì đường tu mới có kết quả như sở nguyện của mình. 

Mong toàn chúng biết, nhớ và ứng dụng tu.

Mục Lục